← Quay lại trang sách

LỜI TÁC GIẢ

Do tôi có xu hướng khởi đầu các dự án mà chưa bao giờ thực sự kết thúc, khi bắt đầu viết cuốn sách này, mục đích của tôi là phải làm sao kết thúc nó. Tôi bèn hình dung một xấp giấy đánh máy nằm ngay ngắn tại một góc văn phòng của mình, và một ngày nào đó tôi có thể trỏ vào nó với ít nhiều tự hào, và nói với các thân chủ và bạn bè rằng đó là cuốn tiểu thuyết tôi đang viết. Chắc chắn đâu đó thầm kín trong bộ não của tôi, tôi đã mơ sẽ xuất bản được nó, nhưng thành thực mà nói, tôi không thể nhớ những ý nghĩ như thế, chí ít khi tôi bắt đầu viết. Nó có thể trở thành nỗ lực lâu dài đầu tiên của tôi trong lĩnh vực hư cấu.

Tôi bắt đầu viết vào mùa thu năm 1984, chỉ ba năm sau khi tốt nghiệp trường luật và vẫn còn rất non nớt. Trong những thuở ban đầu của sự nghiệp luật pháp, tôi đã trải qua nhiều giờ ở phòng xử, quan sát các luật sư giỏi xử lý các vụ án của họ. Tôi luôn bị cuốn hút bởi phòng xử, và đến nay vẫn thế. Tại tòa công khai, người ta thảo luận nhiều điều mà thường ngày họ không dám nhắc đến khi ra khỏi nhà. Những tấn kịch lớn nhất không chỉ diễn ra trên màn ảnh và sân khấu, mà còn diễn ra hàng ngày, trong vô số những phòng xử khắp đất nước này.

Một ngày nọ, phải một phiên tòa khủng khiếp, trong đó một bé gái đã tuyên thệ chống lại một gã đàn ông đã hãm hiếp cô bé một cách hung bạo. Với tôi, đó là một trải nghiệm kinh hoàng, dù tôi chỉ là một khán giả. Trong một lúc, cô bé tỏ ra dũng cảm; lúc kế tiếp, bé tỏ ra nhu nhược đến đáng thương. Tôi như bị thôi miên. Tôi không sao mường tượng nổi cơn ác mộng mà bé và gia đình đã trải qua. Tôi tự hỏi liệu tôi sẽ làm gì nếu đó là con gái tôi. Khi tôi quan sát bé khổ sở đứng trước bồi thẩm đoàn, tôi đã muốn tự mình bắn chết tên cưỡng dâm kia. Trong một khoảnh khắc ngắn nhưng kéo dài như vô tận, tôi đã muốn là cha của cô bé. Tôi đã muốn công lý. Có cả một câu chuyện ở đó.

Tôi trở nên ám ảnh bởi ý tưởng sự phục thù của người cha. Một bồi thẩm đoàn những con người trung bình và bình thường liệu sẽ làm gì với một người cha như thế? Hiển nhiên sẽ có rất nhiều thiện cảm, nhưng điều đó liệu có đủ để tha bổng hay không? Ý tưởng cho cuốn tiểu thuyết này xuất hiện trong khoảng ba tháng, lúc đó tôi chỉ còn suy nghĩ rất ít đến những chuyện khác.

Tôi viết tay chương đầu tiên trên sổ ghi chép và đưa cho Renée đọc thử. Vợ tôi thấy ấn tượng, và nói muốn được đọc tiếp chương hai. Một tháng sau, tôi đưa cô ấy xem chương hai và ba, và vợ tôi bảo đã bị cuốn vào câu chuyện. Renée thường đọc năm hay sáu cuốn tiểu thuyết mỗi tuần—những cuốn tiểu thuyết bí ẩn, gay cấn, rùng rợn, tình báo, nói chung loại tiểu thuyết—và cô ấy có rất ít kiên nhẫn với những câu chuyện không đạt.

Tôi tiếp cận việc viết cuốn sách này giống như một thú vui, một giờ lúc này một giờ lúc khác, với một nỗ lực kỷ luật nhất định để viết ra được ít nhất mỗi ngày một trang. Tôi chưa bao giờ từ bỏ. Tôi còn nhớ một giai đoạn bốn tuần lễ không viết lách gì cả. Tôi thi thoảng cũng bỏ viết một ngày, nhưng hầu hết các ngày tôi vẫn cày tới với một sự chuyên cần mù quáng. Tôi nghĩ câu chuyện là tuyệt vời, nhưng không chắc lắm về khả năng viết lách. Renée thích nó, nên tôi vẫn tiếp tục.

