← Quay lại trang sách

Chương 3

KHI biết cháu gái đã ra đi, bà nội dậy từ sớm tinh sương thắp nhang vái tứ phương rồi niệm Phật, được hai ngày thì gia đình hay tin Hoa bị bắt giữ. Đó là chuyến vượt biên thất bại thứ hai của Hoa. Nó tuổi Thìn vất vả thế đấy

– Cụ nghĩ. Cụ bỗng giật mình hớt hải hỏi thằng trưởng về ba đứa cháu ngoại:

- Này anh, thế con Bích đâu, không thấy nó tới tập đàn? Con Vân thằng Tỷ đâu? Không thấy đứa nào tới ngủ để bà xoa lưng gãi đầu?

Thực ra đây là một điều khác ông Giáo giấu mẹ.

Quỳ, cô em gái cùng di cư vào Nam với ông, cũng tốt nghiệp Đại học Sư Phạm vào ngành giáo, lấy chồng có được bốn con, hai trai hai gái. Thằng con trai út của Quỳ - thằng Tú – đã theo cô Hoàn nó (trước là ở sở Mỹ) vượt biên thoát, hiện ở tiểu bang California Hoa Kỳ. Hồi nhỏ khi ngồi một mình nó hay thè lưỡi rồi dẩu môi nói líu lo: “He lù! He lù!” Do đó ngay từ thuở bé nó đã được tặng thêm hỗn danh “thằng He lù.” Đứa con gái lớn của Quỳ - con Bích – rất có khiếu về nhạc được ông Giáo đích thân dạy vỡ lòng về dương cầm vào mấy tháng đầu sau khi Sài Gòn được “giải phóng.” Sau khi ông bị bắt nó tiếp tục được đi học từ mấy bậc thầy vào bậc cao thủ vẫn dạy ở âm nhạc viện Sài Gòn. Nó học tiến bộ trông thấy và chuyển hộ khẩu về với bà Giáo để tiện việc học đàn.

Sau ngót bốn năm bị giam giữ, ngày được thả về, vào buổi tối trình diễn văn nghệ đầu tiên Bích đã trình tấu cho bác nghe bản L’invitation à la Valse của Weber, tiếng đàn thật bay bướm, kỹ thuật thật vững. Nghe xong bác đã vuốt tóc cháu khen Bích tồ hết lời. Các anh chị đều gọi Bích là Bích tồ vì tuy đã mười bảy tuổi, cao, xinh, đôi mắt sáng, khuôn mặt vằng vặc, nhưng tính tình gà tồ như đàn ông, ăn mặc hết sức cẩu thả, quần rách gấu, áo đứt khuy coi như pha. Mỗi khi nghe mẹ nó quát mắng ầm ỹ về tội cẩu thả đó, ông giáo lại khuyên em: “Thôi cô ơi, nó xinh như vậy, học giỏi như vậy cả về văn hóa lẫn piano, thì nó phải ngớ ngẩn một tí, gà tồ một tí mới tránh được tài mệnh tương đố chứ!”

Một lần khác nghe em gái gầm thét con, vẫn về tội cẩu thả, ông Giáo lại phải nhắc lại: “Này cô ơi, nó xinh như vậy, học giỏi như vậy mà lại khôn ngoan sắc sảo nữa thì hồng nhan đa truân, khốn đấy chứ cô tưởng rỡn sao!” Riêng ông Giáo, ông chiều Bích tồ hết sức, ông coi thành quả khả quan về dương cầm của cháu như vậy là do công khám phá của ông. Có cái gì ngon ông cũng nhớ để phần cho nó. Thời khóa biểu: cô Út Hương tập đàn từ năm giờ đến bảy giờ chiều, Bích tồ từ bảy giờ trở đi. Đêm nào phải tập những bài khó, ông Giáo nghe tiếng đàn vất vả của cháu biết ngay, ông lẳng lặng pha cho cháu ly nước đường. Một lần mải tập chương đầu bản Sonate Pathétique của Bee- thoven, hơn mười giờ khuya lúc nào không biết, công an khu vực tới gõ cửa kỳ kèo là tập đàn ồn quá không cho hàng xóm nghỉ ngơi. Từ đó ông Giáo ra lệnh cho con cháu là từ sau chín giờ khu- ya không đứa nào được tập đàn nữa. Sáng sáng ông Giáo vẫn dậy sớm rang cơm hay xào mì cho mấy đứa con cháu kịp ăn sớm để đi học (trong số có Bích tồ.) Bích tồ thường có cách nói riêng để cám ơn bác: “Bác ơi, cơm rang của bác ngon thiệt là ngon!” “Mì xào của bác thơm thiệt là thơm!” “Cháu ăn no thiệt là no, bác ơi!”

