← Quay lại trang sách

Chương 9

PHƯƠNG (chồng Quỳ) rất mến Hoa, hai chú cháu rất hợp nhau. Mấy lần Phương tới gặp ông Giáo (sau ngày cả đám của hai gia đình đã ra đi) Phương đều nói: “Chắc chắn chuyến này thành công anh ạ, anh có thấy đúng như mẹ nhận xét, ảnh nào của cháu chụp vào ngày cưới, mặt nó cũng tươi thật là tươi, nhất là ảnh màu. Không thể gặp xui được!”

Nghe em rể nói lần nào ông Giáo cũng gật đầu phụ họa: “Tôi cũng thấy lòng êm ả lắm, vả lại trời mấy hôm nay, mặc dầu đã vào đầu mùa mưa, trông đẹp vô cùng.”

Đúng vào dạo này cả Sài Gòn chỗ nào cũng chỉ thấy nói đến chuyện đi. Gặp nhau hỏi gia đình đã đi được những ai, bản thân đã tính đến chuyện đi chưa, bao giờ đi. “Thứ nhất nhà đá (bị công an bắt), thứ nhì cá ăn!” Đó là khẩu hiệu chung của những người cương quyết ra đi, chấp nhận mọi rủi ro cực khổ để đổi lấy tự do, tìm lại nhân tính, sống lại nhân phẩm. Do đó những giai thoại của những chuyến đi được truyền miệng rất nhanh chóng. Có biết bao nhiêu chuyện rùng rợn ly kỳ tưởng như huyền thoại vậy mà đó chính là những chuyện đã được tường thuật trên báo chí và đài phát thanh quốc tế với những chứng hiệu chính xác đầy đủ.

Chuyện mấy mẹ con chỉ bận có bộ đồ tắm lênh đênh giữa biển cả mấy ngày liền trên một chiếc thuyền thể thao nhỏ, khi được tàu ngoại quốc vớt, da người cháy phỏng, mấy đứa nhỏ đều thiếp lả. Người mẹ Việt Nam vượt biên đó được bầu là “Người đàn bà can đảm nhất thế giới.”

Chuyện một em nhỏ cũng trải qua những gian nguy trăm cay nghìn đắng không kém, đơn thương độc mã vượt biên được bầu là “Đứa trẻ can đảm nhất thế giới.”

Vào tháng ba năm 1979 chính quyền còn thực thi cái trò cho đi bán chính thức, thoạt là 12 cây (mười hai lạng vàng) mỗi người, sau xuống tám cây, một nửa chính phủ lấy, một nửa cho nhóm chủ tàu có công tổ chức. Dư luận quốc tế coi đó là dịch vụ bẩn thỉu xuất cảng người, vàng chính phủ thu, người quẳng ra cho quốc tế nuôi. Dịch vụ “xuất cảng người” phải tạm hủy mặc dầu hàng vạn người đã đóng tiền, đóng vàng (giữ biên lai chính phủ hẳn hoi) đợi ngày đi. Tàu của dịch vụ đi bán chính thức đóng rất cẩu thả, chính những người có trách nhiệm tổ chức dịch vụ này cũng sợ không dám cho người nhà mình đi. Một vụ đắm tàu bi thảm đã được nhắc nhở nhiều. Tàu đi bán chính thức đó đã chở trên ba trăm người, gấp đôi số người ở mức an toàn bảo đảm.

Tàu ra khơi trong đêm tối chẳng may va vào cồn cát. Vì tàu đóng cẩu thả, một khoảng mũi tàu bị nẻ đôi, nước ùa vào vô phương cứu chữa. Một số lớn nạn nhân bị sóng cuốn đi ngay. Mọi người hè nhau cố bám vào những mảnh thuyền. Trời rạng sáng những người bơi giỏi đã dùng dây chão cố kéo tập trung những người lênh đênh sống sót (vì đã bám được những mảnh ván) vào khoảng cồn nổi cao nhất, có thể đứng mà nước không ngập tới ngực. Vừa lúc đó một bà đau đẻ. Bà cũng đã tự biết đến tháng ở cữ những vì tới phiên báo cho đi nên bà cứ đi. Nghe lời bác sĩ, bà mang theo chiếc kéo cắt nhau, dự phòng trước việc sinh đẻ ngay trên chiếc tàu chở người đi bán chính thức.

