Chương 8
SAU chuyến xuất phát của Lịch Hoa có một ngày tới chuyến xuất phát của đám người bên gia đình nhà chồng Quỳ.
Quỳ, cô em gái ông đã cho cả ba đứa con còn lại của vợ chồng mình đi chuyến này. Chuyến đi do chính Quỳ cương quyết thúc giục. Nguyên do Quỳ thấy ông nội lũ trẻ yếu quá rồi, cụ ăn ít dần, chỉ ăn được nước súp hay sữa, thỉnh thoảng phải tiêm thêm nước biển. Da cụ trở thành vàng ệnh, thị sút đi trông thấy, cụ rên la gần như suốt ngày đêm chẳng khác gì người bị ung thư. Rồi cụ hoàn toàn mất tri thức chỉ còn như một xác sống, tới bữa đổ nước súp, nước sữa vào miệng cho cụ. Cả đám con cháu bịn rịn không dám ra đi. Một cuộc họp toàn thể gia đình được triệu tập. Quỳ phát biểu giữa đám em chồng, em rể, em dâu:
- Chính khi ba còn tỉnh táo, ba luôn luôn thúc giục con cháu hãy ra đi càng sớm càn hay. Bây giờ cụ như ngọn đèn hết dầu, bấc lụi dần, tắt lúc nào không biết. Việc sông biển là việc lớn, đám con cháu đành phải coi như chạy đua với tử thần (tới đón ba) mà ra đi ngay. Đợi cụ nằm xuống, thọ tang xong, thì theo như các cụ xưa, vận áo xám xui lắm đó, việc ra đi trên sông biển khó thành công lắm đó. Và lại các cô các chú còn việc gì thắc mắc nữa. Ba nằm xuống đã có vợ chồng tôi ở nhà lo liệu, mọi sự trôi chảy mà. Các cô chú hãy cho các cháu đi ngay, vợ chồng chúng tôi chỉ nhờ các cô chú có một việc là trong nom dùm ba cháu của chúng tôi. Các cô chú thu xếp cho ba đứa này sống đoàn tụ một nhà với thằng Tú, em út của chúng nó đã ở bên đó (Hoa Kỳ), các cô chú điều khiển thật cẩn thận việc học hành cho chúng nên người, giả nghĩa ba xong, vợ chồng tôi và má sẽ tính chuyện đi sau. Các cô chú cứ yên chí!
Cuộc họp giải tán, mọi người quyết định ra đi gấp. Má (bà mẹ chồng) cười tươi và hiền hậu, cụ ngừng nhai trầu cất lời khen Quỳ:
- Gớm, ít khi má thấy chị Cả nói hăng và cương quyết như hôm nay!
Cụ chớp mắt, gương mặt thoáng vẻ lo lắng, sau cùng cụ nói:
- Giá như anh chị để một con Vân ở lại thì hơn.
Quỳ biết – thâm ý cụ muốn nói là nhỡ có thế nào thì ít ra cũng còn lại một đứa bên mình. Quỳ cũng biết mình đã liều đánh một ván bài tận láng, thôi thì bây giờ cũng chỉ còn biết hồi hộp và cầu Trời khấn Phật thôi chứ còn biết sao.
Quỳ sở dĩ tha thiết cho các con vượt biên bằng đường biển vì hình như do trực giác Quỳ thấy đường biển hợp với các con mình hơn, chứ đường bộ (qua biên giới Miên) với đường biển thì cũng đều gian nan, cực nhọc, tính mạng treo leo trên đường tơ sợi tóc như nhau thôi. Cũng có thể Quỳ tha thiết cho các con vượt biên bằng đường biển vì trước đó ít lâu chồng một người bạn thân (cùng dạy một trường với Quỳ) đã vượt biên thoát bằng đường biên giới Miên. Từ một trại tỵ nạn tại Thái Lan, ngường chồng biên thư về cho vợ qua tay một người bạn ở Pháp (ở bất kỳ một trại tị nạn nào, người Việt Nam tị nạn chưa được quyền viết thư hay đánh điện về Việt Nam.) Bức thư viết ở Thái Lan ngày mùng 5-4-1980, qua Pháp rồi tới tay người vợ (bạn Quỳ) ngày 17-6-1980, hơn hai tháng mới nhận được. Quỳ được chị bạn cho đọc bức thư để được biết thêm một phần nào những thảm cảnh trần ai mà những người vượt biên bằng đường bộ đã trải qua. Khởi hành ngày 20-4, qua biên giới lại một lần xét hỏi gần đứng tim, 6 giờ chiều đến bến đò Neak Luong, ngủ lại một đêm. Hôm sau ngủ cách Battambang hai mươi cây số. Hôm sau đến gần Battambang thì bị giữ lại, chút xíu nữa thì bị giam nhưng cũng điều đình xong, mất một cây (một lạng vàng.) Ba giờ chiều ngày 2-4 đến Sisophon, 7 giờ tối đã phải lên đường ngay. Hoàn toàn đi bộ, băng rừng vượt suối, cỏ tranh đâm vào chân đau buốt, Đói không có ăn, khát uống nước bùn, mệt nằm lăn xuống ruộng mà ngủ, hai chân gần như lết không nổi vì hai bắp chuối cứng đơ xưng vù. Phải trải qua như vậy hai đêm một ngày, tránh né đủ mọi lực lượng, cái chết luôn luôn theo sát một bên. Tới Sisophon đám vượt biên được giao cho bốn người địa phương dẫn đường (không bị họ cáp duồn – cắt đầu người Việt – là may đấy.)