Hoa đi được một ngày, Quỳ tới nói với ông

Giáo:

- Em phải xin cho cháu Bích nghỉ học trường, sang nằm ngay một nhà gần bến bên Vinh

Hội, họ bốc là đi ngay.

Ông Giáo hỏi em:

- Cô nhất định cho cả ba đứa đi nốt?

- Chính ông nội các cháu cũng giục vậy. Cụ nói rất thiết tha, rất đúng: “Các cháu nó cần tương lai.” Tội cụ quá kia, từ ngày cụ bị đứt mạch máu đầu, bán thân bất toại, cụ không ngừng giục tất cả các con hãy cố cho tất cả các cháu đi, không việc gì phải lo lắng đến cụ, cụ già rồi, trước sau, sớm muộn gì cũng về với tiên tổ, cần là cần cho tụi trẻ có tương lai. Chúng nó được tự do, sung sướng là cụ được tự do sung sướng.

Hôm nay nghe mẹ hỏi về lũ cháu ngoại Bích, Vân, Tỉ, ông Giáo đành nói thực là chúng cũng đã đi rồi, chắc thoát, không đến nỗi như con Hoa.

Chúng đâu đã thoát! Ngay buổi tối hôm ấy, Quỳ mang theo cả ba con lại với bà ngoại. Trong đám nhóc lại có tiếng rè rè của Bích tồ và vùng đêm từ bảy giờ đến chín giờ tối của lối xóm lại xao động tiếng đàn cực mạnh, sắc gọn của Bích tồ: chương đầu bản Sonate Pathétique của Bee- thoven. Quỳ thủ thỉ thuật lại chuyến đi thất bại của lũ cháu với bà ngoại.

Thì ra chuyến đi của đám Bích tồ cùng các cô chú vừa rồi cũng vất vả nguy hiểm lắm, chỉ hên hơn Hoa là không bị nằm ấp (bị bắt giam). Ngày đầu các ghe taxi tới chỗ hẹn chậm, ghe lớn đành trở về bến cũ tại Sài Gòn. Lần thứ hai tất cả các ghe taxi đều đổ người lên ghe lớn kịp giờ. Ghe lớn vượt thoát vùng cổ chai cửa biển (nơi thường có tàu công an tuần phòng), nhưng ra khơi ngày biển động. Sóng cao bằng những nhà hai ba tàng cứ từ ngoài khơi hàng hàng lớp lớp đổ tới như muốn dập vùi cho vỡ nát chiếc thuyền. Các thùng dầu, phuy chứa nước ngọt vì buộc không kỹ đổ xô sang một bên làm lệch thuyền. Chiếc máy chính, hai blocks, Yammar, chợt dở chứng ngưng cạy. Thủy thủ đoàn lúc đó mới xúm lại định lắp chiếc máy phụ F.10 một bloc, nhưng gió to, sóng lớn, thuyền tròng trành dữ dội, không sao lắp máy vào được, mọi người đã thất vọng cầm bằng làm com cho cá hết cả, may thay người thợ máy sửa lại được chiếc Yammar. Tuy vậy tình thế cũng chẳng khả quan hơn là bao, gió lên cấp, sóng chập chùng tăng thêm độ cao, thuyền phấn đấu hết mình mà cơ hồ chỉ tiến lên từng tấc một. Biết đến bao giờ mới ra đến hải phận quốc tế. Gặp chiếc tàu Ba Lan thả neo ngoài khơi Vũng Tàu, xin họ cho lên tàu, họ cười bảo là đồng ý nhưng họ sẽ chở mọi người ra Hải Phòng. Thuyền đành quanh quẩn bên chiếc tàu lớn đó chờ cho qua đêm và qua cơn biển động đương đạt tới tối cao điểm.

