← Quay lại trang sách

- VI -

Chủ nhật sau. Nam dậy sớm để cùng mấy người bạn đi xe đạp vào chơi chùa Trầm.

Qua Thái-hà một quãng và gặp một thiếu phụ mặc áo hồng ngồi trong chiếc xe nhà, chàng chợt nhớ tới màu áo Lan mặc khi đến thăn chàng. Và chàng nhớ luôn tới lời hứa đưa Lan đi mua dạ may áo.

Chàng chau mày, khó chịu, hối hận rằng đã không quả quyết từ chối phắt đi cho xong. Chàng chép miệng thở dài: “Chà! kệ xác cháu… Đến thấy mình đi vắng thì cũng thôi chứ gì! Sau này có gặp xin lỗi một câu… Đã sao”. Và chàng đều đều đạp theo đoàn xe. Nhưng từ đó trí chàng mất bình tĩnh, lòng chàng mất vui vẻ. Chàng đăm đăm tưởng tới Lan, tới nét mặt hóm hỉnh nhưng xinh tươi của Lan, hầu như bị hình dáng thiếu nữ ngộ nghĩnh, hay hay ấy đuổi theo ám ảnh, trêu tức. Nhất chàng lại băn khoăn về điều này: Là chốc nữa Lan ra không thấy chàng ở nhà sẽ nghĩ sao? Chàng cố đoán những ý nghĩ của Lan. Có lẽ Lan sẽ cho rằng chàng lánh mặt không muốn tiếp. Cũng có lẽ Lan sẽ cho rằng chàng sợ. Chàng bật cười tự nhủ: “ Sợ, sợ cái gì, sợ ai mới được chứ? Rõ mình lẩn thẩn quá! Vô lý quá!” Và chàng nói chuyện huyên thiên với các bạn để quên đi, chàng cũng chẳng hiểu để quên cái gì…

Bỗng chàng vụt nhận thấy cần phải về.

Liền bảo các bạn:

– Thôi các anh đi, tôi phải về. Cần lắm!

Rồi vội vã chàng lái xe và đạp miết trên đường Hà-nội. Mọi người không kịp kinh ngạc. Vả ai nấy đã hiểu tính Nam, không cho một hành vi, một cử chỉ gì của chàng là lạ nữa. Vì thế, họ để mặc chàng trở về, sau khi đã quay lại gọi mấy câu lấy lệ.

Nam đạp một mạch không ngừng. Vừa tới cổng chàng đã vội gọi đầy tớ để hỏi xem có ai đến chơi trong khi chàng đi vắng không. Nhỏ đáp:

– Có. Con nói ông đi chùa Trầm, nên cô ấy viết mấy chữ để lại.

Nam chau mày, khẽ hỏi lại:

– Cô ấy

Chàng nghĩ thầm: “ Cũng may, vì Lan gặp Xuyến ở đây không tiện tí nào… Tuổi Lan không nên biết người ta có nhân tình nhân ngãi.” Chàng lại nhớ câu hỏi của Lan: “Có phải không, các nghệ sĩ đều có tình nhân? ” Và chàng ngờ rằng Lan nói để nói chứ không hiểu ý nghĩa, khờ dại của lời mình.

Nam mơ màng nhìn con chim chích chòe nhảy tìm sâu bên gốc mấy cây cam và mỉm cười nghĩ tiếp: “ Tuổi Lan! mười bảy rồi, còn ngây thơ gì! ” Cách đây ba năm chàng đã yêu một cô kỹ nữ cùng tuổi ấy. Có lẽ chàng thấy Lan trẻ con, chỉ vì chàng biết Lan khi nàng còn nhỏ, chỉ vì chàng quen coi Lan vào hàng con, cháu.

“ Chứ sự thực, Lan bé bỏng gì!”

Để khỏi có vẻ mong đợi vẩn vơ “ như mong đợi người tình ”, Nam đem bức vẽ phác một kiểu bình phong bỏ giở ra sửa chữa lại. Rồi cặm cụi làm việc, chàng quên cả Lan lẫn sự mong đợi.

Mải hai hôm sau, nhận được thư Lan, Nam mới nhớ lại rằng Lan đã sai hẹn.

Bức thư của Lan:

“ Thưa ông,

“ Em xin lỗi ông, vì em đã sai hẹn. Lỗi ấy một phần ở cô giáo Mùi em, nhưng em cũng xin nhận cả. Cô giáo em vô lý quá, ông ạ. Ai lại đọc tiểu thuyết trong giờ khâu mà phạt cấm ra chủ nhật.

