Chương 2
RIÊNG về ông Giáo, từ lúc hay tin con bé bị bắt giữ ở khám Mỹ Tho, ông luôn luôn hướng về ngày nó sắp được thả nên dáng điệu bớt bứt rứt hẳn. Bà nội nhận xét rất đúng: buổi trưa hôm nào, sau khi con Hoa đi, dáng điệu bố nó cực kỳ bứt rứt. Ông Giáo bị bắt vào ngày song tứ 4-4-1976 – thuộc diện “văn-nghệ-phản-động.” Họ thoạt giữ ông ở sở Công an đô thành, rồi chuyển sang T.20 tức trại giam Phan Đăng Lưu bên Gia Định, ở đây hơn một năm họ chuyển ông lên trại lao động cưỡng bách tại một thung lũng thuộc cao nguyên Gia Lai-Kontum. Cô trưởng nữ Hoa – lời ông Giáo vẫn thường gọi vậy – là đứa con đầu tiên vượt ngót chín trăm cây số từ Sài Gòn lên vùng thung lũng cao nguyên đó thăm nuôi bố. Ngồi đối diện với bố, Hoa chỉ biết khóc. Quen chứng kiến cảnh ông bố hiền hậu từ xưa tới nay được người ta quý mến nay chứng kiến lũ người thô lậu lời ăn tiếng nói nhất cử nhất động biểu lộ căm hờn hách dịch, Hoa chỉ biết khóc. Rút cục mười lăm phút bố con được phép đối diện chẳng nói với nhau được bao lời.
Sau hơn hai năm bố ở trại lao động cưỡng bách này, Hoa lại một lần tới thăm nuôi bố. Ông bố cười nói: “Bố có cảm tưởng trước đây con khai mạc, giờ đây con bế mạc một chu kỳ, bố được thả đến nơi.” Lời nói vui để tự an ủi đó, ai dè đúng sự thực. Ba tuần sau ông Giáo được thả do sự can thiệp trực tiếp của Hội Ân Xá Quốc Tế với chính quyền Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa.
Khoảng thời gian hơn hai năm ông Giáo ở thung lũng cao nguyên thì tại Sài Gòn Hoa làm lễ hứa hôn với Lịch, chàng trai quắc thước tháo vát, sĩ quan Không Quân mới học tập về, từng đã theo đuổi Hoa từ nhiều năm về trước, hồi còn chính phủ Quốc Gia. Khi nhận được tin này ông Giáo mừng lắm và viết thư về giục gia đình làm lễ thành hôn cho hai trẻ sớm ngày nào hay ngày đó đi. Tuổi xuân có hạn, chúng nó trai to gái lớn cả rồi. Ông Giáo nhận được thư bà giáo nói chúng nó mới đi kinh tế mới về nên gầy lắm. Thoạt ông thật thà tưởng chúng ngoan ngoãn theo lệnh chính phủ đi lập nghiệp tại vùng kinh tế nào rồi thất bại trở về. Nhưng khi đọc hết bức thư qua vài lời bóng gió nữa, ông vỡ lẽ chúng đã vượt biên bằng đường biển thất bại. Đó là khoảng tháng ba năm 1979. Nguyên do như thế này.
Lịch, vị hôn phu của Hoa, đã học được nghề tài công (lái tàu), anh chàng lái tàu rất thận trọng, có lương tâm nhà nghề. Một ụ đóng ghe ở khoảng giữa Long Xuyên và Cần Thơ vừa hoàn thành một chiếc ghe lớn (mà danh từ thời thượng cứ gọi là tàu) bề dài 22 mét, bề ngang 4 mét. Chủ ghe bắt liên lạc mời Lịch phụ trách chân tài công trong thủy thủ đoàn. Thế là Hoa Lịch quyết định cùng vượt biên trên chuyến tàu đó. Hai hôm đầu Lịch cùng thủy thủ đoàn sắp xếp chỗ ngồi cho khách vượt biên nơi hầm tầu, thu xếp lương thực, dự trữ nước ngọt cùng than để thổi, nấu. Hết ngày thứ ba, về khuya, ba du kích xã ập tới bắt giữ trọn ổ cả thủy thủ đoàn lẫn một số khách vượt biên. Kế đó công an xã tới.
Lý do: tiền đã chạy đầy đủ với cấp tỉnh nhưng vì sự chia chác từ trên xuống dưới không đều, công an bèn lật mặt bắt. Họ bắt mọi người phải rời thuyền tức khắc, lúc đó khoảng mười hai giờ khuya rồi, Lịch đã kịp nói với Hoa: “Em hãy lục trong lẳng xa1chh tay của em và liệng đi hết bằng tài công, giấy tờ học tập và chứng chỉ đại học.”