Nhưng khi còn cách biên giới Thái Lan khoảng hai mươi cây số thì bị một bọn cướp chận đường, mất sạch kể cả cặp mắt kính đọc sách. Bọ cướp bắt mọi người quỳ xuống, cởi hết quần áo ra trần như nhộng, khám xét từ kẽ răng chân tóc, nòng súng lục dí vào gáy, nòng súng mới bắn chỉ thiên còn nóng hổi. Lấy xong xuôi chúng để lại mỗi người một bộ đồ, ít thứ lặt vặt cùng thuốc men và chỉ đường cho đi Thái Lan. Mười hai giờ đên bọn người vượt biên xơ xác, rã rời, cơ hồ ai cũng muốn khuỵu xuống mà xỉu đi cho rồi, thì được biết đã sang biên giới Thái Lan. Bọn dẫn đường đem cả đám đến trình diện tại đây là bọn người Miên đưa đường đã bán đứng người Việt để đổi lấy mỗi người một bao gạo 100 ký. Lại một màn lục soát ở trại ngoài, ít đồ còn lại bị tước đoạt thêm một lần nữa rồi được dẫn vô trại trong, lại một màn lục soát và tước đoạt kế tiếp liền, tất cả phụ nữ bị hãm hiếp hết, cưỡng lại bị bắn chết ngay, trong nhóm cùng đi có một cô la hét kháng cự bị nổ súng vào đầu, chết ngay tại chỗ. Đói, khát, cá sấu, trăn rừng, rắn rết, đỉa, vắt, voi, hùm, beo, rồi người (còn tàn bạo gấp ngàn lần hơn tất cả những giống vật trên hợp lại) đều không thành vấn đề, người đi tìm tự do phải có một ý chí sắt đá chỉ biết tiến không lùi mới thành công được…
Phần cuối bức thư người chồng báo cho vợ hay là đã được sang trại tỵ nạn của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế tại biên giới Miên Thái, chưa được vào nội địa Thái Lan, vì Thái Lan mới đóng cửa biên giới. Mấy dòng cuối thư người chồng căn dặn vợ chờ bảo lãnh hãy đi, đàn bà con gái chớ đi.
“Em hãy tin tưởng, anh sẽ xin vào Tây Đức nơi đây thủ tục bảo lãnh chóng hơn cả. Thương nhớ em và các con nói sao cho xiết. Hôn em và các con ngàn cái, thêm cho bé út một trăm cái nữa.”
Thấy Quỳ đã đọc xong người bạn tỉ tê tâm sự:
- Ngay khi đọc xong bức thư của anh ấy và sau này mỗi lần ôn lại, bao giờ cũng vậy, thoạt tôi cảm thấy lòng mình sôi động công phẫn như một người đàn ông hung hăng nóng tính muốn đập phá, muốn đạp đổ một cái gì, rồi sau đó là những cảm giác tản mạn lộn xộn, nhưng có tác dụng làm cho lòng mình dịu đi như cả một khối nước ùn tới được thoát ùa vào những ngả sông, lạch, kinh, mương. Có điều kể từ lúc tình cảm công phẫn sôi động đến lúc bàng hoàng dịu dần đi, bao giờ cũng trên cái nền âm thanh tiếng la hét khác cự của cô gái bạc mệnh bị tên lính Miên bắn chết.
- Điều đó đúng chị ạ - Quỳ góp ý – chính tôi khi đọc xong bức thư cũng bị ám ảnh hoài đúng cái điều chị nói. Có lẽ tại chúng mình là đàn bà chị ạ.