Sớm tinh sương, gió bắt đầu dịu, mọi người nhận thấy có ba chiếc ghe lớn của công an đương tiến ra săn bắt mình. Thì ra tàu xã hội chủ nghĩa Ba Lan đã điện báo cho công an Xã hội chủ ng- hĩa Việt Nam hay. Đám người vượt biển bèn cho thuyền chạy về phía Long Hải. Ba ghe công an rượt theo. Thuyền vượt biên chạy tuốt ra khơi. Gió tuy có dịu đôi chút, sóng còn lớn, ba ghe công an bỏ cuộc. Thuyền vượt biên đã gặp quá nhiều trục trặc chắc chắn không còn đủ lực ra tới hải phận quốc tế, đành rẽ về phía cửa biền Soài Rạp (thuộc hải phận Gò Công) và trở lại bến Sài Gòn bằng lối đó. Mọi người mệt đừ, mệt bã người, ai nấy như chiếc giẻ rách tẩm nước tiểu. Nhưng mà thoát nạn! Thế là may!

Bà ngoại tuần tự xoa lưng gãi đầu cho hai đứa cháu ngoại nằm rúc hai bên và cụ nói với cả cha mẹ chúng nó: “Thôi chúng bay về được là hay rồi. Còn con Hoa biết bao giờ nó mới được thả đây!”

Bích tồ tiếp tục đến trường, tiếp tục hằng tuần đi học đàn, sáng sáng lại được ăn hoặc cơm rang hoặc mì xào do bác trai làm bếp (bác gái lúc đó đương phải giặt đồ.)

Và cũng như nhận xét của bà nội, kể tứ lúc hay tin Hoa bị bắt giữ ở khám lớn Mỹ Tho, ông Giáo bớt bứt rứt hẳn, việc cha con vĩnh biệt ít nhất được trì hoãn, chỉ giam giữ Hoa một thời gian, rồi tất nhiên chúng phải thả nó trở về sống dưới mái nhà dù nhiều lo âu phiền muộn nhưng cha con lại gặp nhau. Đúng vậy, sau lần Ly đi thăm nuôi được gặp chị, Hoa được thả sau ba tuần bị giữ. Hoa về được ba hôm cô Chu nó mới ở Hà Nội vào. Thế là gia đình quyết định làm lễ cưới chính thức cho Hoa Lịch với sự hiện diện trang trọng của bà nội và cô Chu.

Đây là một dịp bằng vàng để bà nội bày tỏ quan điểm lạc quan bất biến của cụ về đời người và người đời, đặc biệt về đám con cháu hiếu hạnh của cụ. Tiệc cưới trong vòng đơn giản giữa những người thân quý, nhưng không kém phần trang trọng với các vị cha chú đứng tuổi, và cực kỳ vui nhộn với đám nhóc trẻ. Nó chụp hai cuộn phim đen trắng và một cuộn phim mày, về sau này rửa ra, ôi chao, con bé cô dâu cái nào khuôn mặt nó cũng tươi rói, đặc biết những ảnh màu nó mặc áo đỏ trông đẹp như tranh.