Hoa vừa đi vừa mò ra được những giấy tờ đó, vò nát cho gọn nhỏ mà không dám vứt xuống đường vì đêm đen giấy trắng công an áp tải có thể phát hiện ra ngay. Mãi tới lúc mọi người ra tới đường lớn, có chiếc Citroen đợi đó, Hoa mới có dịp lẳng những giấy tờ vo tròn đó vào một bụi rậm. Lần đó họ nhốt mọi người ở một trại tập trung giữa đồng không mông quạnh thuộc vùng Thốt Nốt, ăn uống tắm rửa đều là nước lạch. Điều kiện vệ sinh quá thiếu thốn, hầu hết mọi người đều ghẻ lở, tiêu chảy, riêng Hoa bị kiết lỵ khá nặng, may xin lại được số thuốc họ tịch thu, loại trụ sinh cực mạnh, Hoa mới khỏi. Bị giam giữ trên một tháng, đám vượt biên đó được thả. Về nhà mẹ thoạt không nhận ra Hoa. “Trời ơi, làm sao mà mày như người dưới hố đào lên thế con!” Bà giáo vừa nắm tay con vừa khóc vừa nói. Nhẫn, vòng vàng, tiền, tờ giấy hai mươi đô-la, tất cả mất sạch.
Ông giáo thương lũ con vô cùng. Ngày xưa làm được đồng nào ông nuôi chúng ăn học đầy đủ, ngày nay ông càng thương chúng vì thiếu thốn đủ thứ. Đã đành ông thương chúng như cha thương con, ông còn thương chúng như đạo hữu thương đạo hữu trong pháp nạn, như đám chúng sinh đói khát khổ nạn, thương chúng bằng thứ tình nhân bản tinh lọc nhất. Ngay thuở còn trong trại lao động cưỡng bách, ông đã viết thư về nói với tám con là ông cám ơn Trời Phật đã ban cho ông tám vị bồ tát. Khi Hoa làm lễ hứa hôn với Lịch, ông viết thư về mừng con và mừng cho gia đình thêm một vị…bồ tát nữa. Đám con đọc thư bố cùng cười hô hố và đồng ý viết vào với ông là: “Bố ơi, xin bố cứ yên chí, chẳng bao lâu nữa gia đình nhà ta sẽ có đủ mười sáu vị bồ tát.”
Sau ngoát bốn năm bị giam cầm, ngày được thả về tới nhà, ông nhìn lũ con thấy chúng lạ hẳn. Những đứa đã lớn hết cỡ trước đây, nay thành già dặn chín chắn; những đứa con nhỏ trước đây, nay lớn bồng. Vi, đứa con trai thứ hai, cao vồng tới một mét bảy mươi lăm, cao hơn bố gần mười phân; Hy đứa con trai thứ ba, hồi còn nhỏ mặt tròn xoay compas được, nay lớn khuôn mặt dài ra thành trái soan; Thiện, thằng con trai thứ tư cũng lớn đến mức ông lầm nó với thằng con trưởng lúc ông chưa kịp đeo kính cận (ông về tới nhà, gọi cửa khoảng năm giờ sáng). Điều ngộ nghĩnh là sau đó ông nhận thấy những đứa con ông – trừ cô trưởng nữ đã hứa hôn và cô út còn quá nhỏ tuổi – đứa nào cũng bắt cặp. Tuy chúng gặp nhau trong triển vọng thành đôi lứa, nhưng hiện trong thời gian chờ đợi chúng thực tình coi nhau như bạn thân hoặc như anh em họ xa họ gần. ông bà giáo cũng thực tình coi đám bồ của con như hệt lũ con cháu trong nhà. Chúng đã tuần tự tổ chức “những buổi văn nghệ bỏ túi” – lời chúng thường dùng – để mừng ông giáo đã được thả về.
Đêm có chủ đề “Du Ca,” chúng mời được những tay đàn anh du ca “thời ngụy” tới cùng trinh diễn.