Người bạn tiếp nối câu chuyện:
- Thoạt là tôi muốn gầm thét lên: “Con người với người mà khốn nạn, đê tiện, đê mạt, ti tiện như vậy sao, tàn độc đến gấp ngàn lần ác thú như vậy sao? Gặp những người hoạn nạn bị đẩy đến bước đường cùng phải bỏ tài sản và bao nhiêu người thân dứt áo ra đi, đã không giúp đỡ người ta được gì thì quay mặt làm ngơ đi, nỡ nào còn bóc lột, tước đoạt, hãm hiếp và hạ sát.
Một nụ cười thoáng hiện nửa chua chát ủ ê nửa nhẹ nhàng thanh thoát và người bạn tiếp:
- Nhưng rồi con sông đầu tiên giúp tôi giải thoát khối lượng căm hờn là tiên trách kỷ hậu trách nhân chị ạ. Đất nước chiến tranh ba mươi lăm năm trời; anh em nội chiến cốt nhục tương tàn từ sau 1954 đến nay một phần tư thế kỷ có dư rồi; thống nhất đất nước năm năm rồi, người ra đi hàng triệu, bỏ xác nơi đáy biển sơ sơ khoảng mấy chục ngàn người, niềm đau nhục thống khổ làm xúc động cả thế giới, mình đối với mình như thế đấy đòi chi người dân Miên, người lính Miên xử với mình tử tế? Rồi chính những người Miên với nhau, Khờ Me đỏ thanh toán Khờ Me trắng, giết nhau trong hai ba năm xấp xỉ bằng cả một cuộc nội chiến Việt Nam trong hai mươi năm, thế giới tự do phải la làng lên là cuộc chiến tranh diệt chủng. Mình như vậy, người như vậy, trách ai?!
Người bạn nín bặt giây lâu.
Quỳ đưa mắt nhìn bạn không bằng tia nhì lơ đãng nữa. Tới lúc đó Quỳ mới nhớ thêm rằng chị bạn thân của mình trước đây dạy Triết lớp mười hai, tới ngày “cách mạng” chị được ủy cho dạy Văn. Dạy văn chương đúng một năm, chị nhất định từ khước, xin làm văn phòng, rồi trông nom căng-tin cho trường, rồi hoạt động trong ban lao động. Lương tri, sự liêm khiết trí thức bị xúc phạm quá nhiều khi phải dạy Văn hay Sử ở chế độ này, chị bạn không kham nổi. Mới từ niên học năm ngoái chị bạn trở lại làm giáo viên giảng dạy, chị dạy Pháp văn (chị là nữ sinh cũ trường Ma- rie Curie). Quỳ nói với bạn theo dòng suy tư của mình, vì vậy thoạt nghe tưởng như lạc đề:
- Ồ tôi biết chị vốn thẳng thắn ghét gian dối.
Người bạn tiếp:
- Nước Thái Lan theo đạo Phật là quốc giáo. Các nhà lãnh đạo Thái Lan đã tránh cho dân bao lần khỏi hiểm họa chiến tranh. Phe khuy hữu lên thì tiễn phe tả ra chiến khu. Phe khuynh tả lên cũng chẳng hề tàn bạo với phe khuynh hữu. Thủ đô Bangkok, tôi đã một lần qua thăm vào dịp dự một hội thảo giáo dục Đông Nam Á, rộng ngút ngàn, rộng hơn Sài Gòn nhiều, có khu như hệt New York, người dân Thái thật hiền hòa dễ thương, mà sao lại sinh đám hải tặc nọ cũng cướp bóc, cũng hãm hiếp, đôi lần cũng cắt cổ những người vượt biên khốn khổ khốn nạn đã từng trải qua trăm cay ngàn đắng từ lúc còn ở trong đất liền đến lúc lênh đênh ngoài biển cả.
Quỳ góp ý:
- Thôi cứ cho là nghiệp chướng đi, cái ng- hiệp của người Việt phải là nặng lắm mới đến nông nỗi chịu thảm cảnh chiến tranh trên ba mươi lăm năm rồi mà còn “lai rai nhấm nháp” như vậy chưa biết bao giờ mới dứt hẳn.