Không dè tàu đắm. Bốn đứa con đi theo bà, đứa nhỏ nhất sáu tuổi đã bị nước cuốn vào lúc tối trời đêm qua, giờ đây bà lại đau đẻ. Một thanh niên vốn ưa thể thao, rất tháo vát đã tìm được một mặt bàn tròn trong chiếc tàu bị đắm. Anh đặt người sản phụ nằm trên mặt bàn như trên một cái bè xinh. Chừng mười người vây xung quanh giữ cho mặt bàn khỏi trôi đi. Tới lúc đó người sản phụ mới trao cho người thanh niên chiếc kéo cắt nhau mà bà mang theo và còn giữ được. Rồi bà đẻ như người… biểu diễn đẻ, mười người quây quanh giữ mặt bàn như một bộ tham mưu hùng hậu các bác sĩ sản khoa phụ tá cho một bác sĩ trẻ biểu diễn đỡ đẻ giữa một bối cảnh mênh mông chập chùng màn trời chiếu biển. Thế rồi dĩ nhiên bà đẻ thật, dĩ nhiên người thanh niên cắt và buộc xong nhau, một người trong “bộ tham mưu” đỡ đẻ lấy một chiếc áo ướt (dĩ nhiên) quấn lấy đứa hài nhi khóc át tiếng sóng và gió biển và trao cho một ông ngồi trên một chiếc phao săm ô tô duy nhất mà ông vớ được. Ông ôm mà chả cần hát ru, sóng biển đu đưa thành võng, đứa trẻ thiếp ngủ, đến chiều thì có chiếc tàu tuần cảnh của công an qua đó vớt.

Hơn ba trăm người trên chiếc tàu bị nạn chỉ còn hơn một trăm người sống sót. Sau khi vớt, tàu công an đưa họ về Mỹ Tho. Nơi đây vì đã biết họ là đám người ra đi bán chính thức quân đội cử một quân nhân lái xe jeep tới kho lấy một số quân trang phát cho các nạn nhân vừa đói vừa rét. Tới lúc đó nét kinh hoàng mới thoáng hiện trên khuôn mặt can trường của người sản phụ khi bà giơ tay bế đứa con và cũng tới lúc đó cặp mắt bà mới long lanh ứa lệ khóc đứa con lên sáu bị hải thần cướp đi. Qua loa phóng thanh đài Hà Nội đương báo tin một phái đoàn nước xã hội chủ nghĩa anh em tới lăng viếng Bác. Một người nói đùa: “Thằng bé này đáng là cháu ngoan của Bác!” Một thiếu phụ thoát chết khác thủ thỉ nói với người đàn ông vừa nói đùa: “Tôi đã trông một bức hình bố trí chụp ông ta ngồi giữa đám thiếu nhi. Tôi được biết cả đám lãnh tụ chóp bu ngoài đó tìm thuật trường sinh bất lão bằng ăn nhau hài nhi hoặc bào thai con so ba bốn tháng, tán nhỏ hòa với bột nghệ. Ông có biết không, từ đấy mỗi khi nhìn thấy một em thiếu nhi quàng chiếc khăn đò thắt nơ tôi lại rùng mình tưởng như em đương bị yêu tinh cắt cổ có hai giọt máu đỏ nhỏ xuống.” Câu nói đơn giản của người thiếu phụ dư sức gợi hình gợi cảm, ai nấy bỗng lặng ngắt như có rùng mình. Mãi sau đó mới có người tiếp nối câu chuyện vui để sưởi ấm lại bầu không khí: “Việt Nam đã có người đàn bà can đảm nhất thế giới, đứa trẻ can đảm nhất thế giới. Thằng bé này nhất định phải được vinh sưng là đứa hài nhi cường kiện nhất thế giới.” Một người khác phát biểu nhân đà câu chuyện: “Quốc tế phải lấy ngày sinh của bé này làm ngày nhi đồng quốc tế, như vậy nhi đồng quốc tế mới tràn đầy sinh lực.” Lời một người khác tiếp nối: “Theo thần thoại Hy Lạp, nữ thần Vénus sinh ra từ một bọt biển, tôi ngờ rằng nữ thần cũng đã được sản sinh trong một hoàn cảnh tương tự. Giá bé này là gái nhất định nó là vệ nữ thần tái sinh. Giá nó lại được một tàu Hy Lạp vớt nữa!”