Đêm có chủ đề “Tình ca tuổi trẻ,” Vi, thằng con thứ hai của ông Giáo trình diễn với cây đàn lục huyền cầm Tây Ban Nha ba giai điệu xinh xinh của nó mà các anh chị và bạn bè gọi đùa là concerto số 1, concerto số 2, concerto số 3. Đêm nhạc chủ đề “dân ca” có mấy người học trò cũ của ông giáo tới trình diễn dân ca ba miền, đặc biệt những bải hát quan họ trữ tình Bắc Ninh. Đúng như lời trưởng nữ có lần viết thư cho ông: “Bố mà được về chuyến này bố nghe nhạc mệt nghỉ.” Được cái căn nhà ông Giáo ở tít sâu trong ngõ hẻm, xung quan toàn đám dân “ngụy,” “phản động” nên những cuộc họp văn nghệ bỏ túi đó không hề gặp trở ngại gì. Gia đònh ông vốn có nếp sống phóng khoáng thoải mái và hiếu khách như vậy, nên tất cả lũ bè bạn con cái ông, ai tới một lần là mến ngay.
Quá gần gũi và thương yêu các con nên lần này khi được Hoa báo cho biết ngày nó sẽ đi, ông bàng hoàng, sững sờ đến rã rời cả người, mặc dầu
Hoa còn ở nhà hai ngày nữa. Ông nhớ lại thuở ông chào cha mẹ ở quê nhà, năm 1954, rồi mang hai con và cô em gái (Quỳ) ra Hà Nội ngụ lại nhà bà dì để sớm hôm sau lên đường vô Nam. Ngày đó lên chiếc Dakota của phi trường Gia Lâm, bà Giáo bế Hoa mới hai mươi sáu tháng, ông bế con em nó, con Ánh, mới hai tháng rưỡi. Cuộc biệt ly nào như vậy người ta cũng tự an ủi là tạm biệt mà thực ra là vĩnh biệt hay gần như thế (ông Giáo với cha há chẳng vĩnh biệt từ ngày ấy.) Chính vì ý thức được điều này mà từ lúc hay con sắp ra đi lòng ông nặng trĩu u sầu (lòng bà Giáo nào có khác gì, người nọ giấu người kia đó thôi.) Đôi khi không chịu nổi, ông ngồi thiền, và mặc dầu đã “gồng mình” cố điều khiển hơi thở tĩnh tâm mà cơ hồ vẫn không xong.
Rồi một ngày qua mau, nghĩ rằng chỉ còn một ngày nữa biệt ly con, ông thấy nghẹn ngào thắt ruột. Trưa, nói chuyện thời sự lạc quan với con cho nguôi ngoai đi đôi chút. Hoa nhắc lại những ngày bị giam giữ ở trại Thốt Nốt, tuy không được gia đình tiếp tế nhưng những người đồng cảnh vẫn chia sớt đều thức ăn cho Hoa. Đặc biệt bên phòng đàn ông, Lịch gặp một ông bạn mới quá tốt, gia đình tiếp tế cho nhưng gì đều chia ba; hai phần của hai người đàn ông, một phần gửi sang phòng nữ cho Hoa. Có lần có chiếc bắp cải, hai người đàn ông bẻ ăn những lá úa ngoài, phần nõn gửi sang cho Hoa.
Nghe con kể xong ông giáo kết thúc câu chuyện: “Cõi đời có bao giờ thiếu người tốt đâu, con ơi. Có thể khẳng định người nào cũng tốt, chỉ cần mình có đủ thiện tâm dùng làm hùng lực thổi bùng phần tốt đó ở mỗi người. Bố bao giờ cũng lạc quan về con người, con ạ.”
Buổi tối bà giáo đi soạn thuốc cho con gái. Hàng tháng – đã từ mấy năm nay, kể từ sau ít ngày ông Giáo bị bắt giữ - bà vẫn nhận được quà yểm trợ của các bằng hữu từ Pháp, thường là một hộp đủ các loại thuốc cần yếu, bên ngoài đề rất rõ: “Những thứ cần thiết của gia đình!” Phần nhỏ bà giáo dự trữ cho gia đình dùng, phần lớn bà bán dần lấy thêm tiền nhật dụng. Buổi tối nay bà đặc biệt soạn thuốc trị tiêu chảy, thuốc trị kiết lỵ và một số thuốc bổ toàn diện cho Hoa. Bà còn nhớ lần trước, con bé về “như người dưới hố đào lên.” Suốt một tuần bà ra sức tẩm bổ cho mà con bé vẫn gầy vêu, nằm bẹp dí trên giường. Thấy mẹ soạn thuốc, Hoa tiến lại gần bị bà đuổi đi. Ngược lại với ông Giáo, bà Giáo càng thương xót con càng không dám gần con, nhìn con. Cứ nghĩ đến ngày nó đi khuất rồi đành là mẹ con vĩnh biệt, bà chỉ còn biết giấu mặt khóc thầm. Thấy Hoa lại định đến gần lần nữa, bà quát lên giọng nghẹn ngào u uất: “Mày cút đi chỗ khác cho tao soạn thuốc, công tao đẻ ra mày, nuôi mày lớn ngần ấy bây giờ mày bỏ tao, mày còn sán lại đây làm gì!” Hiểu thấu lòng mẹ Hoa rơm rớm nước mắt bước đi.