Người bạn cười – lần này vui hơn buồn:
- Ấy, chuyện trò giữa đàn bà như mình cứ hay lý luận như vậy cho…tiện sổ sách. Tuy nhiên đã có đôi lần tôi đặt thầm một câu hỏi lịch sử nếu như các nước khác chạy nạn Công sản như mình bây giờ, trong khi Việt Nam an hưởng thái bình, liệu mình có chận đường ăn cướp, bóp cổ mổ hầu hãm hiếp trên bộ dưới thủy như vậy? Nếu quả có thì chị ạ tôi ưng thà làm nạn nhân như thế này còn hơn. Người mà độc ác hơn cầm thú kém xa cầm thú lắm lắm. Rồi tôi đâm ra nghĩ lan man: Dĩ nhiên vai trò của giáo dục là quan trọng, giáo dục ra sao đây để cho con người sáng ngời chất người. Giá trị một cá nhân cũng như giá trị một xã hội, chị ạ, tôi nghĩ được định mức ở ngay chỗ họ biết quý con người, tôn trọng con người đến mức nào. Giá trị nhân bản là thế chứ còn là gì nữa, phải không chị?
Câu chuyện đến đây thì hai người sửa soạn chia tay. Quỳ còn nhớ lắm, người bạn kết thúc vẻ mặt hơi cong cớn:
- Cường quốc hay siêu cường cũng vậy thôi, định mức ở chỗ đó. Nhân bản mà!
Rồi hai người chia tay. Nhưng câu chuyện vừa qua còn để hơi ấm lại, dư âm lời nói thống thiết về giá trị con người, giá trị nhân bản còn vang vang bên tai Quỳ. Và Quỳ quá xá đồng ý với bạn. Sở dĩ Quỳ không tô đậm thêm vì thấy không cần thiết đó thôi. Cứ để lời nói của bạn vang lên trong đơn độc nghe lại càng tròn trịa càng thống thiết hơn.
Thuở còn nhỏ, vào năm có cuộc Cách mạng
Tháng Tám (1945), Quỳ có giọng hát hay. Năm
1946, vào trước ngày xảy ra cuộc toàn quốc kháng chiến, Quỳ được trao giải nhất về ca tại một buổi trình diễn văn nghệ toàn huyện. Năm đó Quỳ mới lên chín. Thế rồi toàn quốc kháng chiến với bao lo âu của gia đình tản cư chạy giặc. Về kinh tế lo sao có đủ gạo ăn, nếu không ít ra cũng đủ cháo ăn; về mạng sống lo sao không ai là nạn nhân của bom rơi đạn lạc; về học vấn Quỳ tiếp tục theo lên trung học, học đêm ở trường bên kia sông. Sau bữa cơm chiều sáu giờ, Quỳ cắp sách theo đường ra bến đò mang theo chiếc đèn dầu lạc, lớp học trong xa như một buổi lễ tế sao của nhà đám nào. Mấy năm kháng chiến cách ngỡ vất vả, quay cuồng, đen tối như vậy trách nào Quỳ chẳng quên khuấy chính giọng ca của mình.
Khi theo gia đình bỏ dở cuộc khác chiến vào Hà Nội, Quỳ tiếp tục học, thi xong Trung học đệ nhất cấp. Di cư vào Nam, Quỳ tiếp tục học lên Tú tài rồi Đại Học Sư Phạm, rồi tốt nghiệp thành giáo sư Anh văn. Rồi Quỳ lấy chồng, rồi Quỳ có con trong khi vẫn tiếp tục nghề giáo, Quỳ hoàn toàn quên khuấy giọng ca của mình, hoàn toàn quên khuấy mình trước đây đã giật giải quán quân về ca trong toàn huyện đem lại vinh dự cho làng. Cho đến sau ngày “giải phóng” miền Nam được dịp tái ngộ những anh em bà con bằng hữu cùng làng cùng lứa tuổi, nghe họ ôn lại chuyện cũ xưng tụng mình “đệ nhất danh ca” của làng xưa, Quỳ mới giật mình và cố ôn lại thời xa xưa đó. Quỳ có cảm tưởng thời thơ ấu mờ ảo trong màn sương dĩ vãng đó ở vào một tiền kiếp nào. “Đệ nhất danh ca của làn xưa.” Sao từ ngày ấy đến nay mình chả bao giờ cất tiếng hát. Kỳ thật! Quỳ không tự kiểm soát sâu để thấy rằng tuy mình không hề cất tiếng hát nhưng lòng yêu nghệ thuật vẫn còn đó, rất bén nhạy. Đã hai lần Quỳ đi lùng mua piano cho xe về nhà anh (ông Giáo,) để anh và đám con cháu yêu nhạc (nhưng chẳng bao giờ dư tiền) có được phương tiện giải trí tao nhã mội khi công việc tinh thần làm cơ thể mệt mỏi. Lần thứ nhất thất bại, mua phải chiếc dương cầm bị mối xông, phải bán tốc bán táng ngay, mất nửa tiền. Lần thứ hai thành công mua được chiếc dương cầm Đức, âm thanh tròn ấm. Chính vào lần này Bích tồ vừa đủ lớn để được bác vỡ lòng cho về dương cầm và khi bác vào tù thì viên ngọc phác (năng khiếu của Bích tồ) đã được giải thoát khỏi lòng đá và trau chuốt cho ngày một sáng đẹp. Quỳ sung sướng vô cùng, thỏa thuê vô cùng khi nghe tiếng đàn của con mà không ngờ rằng trạng thái tinh thần sung mãn đó là do chứng kiến thấy tiềm năng nghệ thuật nơi mình được thể hiện phơi phới nơi con.