Câu chuyện đãn hoàn toàn được hâm nóng mỗi người góp một ý ngộ nghĩnh, tựu trung mọi người đều đồng ý đây là một trường hợp sinh nở triệu năm một thuở, nếu được một tàu ngoại quốc vớt, quốc tịch của nó sẽ là biển và trời nghĩa là cả vũ trụ, sau này quỹ tiền tệ quốc tế ắt có bổn phận cung cấp cho nó đi bất kỳ đâu nó muốn, kể cả những cuộc du hành lên hành tinh. Tiếc thay chẳng có một chiếc tàu quốc tế nào có mặt ở vùng biển đó lúc đó, đám người sống sót đành phải trở về Mỹ Tho với quái kiệt hài nhi.

Chừng hơn một tháng sau một số trong đám người sống sót đó lại ượt biên trong số có mẹ con quái kiệt hài nhi. Và lần này đám người đi thoát. Trên con thuyền vượt biên bà vẫn mang theo bốn đứa con: biển cả cướp đi một đứa thì cũng trên biên cả bà sinh hạ một đứa khác.

Những chuyện dũng cảm không thiếu, những chuyện bi thảm càng không thiếu. Chuyện tàu vượt biên bị hải tặc Thái Lan nhốt sống trên một hoang đảo, thỉnh thoảng chúng lên hãm hiếp những phụ nữ. Mãi đến hơn một tháng sau mới có dịp đốt khói cho một phi cơ bay ngang qua biết mà gọi trực thăng Hải quân Hoa Kỳ tới cứu. Chuyện cả một chuyến tàu vượt biên khác cũng bị xua lên một hoang đảo, chết đói dần (có lời kể lại người sống phải ăn thịt người chết). Khi có tàu đến cứu mười phần đã chết chín. Chuyện cả một chiếc tàu bị đắm, phần thì bị chết đuối ngay, phần bơi cầm cự chết dần, sau cùng còn một thiếu nữ kiệt sức nằm thiếp trên một tấm ván làm phao được một trực thăng Anh tới cứu. Chuyện cả một chiếc tàu vượt biên bán chính thức chạm thủy lôi bị đắm ngay ở khúc sông Cát Lái, thuyền tư nhân muốn ra cứu bị công an cản lại. Vài ngày sau còn những xác nạn nhân rạt vào bờ công an lục soát lại xác người, lột vòng vàng, nhẫn vàng, nhẫn kim cương, đô la. Dư luận cho rằng chính chúng bố trí chất nổ. Tàu này toàn dân giàu sụ Chợ Lớn.

Có những chuyện nhuốm màu sắc huyền bí. Một thuyền vượt biên đi vào một vùng biển thấy không biết bao nhiêu cánh tay giơ lên khỏa mặt sóng với những tiếng kêu ảo não: “Cứu tôi với! Cứu tôi với!” Được biết đó là những oan hồn của những người vượt biên chết đuối, mọi người trên tàu cùng niệm Phật, cầu Chúa, cầu Đức Mẹ, vùng ảo giác tan đi, trời biển lại nối liền cùng một màu xanh.

Có những người trên một chuyến tàu vượt biên nghe thấy vang lên từ mặt sóng trong đêm khuya: “Tôi là Hồng xin báo cho mẹ tôi ở số nhà… đường… biết là tôi đã chết đuối!” Trong đám vượt biên thoát có người viết thư về nhờ người nhà điều tra thì quả nhiên tại số nhà đó, đường đó có người mẹ có con gái tên Hồng đi chui (vượt biên) mất tích từ lâu.

Từ sau ngày chính phủ xã hội chủ nghĩa tạm tốp dịch vụ xuất cảng người bằng những chuyến đi bán chính thức, đám công an nào đó đã tổ chức những cuộc ra đi gài bẫy. Mọi người cũng góp vàng, cũng từng tốp nhỏ xuống ghe taxi chở đến thuyền lớn, thuyền lớn cũng thoát ra biển một cách lén lút vào lúc nửa đêm. Tại vùng cửa biển này, thủy thủ đoàn vẫy một chiếc ghe chợt ngang qua (thực ra tất cả đã được xếp đặt trước), nói với mọi người trên thuyền lớn là họ đi lấy thêm nhiên liệu. Họ dông tuốt. Thuyền không người lái bập bềnh trôi dạt theo chiều gió, tàu công an ập tới bắt, kéo thuyền về đồn. Tới đây mọi công việc chỉ còn thuận theo thủ tục thường lệ: làm danh sách; khám người; tịch thu vòng, nhẫn, tiền của rồi cho đi nằm ấp…