Sáng hôm sau, ngày cuối cùng Hoa còn ở nhà, Hoa mời bố và các em đi ăn phở. Ông Giáo thiết gì ăn, nhưng ông muốn gần con. Mỗi lần nghĩ đến giờ phú sinh ly sắp tới ông vẫn thấy thắt quặn nơi bụng, rã rời chân tay, lòng rầu rĩ, tim nặng nề thiểu não, người như phát sốt. Mọi người ăn xong, Hoa mang theo một ga-men đầy phở về cho bà nội và mẹ. Rồi giây phút sinh ly cũng phải tới. Ông Giáo thấy Hoa khoác túi nhỏ lướt tới gần ghé bên tai ông nói khẽ: “Bố! con đã chào bà, chào mẹ. Con đi!” Hương, đứa con gái út, đương tập dương cầm.
Thực ra Hoa chỉ ôm hôn bà nội và nói dối là đi thăm bạn vài ngày. Với mẹ Hoa có nói: “Con đi, mẹ!” Và bà Giáo không dám quay đầu lại chỉ nói được: “Ừ, con…” Mất chữ “đi” vì nghẹn lời. Ông Giáo nghe con nói dứt lời bàng hoàng hẳn, đất trời như sụp đổ. Ông cố điều hòa hơi thở giữ bình tĩnh lặng đưa mắt nhìn Hoa lướt ra cửa. Thiện, đứa em trai áp út đã âm thầm đứng ngoài cửa, tay giữ chiếc xe đạp đợi đèo chị tới chỗ xuống ghe taxi (tiếng lóng chỉ ghe nhỏ chở chừng ba bốn người táp vào thuyền lớn.) Chắc chắn nhiệm vụ đó Thiện đã được chỉ định trước, tới giờ chỉ việc lẳng lặng thi hành, tránh làm xao động tình cảm mọi người khác trong nhà. Bé Hương vẫn tiếp tục tập dương cầm không đưa mắt nhìn theo chị. Bé còn quá ngây thơ và vô tư. Ông Giáo tiến ra cửa và nhìn theo xe hai chị em nó vừa ra khỏi hẻm, khuất theo một ngả đường lớn. Ông Giáo đeo kính và cũng thủng thẳng đi theo đường hẻm ra đường lớn. Bóng hai con khuất rồi còn đâu. Bóng chim tăm cá biết chúng đương tiến trên ngả đường nào! Ông Giáo rẽ sang một con đường lớn khác dừng lại trước một cổng trường sắp tan học như thể ông cũng đợi đón một đứa con hay một đứa cháu sắp tan học.
“Khoảnh khắc mà là thiên thu.” Từ trước tới nay ông chỉ nghĩ tới câu đó trên quan điểm hạnh phúc. Hạnh phúc tràn đầy khoảnh khắc sánh tày thiên thu! Ông quên rằng khổ đau của cả thiên thu cũng có thể gom lại trong khoảnh khắc. Ông thương nhớ đứa con ra đi biết chừng nào. Nhớ thương nó trong khoảnh khắc này cũng trùn điệp u uất bằng cả thiên thu gom lại. Một chiếc xe hơi ngang qua. Ông Giáo nghĩ đùa: “Bố sẽ mua chiếc xe hơi như vậy lái xe đến thăm con ở nước ngoài, hay ở trong nước khi tình thế đã đổi thay, con đã về.” Nhưng cũng chỉ vui được vài giây. Ông trở về. Đứa con gái út – Hương – vẫn cần cù tập dương cầm. Bé đương ôn bài L’Adieu của Dussek, bé vô tư nhưng bản nhạc thật hợp cảnh hợp thời. Bé ngồi ngay ngắn chững chạc, tiếng nhạc diễn tả lời chào vĩnh biệt của Dussek vẫn nhẹ nhàng mà vẫn thật man mác, thật ngậm ngùi. Ông Giáo mỉm cười nhìn đứa con gái út còn ngây thơ nên thoát được u sầu của cuộc sinh ly này. Ông nghĩ đến Ánh, đứa con gái thứ hai hiện đang dạy ở Vũng Tàu (ngày di cư vào Nam bố bế lên chiếc Dakota nó mới có hai tháng rưỡi.) Chẳng biết giờ này Ánh có cảm thấy nóng ruột và trái tim có nặng u sầu như bố, do thần giao cách cảm? Chẳng biết cuối tuần này, Ánh có về thăm gia đình để biết chị đã đi.