“ Chương trình nhà trường mới lại càng vô lý chứ! Sao không dạy con gái học vẽ như con trai mà lại đi bắt học khâu? Những viêc nữ công ấy có khó gì đâu! Ai làm chả được, mà cần phải dạy! Chừng họ tưởng công việc sau này của chúng em là khâu khâu vá vá suốt đời chăng? Nếu quả thế thì cũng buồn, ông nhỉ! Đời người phải là một đời nghệ sĩ, một đời họa sĩ, mới đáng sống, phải không ông? Em nói thế không phải em nịnh ông đâu, em không thích nịnh ai bao giờ. Nhưng em tin thế. Sống cho cái đẹp, sống để yêu cái đẹp, nói thế có đúng không ông? Hay không có nghĩa gì hết?

“ Đây cần mở một cái dấu ngoặc để cảnh tĩnh ông mấy câu, hẳn ông cho phép chứ? Sống cho cái đẹp nhưng vẫn phải sống. Còn ông thì ông chểnh mảng với sống quá. Em nói thế không phải em không nhận thấy lực độ sự sống của ông mạnh mẽ, cao sâu là chừng nào. Nhưng đây em nói về phương diện sống thường của hạng người… Thôi nói thế đủ rồi, ông sẽ hiểu. Vả đến đây xin đóng cái dấu ngoặc lại để thuật cho ông nghe câu chuyện bị phạt ra chủ nhật.

“ Có gì đâu: Em không khâu, ngồi đọc tiểu thuyết bị cô giáo tóm được. Có thế. Nhưng sự quan trọng không ở cho đó. Sự quan trọng ở chỗ: thiếu nữ và nhất là nữ học sinh có được phép đọc tiểu thuyết không? Cô giáo em cho là không. Và nếu có, thì chỉ đtrợc đọc những quyển mà các cô giáo chọn lựa cho.

“ Các cô chọn lựa? Nghĩa là các cô bắt chúng em đọc những sách mà các cô không bao giờ thèm đọc tới, phải không thưa ông? Còn những tiểu thuyết hay mà các cô ham mê thì các cô cấm học trò các cô đọc, lấy cớ rằng học trò của các cô còn ít tuổi, còn ngây thơ dễ sa ngã.v.v..

“ Lại điều này nữa, ông có biết quyển tiểu thuyết em đọc là quyển gì không? Quyển ấy đã bị bà đốc và cô giáo em liệt vào hạng bị cấm đấỵ. Vậy ông có biết là quyển gì và của tác giả nào không? Thôi ông chả đoán được đâu. Đó là quyển “ Symphonie pastorale” của André Gide, một truyện cũng không lấy gì làm hay lắm, cũng không lấy gì làm nhảm lắm và chắc ông chưa đọc. Sở dĩ em đọc là vì trước kia em sợ André Gide, coi ông ta như một tác giả sâu sắc bí hiểm quá quắt. Một hôm em đọc bản dịch truyện “La porte étroite” của Đỗ-đình-Thạch thấy dễ và cũng hay. Thế rồi chủ nhật trước, khi ở nhà ông về em gặp một người bạn trai cầm quyển “Symphonie pastorale ”, em mượn liền. Sách có hai truyện. Nhưng em chỉ mới đọc xong truyện “ Symphonie pastorale ” thì sách bị tịch thu.

“ Ông có muốn em thuật lại câu chuyện cầu kỳ ấy cho ông nghe không? Phải đấy, em kể cho ông nghe để ông được biết bà đốc và cô giáo em vô lý đến bực nào..

“ Đây này:

“ Một giáo sĩ – chừng một giáo sĩ như giáo sĩ đạo Tin-lành ở đây – một hôm gặp một cô bé mời đến chữa cho một bà lão già ở một xóm hẻo lánh. Giáo sĩ đến nơi thì bà lão đã chết. Người còn sống ở cái nhà ấy duy có một thiếu nữ. Nói thiếu nữ ngay thì cũng hơi không đúng, vì lúc bấy giờ đó chỉ là một con mọi, bẩn thỉu, hôi hám, quần áo nhung nhúc những rận và rệp. Khốn nạn cùng cực, con người ấy lại vừa mù vừa câm.

“ Sự thực, người ấy chỉ mù, sinh ra đã mù, chứ không câm. Người ấy không nói được là vì từ thuở nhỏ ở với bà (người chết) mà bà không nói với một câu.

“ Giáo sĩ đưa về nuôi, vì thấy đứa trẻ mồ côi không còn một thân thích nào ở đời. Bà vợ giáo sĩ không bằng lòng nhưng vì tòng phục chồng nên không dám hé môi. Giáo sĩ cắt tóc, tắm gội, thay quần áo cho người mù. Và cách đó ít lâu nhận ra rằng đó là một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần, và thông minh tuyệt trần nữa.