Cụ nói với cháu gái:

- Đấy mày xem, mọi sự đều do Trời Phật xếp đặt chứ người biết đàng nào mà mò. Cần nhất là mình phải giữ được cái tâm tốt. Trời Phật chẳng bao giờ phụ những người có tâm địa tốt đâu con ạ. Vì mày lỡ chuyến đi, bị bắt giữ nữa, vậy mà chính vì thế lễ cưới của mày vui vẻ biết chừng nào, có bà nội này, có cô mày từ ngoài Bắc vào này.

Cụ giở quyển album chỉ vào những hình màu, giọng vô cùng đắc ý:

- Mày xem, bà thấy ảnh mày cái nào cũng đẹp như tranh. Số mày tuổi Thìn – phải vất vả buổi đầu nhưng về sau nhất định sung sướng. Mày xem, cưới xong, mày và chồn mày lại được ở ngay nhà bố mẹ đẻ. Sướng hơn tiên rồi còn gì.

Sự thực thì tại nhà Lịch, ông bà thông gia của ông bà Giáo cũng đã trang trí một căn phòng thật xinh xắn và lịch sự cho hai vợ chồng Lịch, nhưng hai đứa khoái ở đàng nhà ông Giáo. Nơi đây, trên lầu ngoài cùng là khoảng terrasse có lưới mắt cáo, bên trên lợp những tấm plastic màu xanh trong suốt, bên dưới lát đá hoa xanh dịu, xung quanh terrasse là những cây cảnh: cây ngâu, chậu ngọc trâm hoa trắng và thơm ngát, chậu lan thủy tiên hoa cũng trắng muốt và thơm dịu, chậu dương sỉ, chậu tóc tiên. Cô dâu chú rể mắc màn trải nệm trên mặt đá hoa, ban đêm ánh đèn đường

– đôi khi có thêm ánh trăng – đổ bóng lá đu đưa xuống đình màn, ông giáo cho rằng con gái ông đúng là Hằng nga ngủ trong rừng, mà con rể ông đúng là hoàng tử.

Bà nội không hề chú ý đến vẻ thiên nhiên ùa vào tràn ngập khoảng terrasse hạnh phú của đôi trẻ, cụ chỉ đặc biệt lưu ý Hoa về việc sau ngày cưới nó vẫn được gần bố mẹ đẻ. Cụ nhắc đi nhắc lại mấy lần sự kiện đó và lần nào cụ cũng kết luận: “Như vậy là mày sướng hơn tiên rồi còn gì!”

Hoa đã cười hì hì nói với bà nội:

- Đúng thế đấy bà ạ, các cô em chồng cháu cứ nói đùa cháu là làm dâu gì mà chỉ thỉnh thoảng đảo về nhà một lát hái hoa bắt bướm rồi lại cuốn xéo đi ngay!

Trong đám văn nghệ trẻ của gia đình có hai “anh thầy”: “anh thầy” dạy vĩ cầm cho Ly và Hy, “anh thầy” thứ hai dạy dương cầm cho Út Hương. Hai thanh niên dễ dãi và vui tính này đều vừa tiếp tục học cao học ở Âm Nhạc Viện Quốc Gia vừa là giáo sư dạy vĩ cầm và dương cầm tại chính nơi này. Gia đình ông Giáo gọi họ là “anh thầy vĩ cầm” và “anh thầy dương cầm.” Tất cả những người trẻ trong gia đình và những bạn hữu trẻ của gia đình đều có những tên gọi tếu tương tự cho riêng từng người.

Lần này sau ngày cưới của Lịch Hoa ba hôm, hai “anh thầy” có tổ chức đêm văn nghệ bỏ túi chủ đề “nhạc cổ điển” vừa vẫn là để chào mừng ông Giáo được thả về đoàn tụ với gia đình, vừa mừng cặp Lịch Hoa còn trong tuần trăng mật. Đây là đêm văn nghệ bỏ túi của gia đình mà ông Giáo ưng ý nhất. “Anh thầy dương cầm” trình diễn bản Fantaisie impromptu en Mi mineur của Mendelssohn (lẽ ra phải cả một giàn nhạc đệm). Bích tồ chơi rất vững khiến sau đó bác trai đã xoa má cháu mà rằng: “Bác nghe đĩa Arthur Rubin- stein chơi bản này cũng chẳng hơn cháu là bao đâu.” Cô Út Hương trình diễn chương đầu Adagio Sostenuto bản Sonat Ánh Trăng cũng của Beetho- ven. “Anh thầy dương cầm” đã giải thích với ông giáo:

- Thưa Bác, vì đã có em Hương trình diễn khúc Adagio này nên lúc nãy em Bích khỏi phải trình diễn khúc Adagio Cantabile của Pathétique. Cả hai Adagio cùng dịu dàng tha thiết, nhưng Adagio của Moonlight dễ thương trên một bậc.

Phần hai chương trình là những bản nhạc ngắn. “Anh thầy dương cầm” đệm cho Ly trình tấu bản The Maiden’s Prayers (Lời Cầu Nguyện của Nàng Trinh Nữ) của Thokla Badarcveszka. Rồi Bích tồ đệm dương cầm cho Hy trình diễn bài Chanson du Printemps (Khúc Hát Mùa Xuân) của Mendelsohn. Kế đó đám con cháu trình diễn những bản nhạc ngắn tương tự của Mozart, Schumann, Schubert. Kết thúc đêm nhạc cổ điển ông bà Giáo được nghe toàn ban nhạc gia đình đàn và hát bả Hymme à la Joie (Âu Ca Niềm Vui) của Beethoven.

Mấy ngày chan hòa hạnh phúc này giúp cho ông Giáo quên đi hoặc nguôi ngoai đi bao chuyện sầu thảm ngoài đời. Nửa đêm hôm đó mưa rơi thoạt hăm hở ào ạt có cả tiếng sấm ầm ĩ vọng lại từ xa. Nhưng rồi mưa dịu dần, một giờ sau tạnh hẳn, không khí mát lạnh và trong lành, thật trong lành. Mỗi lần có cơn gió lùa qua cửa sổ, ông Giáo lại hít mạnh cho no hai buồng phổi. Trận mưa lớn đã rửa sạch không gian bụi bặm bên trên, rửa sạch cống rãnh bên dưới. Bầu khí quyển một giờ trước đây còn vẩn đục hôi hám giờ đây hoàn toàn được… hoàn lương. Ông Giáo ngủ thiếp lại êm đềm.

Khoảng năm giờ ông sực thức rồi nhỏm dậy rón rén ra bao lơn, ông có cảm tưởng mình đi vào một khối ngọc mát thăm thẳm đúc thành tòa nhà. Trăng hạ huyền trước mắt với một số vì sao xung quanh như gà mẹ với đám gà con ánh sáng. Ông Giáo vẫn đứng đấy giữ cho đầu óc thật thảnh thơi – ông linh cảm những giây phút như vậy hiếm hoi lắm, quý giá lắm. Ánh sáng chân trời Đông dần dần xóa các vì sao quanh vừng trăng lưỡi liềm. Một khối mây đen ngòm bỗng nổi bật lên sừng sững làm nền cho một tòa building xa mà những đường nét tựa hồ một công trình vật chất giả tạo chìm nghỉm trong một khối tội lỗi đen ngòm. Ông Giáo vội dời tia nhìn khỏi khối hình ảnh bi quan hãi hùng đó, chuyển sang khoảng mấy ngọn cây nhiều cành ít lá nhô lên chút xíu sau đường thẳng cắt ngang của nóc nhà như những chỏm tóc dựng đứng của những thằng cu ở chốn thôn dã thuần phác. Ông Giáo bám vào mọi hình ảnh ngộ ng- hĩnh, thổi phồng lên mọi ý nghĩ lạc quan, đạo đức. Ánh sáng rạng đông dần xóa hết các vì sao trên đỉnh trời, còn sót lại một vì, trong như trên chiếu bạc, con bạc vừa vơ vội còn sót lại một đồng tiền sáng.