Ba giờ chiều ông Giáo nhận được thư của Chu, cô em gái ngoài Bắc, nói đương thu xếp công việc ngoài đó để chừng một tháng nữa lại có mặt ở Sài Gòn. Thế là hai anh em sắp được gặp nhau sau hai mươi sáu năm – trên một phần tư thế kỷ, ghê chưa – xa cách. Ông ia1o níu lấy niềm vui đó để quên mối sầu hiện tại. Cô em gái đảm đang đó đã thay ông tảo tần buôn bán vào những ngày đầu tiếp thu Hà-Nội Hải-Phòng sau hiệp định Genève, đã thay ông phụng dưỡng cha mẹ, săn sóc nâng đỡ các em từ sau ngày ông di cư vào Nam. Hai anh em chuyến này gặp nhau có biết bao nhiêu chuyện để hàn huyên tâm sự. (Lần đầu tiên Chu vào – cách đây hơn hai năm – cũng không được gặp anh – giống trường hợp bà nội.)
Một ông sư khất thực mặc áo vàng, vẻ bình thản đứng khá lâu trước cánh cửa mở ngay sát phòng khách. Ông Giáo vội vàng cung kính biếu nhà sư một đồng.
Thiện đã đưa chị tới bến xuống ghe taxi xong, đương dắt xe vào nhà.
May sao buổi chiều có người học trò cũ đến biếu ông giáo một tấm vé tới xem đoàn vũ bal- let Odessa của Liên Sô biểu diễn ngay tối hôm đó tại Câu Lạc Bộ Lao Động, tức Cercle Sportif Saigonais cũ. Quả thực, đây là một trong những trường hợp cực kỳ quý báu ông Giáo được tiếp xúc với cái Đẹp (Nghệ Thuật) thực sự. Ông được xem những màn vũ của đàn thiên nga trắng muốt, một màu trắng trong suốt, cao quý, có tác dụng kỳ diệu lọc trong tâm hồn và giúp tâm hồn bay bổng vào một vùng trăng sao lồng lộng. Đó là nhữ vũ khúc Hồ Thiên Nga, Hằng Nga Ngủ Trong Rừng nhạc Tchaikovsky và Cái Chết của con Thiên Nga nhạc Saint Saens. Ngay khoảng thời gian mấy năm trước đây, hồi du học bên Hoa Kỳ, ông đã ao ước biết bao nhiêu được xem những vũ khúc bất hủ đó của Liên Sô mà không được. Những nghệ sĩ chân chính kia đã gột rửa giúp đi bao nhiêu là bùn nhơ hôi hám chính trị. Giấc ngủ đêm đó của ông Giáo êm ả, màu trắng của đàn thiên nga đã thoa dịu mối sầu sinh ly tưởng không cách gì làm nguôi cho được.
Sớm hôm sau ông Giáo lượm những bông hoa khô héo trong các bình hoa (bày rải rác trong phòng khách) đem vứt vào thùng rác. Cô trưởng nữ có khiếu đặc biệt về nghệ thuật cắm hoa. Những chùm hoa ti-gôn, những cành hoa trạng-nguyên mầu đỏ, nhưng dây hoa bìm bìm mầu tím, những cụm cỏ đuôi chồn, những cụm bông lau…nói tóm lại bất kỳ một loài hoa cỏ nào tầm thường đến mấy, lượm ở bất kỳ đâu, đến tay Hoa cũng thành những bình hoa trang trí thật đơn giản mà thật có nghệ thuật. Tất cả những bạn bè ông Giáo đến chơi ngắm những bình hoa, lẵng hoa đủ kiểu đặt rải rác trên bàn nước, trên dương cầm, trên bàn học ngay phòng khách, đều tỏ lòng mến phục. Rồi đây – ông Giáo nghĩ thầm – biết có ngày nào nữa không, bàn tay con lại trang hoàng phòng khách cho bố. Ông Giáo sờ lên đầu, tóc dài và rối bù. Trước đây Hoa vẫn sửa tóc cho bố bằng mince lame. Hồi ông Giáo còn ở trại cưỡng bách lao động, một lần Hoa viết thư vào: “Bao giờ bố được thả về con lại cắt tóc cho bố.” Vậy mà lần này Hoa đi chưa kịp cắt tóc cho bố. Biết có ngày nào nữa không con tự tay cắt tóc cho bố?