“ Từ đó bắt đầu cuộc nhạc tấu nơi thôn dã – la symphonìe pastorale. Giáo sĩ yêu thiếu nữ, thiếu nữ yêu giáo sĩ, trước còn yêu như cha với con. Sau tình cha con đổi ra tình yêu vắn tắt. Nhưng tình yêu ấy vẫn âm thầm và… đau đớn. Giáo sĩ có một người con trai ngoài hai mươi tuổi. Cố nhiên anh chàng cũng yêu thiếu nữ, nhưng không được thiếu nữ yêu lại, hay đúng hơn, không được thiếu nữ yêu như yêu người cha.

“ Giá cứ thế mãi thì chỉ có một người khổ, người ấy là vợ giáo sĩ. Bà đã trông thấy rõ tình yêu của chồng và của con. Nhưng một bác sĩ lại đem mổ mắt và đem ánh sáng đến cho thiếu nữ. Ánh sáng tai hại! Vì thiếu nữ trông rõ sự thực: Cái đẹp biến đổi hẳn, khác hẳn, trái ngược hẳn với những lời dạy tươi sáng mà giáo sĩ đã vẽ vào khối óc mơ mộng và ngây thơ của nàng.

“Và nàng chết, ngã xuống sông mà chết trong lúc nàng nghiêng mình trên làn nước để ngắt mấy bông hoa. Hấp hối, lời nói cuối cùng của nàng là ngỏ cho giáo sĩ biết rằng lúc mù nàng cứ tưởng dung nhan giáo sĩ đẹp như những lời giáo sĩ nói, như cái giọng êm dịu và ngọt ngào của giáo sĩ. Nhưng sự thực, cái đẹp ấy chỉ có trên dung nhan người con: người ấy đã thất vọng vì tình và đã xin vào nhà tu kín.

“Ông có thấy truyện cảm động khộng? Em thì em thấy vô lý. Vì sự thực chỉ có một. Cái đẹp cũng chỉ có một. Cái đẹp tưởng tượng trong khi mù vẫn là cái đẹp trước mắt khi đã sáng. Lỗi là ở chỗ thiếu nữ không biết nhìn hay nhìn sai vì quáng lòa trong ánh sáng đột ngột rực rỡ.

“Đó, truyện đã làm em bị phạt. Ông có thấy nó nhảm nhí và nguy hiểm không? Em cho nó quá đạo đức nữa. Người ta có thể dùng làm bài dạy luân lý được: các thiếu nữ ngây thơ không nên tưởng tượng mơ màng, vì khi tỉnh ngộ sẽ bị thất vọng. …

“Nhưng xin lỗi ông. Em đã viết cho ông một bức thư quá dài để bắt ông mất thì giờ đọc. Nhất em lại viết huyên thuyên chẳng đâu vào đâu. Chủ nhật sau em sẽ ra tạ lỗi ông một lần nữa.

“ Kính thư

Lan ”

Nam đọc một mạch hết bức thư. Rồi vân vê mấy mảnh giấy trong tay, chàng xem lại từng đoạn. Chàng thấy Lan triết lý, triết lý quá. Và chàng mỉm cười tự nhủ: “ Bọn mới lớn lên họ vẫn thế, nhất về bên phụ nữ. Họ thích triết lý lắm. Bất cứ một việc gì, dù đơn giản đến đâu, họ cũng thấy có một triết lý sâu xa ơ trong ”.

Điều nhận xét thứ hai của Nam là trong thư Lan không xưng con hay cháu nữa. Lan xưng em. Có lẽ cũng như chàng, Lan đã thấy tiếng “ con ” không tiện. Và chữ “ em ” đây, nàng chỉ dùng để thay chữ “tôi” quá sơ.

Nhưng sao Lan lại đem truyện “ Symphonic pastorale ” ra kể với chàng? Nam chau mày suy nghĩ, như để cố tìm ra một cớ gì. Ừ, chẳng lẽ chỉ để xin lỗi vì không ra được mà phải thuật dài dòng một truyện đã đọc? Nam ngờ rằng Lan đã bịa ra chuyện bị phạt để lấy cớ viết thư. Chàng biết nhiều thiếu nữ khi đọc được một quyển sách thì thế nào cũng tìm cách để khoe khoang với những người quen thuộc. Huống quyển truyện Lan đã xem lại là một tác phẩm của André Gide, một văn sĩ có thể làm tăng giá trị người đọc.

Và Nam mỉm cười, lạnh lùng bỏ bức thư vào ngăn kéo, rồi đi làm việc.