Sau một năm, tôi ngạc nhiên khi thấy các trang giấy đã chất lên nhanh chóng, và nhận ra rằng cuốn sách đã hoàn thành phân nửa. Mục tiêu ban đầu của tôi đã bị quên lãng, và tôi thấy mình đang nghĩ đến những hợp đồng xuất bản, những điều khoản nhuận bút và những bữa trưa hoành tráng với các giám đốc xuất bản và các biên tập viên—giấc mơ của mọi người viết tiểu thuyết chưa từng được ra sách.

Ba năm sau khi tôi khởi đầu, Renée đọc chương sách cuối cùng và chúng tôi chuyển nó đến New York. Cái tựa ban đầu là Deathknell (Hồi chuông báo tử), một ý tưởng tồi đã bị thải loại ngay khi bản thảo đáp xuống văn phòng của giám đốc xuất bản mới của tôi, Jay Garon. Jay đã đọc ba chương đầu và lập tức gửi cho tôi bản hợp đồng đại diện. Mười sáu chi nhánh xuất bản và một chục nhà xuất bản khác đã chuyền tay nhau. Jay nhận bản thảo và bảo tôi hãy viết cuốn sách nữa. Tôi đã làm theo lời khuyên của ông.

Một năm trôi qua, không có chuyện gì xảy ra cả. Tôi đang dấn sâu vào việc viết cuốn The Firm thì Jay gọi cho tôi vào tháng Tám năm 1988 với những tin tức tuyệt vời rằng cuốn sách này sẽ thực sự được xuất bản. Bill Thompson của nhà xuất bản Wynwood Press đã đọc bản thảo và lập tức mua nó. Với sự hướng dẫn của ông, tôi đã thực hiện vô số chỉnh sửa và tìm ra được một cái tựa mới, A Time to Kill . Tôi nghĩ đó là cái tựa thứ sáu hay thứ bảy mà tôi đã cân nhắc. Tôi không giỏi việc đặt tựa.

Wynwood in 5.000 bản và ra mắt cuốn sách vào tháng Sáu 1989. Nó bán tốt trong phạm vi một trăm dặm từ nhà và không được biết đến ở phần còn lại của thế giới. Không có thỏa thuận làm sách bìa thường, không có bản quyền bán sách ở nước ngoài. Nhưng đó là một cuốn tiểu thuyết đầu tay, và phần lớn những cuốn như thế không được ai biết đến. Những gì tốt đẹp hơn chỉ là tiềm năng mà thôi.

Tôi hoàn tất cuốn The Firm vào năm 1989, và gửi nó cho Jay. Nhà xuất bản Doubleday/Dell đã mua nó, và khi nó được xuất bản ở dạng bìa cứng vào tháng Ba 1991, sự nghiệp viết lách của tôi đã có một bước ngoặt kịch tính. Thành công của cuốn The Firm đã khơi dậy mối quan tâm mới đối với cuốn A Time to Kill .

Có rất nhiều phần tự truyện trong cuốn sách này. Tôi không còn hành nghề luật nữa, nhưng trong suốt mười năm tôi đã hành nghề theo cách rất giống Jake Brigance. Tôi đại diện cho người dân, chưa bao giờ đại diện cho các ngân hàng hay các công ty bảo hiểm hay các tập đoàn lớn. Tôi là một luật sư đường phố. Jake và tôi cùng độ tuổi với nhau. Tôi từng chơi bóng bầu dục ở vị trí tiền vệ tại trường trung học, mặc dù không giỏi lắm. Hầu hết những gì Jake nói và làm đều là những điều tôi nghĩ mình đã nói và làm tùy theo hoàn cảnh. Chúng tôi đều lái Saab. Chúng tôi đều cảm thấy áp lực không sao chịu đựng nổi trong các phiên tòa xử tội giết người, vốn là điều mà tôi đã cố diễn tả trong câu chuyện. Chúng tôi đều đã mất ngủ vì các thân chủ, đều đã nôn mửa tại phòng vệ sinh của tòa án.

Cuốn sách này được viết từ trái tim. Đó là cuốn tiểu thuyết đầu tay, có lúc nó tản mạn, nhưng tôi sẽ không thay đổi một từ nào nếu được cho cơ hội để sửa đổi.

Oxford Mississippi

30 tháng Một, năm 1992