Trong số thuyền vượt biên của công an gài để lừa gạt này có một thuyền mà rồi đi thoát. Sau khi thủy thủ đoàn xuống một ghe nói là đi lấy thêm nhiên liệu, một khách vượt biên phát hiện ngay ra trò lừa đảo. Trên thuyền có một người trước ở Hải Quân, tuy không phải là hoa tiêu nhưng cũng biết qua loa cách xử dụng hải bàn định hướng tiến cho thuyền. Nhiên liệu thì còn nhưng thực phẩm không hề có, nước ngọt cũng khánh tận. Bốn ngày lênh đênh đói và khát, trẻ con nằm lịm, người lớn gần xỉu thì tới một hòn đảo của Nam Dương. Một đứa con gái thoát chết viết về cho mẹ (bạn của gia đình ông Giáo):

Mẹ muôn vàn thương quý của con,

Mẹ ơi, con vừa thoát qua một chặng đường gian lao, nguy hiểm chưa bao giờ con dám nghĩ tới. Thật là khủng khiếp. Giờ đây viết thư cho mẹ trên hòn đảo vững trãi với đầy đủ lương thực tiếp tế mà con còn hãi hùng tưởng như vẫn còn đói khát, vẫn còn nghe thấy tiếng mê sảng của trẻ em trên chiếc thuyền không người bảo trợ, chỉ có vài thanh niên thiếu niên đứng ra chỉ huy và trấn an tinh thần mọi người đã kiệt quệ tới mức sắp té xỉu cả rồi. Mẹ ơi, đây là một cuộc hành trình táo bạo nhất, ghê gớm nhất, ngoài ý muốn, ngoài sức tưởng tượng của bất kỳ ai. Con sẽ nhớ mãi mãi, nhớ suốt đời mẹ ạ. Nhưng thôi, con chỉ kể sơ phớt như vậy là đủ, quá khứ con xin được bỏ qua để bước sang hiện tại trước mắt. Người Nam Dương đã tiếp đón chúng con rất tử tế, ăn uống đầy đủ, chỉ phải tội toàn đồ hộp, tuần lễ đầu ăn thấy ngon, qua tuần thứ hai thấy ớn, sang tuần thứ ba tưởng chịu không nổi. Đành rán chịu vậy chứ biết sao bây giờ mẹ nhỉ, chả lẽ người ta đùm bọc giúp đỡ mình như vậy mà còn đòi hỏi quá đâu có tiện, phải không mẹ. Nằm trên đảo này nhớ nhà quá mẹ ơi, nhiều đêm con mơ thấy về thăm mẹ, có đêm con mơ thấy ngồi xích-lô với mẹ. Nhiều đêm thức giấc, nghĩ đến mẹ con khóc thật nhiều. Mẹ có biết không, cái gì đã vượt khỏi tầm tay rồi mới thấy là quý giá vô cùng.

……

Một gia đình người bạn thân khác của ông Giáo có đứa con trai út ra đi không phải trên tàu công an gài bẫy như trên mà trên tàu của một đám chủ tàu lừa đảo bất nhân bất nghĩa, chỉ cốt hốt vàng – hốt càng nhiều càng hay – sinh mạng khách hàng không nặng hơn sợi tóc, mặc kệ, thực phẩm dự trữ gọi là chút xíu, còn ăn hết nhịn, chiếc ghe mong manh chở người chật ních phó cho sóng gió, sống gửi… thác về. Đứa con trai thoát chết viết thư về:

Ba mẹ, các anh chị thương nhớ,

…….

Tới đây con xin tạm kể qua rất sơ sài lịch trình

99 phần trăm chết 1 phần sống của con với các bạn đồng hành. Thời gian bọn con lênh đênh trên biển 12 ngày, mỗi ngày là một thử thách căng thẳng như tứ mã phanh thi cho đến lúc sức cùng lực kiệt chỉ còn như một xác chết rũ. Ghe dài 12,59m mà chở tới 139 người, đủ để ngồi xổm. Ăn cầm hơi kể từ ngày đầu tiên. Đáng tiếc là cả một bịch thức ăn khô mẹ sửa soạn cho con bị mất ngay từ lúc con dời ghe taxi lên thuyền lớn. Cho nên kể từ ngày thứ hai con đã phải đi ăn xin trên thuyền rồi. Tài công gà mờ không biết định hướng. Anh ta lái tầu như đi vào cõi chết. Nước rỉ vô, không có máy bơm, các thanh niên trên ghe phải chia phiên nhau tát nước 24 giờ trên 24. Bọn tổ chức quá ư bất nhân, chúng hoàn toàn coi sinh mạng con người không bằng con gà, con chó, sống chết mặc bay, chỉ cần hốt vàng. Chúng bất nhân bất nghĩa đến rợn người.