Tuy nhiên, việc thẩm định nghệ thuật Quỳ giữ vững sở thích riêng. Vào những ngày Bích tồ đã tập xong trọn vẹn một bài, Bích tồ cười toe toét nói với mẹ: “Để con uýnh cho mẹ nghe!” Đây toàn là những bản nhạc cỡ trung đẳng của những khuôn mặt cổ điển lớn trong các tập Classiques Favoris du Piano 4, 5, 6. Có khi nghe con uýnh dứt bài Quỳ mới phê bình bản nhạc theo sở thích, nhưng thường là nghe con đánh đến đâu mẹ điểm xuyết phê bình ngay đến đấy: Ồ chỗ này như vẽ bùa âm thanh, tao không thích. – À, chỗ này được đó, thanh thoát lắm! - Ủa, tiếng đàn mạnh như búa bổ tao không khoái - À, à… được đó, nghe ríu rít như chim ấy hả!” Qua cách thẩm âm và phê bình trực tiếp của Quỳ, đám con cháu (về sau cả ông Giáo nữa) cùng khám phá ra rằng Quỳ có một trực giác rất bén nhạy để khám phá ra đoạn nhạc nào nặng nề về kỹ thuật, đoạn nhạc nào tình cảm được trau chuốt, kỹ thuật giữ đúng việc phục vụ ở thế quân bình “chủ tài tớ giỏi.”
Một lần vào thời “ngụy” (trước 1975,) Quỳ cùng một số giáo sư Anh văn được mời tới thăm mấy trường Sư phạm miền Trung. Khi xe đò qua quãng có rừng dừa Tam Quan, tháp Chàm Bình Định, Quỳ chợt thấy lòng buồn như có bóng tối đổ xuống, như có máu đào xương trắng của kẻ bị trị rồi đồng hóa. Quỳ tưởng như mình đang ngồi dưới bóng dừa nghe khóm trúc lao xao gần đấy trong cơn gió nhẹ và cảm thấy cả đời người cũng lẹ như thoi đưa thôi.
Quỳ dạy Anh ngữ lớp 12, lớp thi Tú tài, cũng như ngày xưa Quỳ hát mà thôi. Quỳ dạy hay và dạy tận tâm chu đáo là dư luận của đám học trò đương học hay đã rời trường từ lâu, còn chính Quỳ không hề để ý đến cái đó, ông Giáo cũng không hay, lũ con cháu Quỳ cũng không hay. Ông Giáo chỉ nhớ thỉnh thoảng cô em mình có tới hỏi mượn hoặc mượn thiêm tài liệu bổ túc về các thời kỳ văn học Anh. Một lần Quỳ đã thảo luận rất tỉ mỉ với ông về kịch nghệ Anh trước Shakespeare, đương thời Shakespeare và sau Shakespeare. Quỳ đã ghi vào sổ tay giảng dạy: “Hình ảnh ông vua Anh dưới ngòi bút Shakespeare thực sống động và gợi cảm, gây nơi độc giả một ấn tượng không một cuốn sử ký nào làm nổi. Cho hay sự phong phú và sinh động của cốt truyện có tác dụng thật tốt đẹp dù với đám khán giả và độc giả bình dân ít học.
Một lần khác, Quỳ cùng ông Giáo tìm hiểu về các thi sĩ nhóm Siêu Hình và nhóm Bảo Hoàng thế kỷ thứ XVII; một lần khác nữa đặc biệt về thi sĩ A. Pope thế kỷ XVIII, thời kỳ văn học cổ điển Anh.
Có những học trò cũ của Quỳ xuất ngoại theo đại học ở nước ngoài gửi những hộp đồ đủ các loại cần thiết để gọi là tỏ chút lòng nhớ ơn dạy dỗ của cô.