Thuyền lênh đênh đến ngày thứ ba thì hoàn toàn mất phương hướng, đúng là rập rềnh đi vào hư vô, đi vào cõi chết 100 phần 100. Riêng về phần con cứ mỗi lần sắp chết khát thì trời đổ mưa. Phúc đức! Sang ngày thứ mười, toàn thể mọi người trên thuyền tuyệt vọng, tài công bỏ tay lái, con thuyền buông trôi trên biển thì gặp tàu hải tặc Phi Luật Tân… ân nhân. Chúng lên thuyền cướp hết (nói là thu thập thì đúng hơn) vàng bạc rồi cho ăn, rồi lại chỉ đường cho đi. Thật là mâu thuẫn cười ra nước mắt “tàu hải tặc ân nhân.” Không gặp chúng chắc chắn là bọn con chết đói, chết khát, chết phơi xác ngồi bó gối cho đến khi con thuyền lật chìm.

Sáng ngày thứ mười hai, vẫn trên hải phận Phi Luật Tân, bọn con gặp được tàu khoan dầu Mỹ - Pan- ama. Họ cho lương thực, cấp bản đồ và chỉ đường thêm một lần nữa. Lần này thuyền đi chừng mười tiếng đồng hồ thì tới Borneo (phần đất của Mã Lai). Thuyền cặp ngay cảng Kota Kinabalu thuộc Sabah và được Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đến nhận đúng lúc cảnh sát Mã Lai còn phân vân không muốn cho lên cảng. Sau đó thuyền được kéo ra đảo Labuan. Chúng con sống tại trại tị nạn nơi đây được một tháng rưỡi thì các trại tị nạn được lệnh giải tán. Chúng con được chở bằng phi cơ tới Kuala Lumpur, tại đây con được Cao Ủy Tị Nạn phỏng vấn. Con bày tỏ nguyện vọng xin định cư tại một trong ba nước: Mỹ, Gia Nã Đại và Úc, nghĩa là những nơi nói tiếng Anh. Tại Kuala Lumpur, trong khi chờ đợi ngày đi định cư, con đã có thể thoải mái đến thư viện tìm đọc sách để trau dồi thêm Anh văn. Ba mẹ và các anh chị có thể cứ làm lễ cầu siêu cho con vì quả thực con vừa từ cõi chết trở về. Trên đây là con chỉ kể sơ qua, rồi đây khi hoàn cảnh thuận tiện cho phép, con sẽ viết tỉ mỉ lại. Nhưng chắc ba mẹ và các anh chị còn phải đợi lâu lắm. Bây giờ mà bắt con nhớ lại tình tiết khủng khiếp của những ngày địa ngục vừa qua chắc chắn là con chết lại mất.

Con của ba mẹ, em của các anh chị.

Có thể nói trong mấy ngày đợi tin lũ con cháu, ông Giáo đi tới đâu, thăm bất kỳ ai, cũng chỉ nghe rặt chuyện vượt biên đủ loại như trên. Người ta bảo nếu có được báo ngoại quốc mà đọc tì còn biết được nhiều chuyện vượt biển ly kỳ, rùng rợn, sầu thảm hơn nữa. Nhường như một phóng viến quốc tế đã trà trộn được vào môi trường đám cướp biển và khám phá ra trong số có một trung tá hải quân Việt Nam trước đây nằm vùng, sau ngày “giải phóng” miền Nam, y được cử đi liên lạc rồi gia nhập đám hải tặc để đẩy mọi hình thức khủng bố, cướp bóc, hãm hiếp đám người vượt biên trên biển tới mức thần sầu quỷ khốc. Điều làm thế giới kinh ngạc đến hãi hùng là càng gian nguy số người dắt díu nhau ra đi ngày càng đông theo cấp số nhân. Dư luận quốc tế ước lượng trong số hàng triệu người Việt Nam ra đi đã có khoảng vài trăm ngàn người gửi thây nơi đáy biển.

Rồi chính ông Giáo nhận được lá thư của một người bạn ở Pháp gửi về kể lại một chuyến vượt biên bi thảm. Cả chuyến thuyền bị hải tặc bắt nhốt hai mươi ngày trên đảo hoang, mỗi ngày hãm hiếp chừng hai mươi lần phụ nữ. Ngay cả trẻ em gái cũng không chừa; có một em mười hai tuổi bị luôn mười sáu lần trong ngày và hai lần liên tiếp. Những người xấu số khốn nạn đó đã được tàu Liên Hiệp Quốc cứu và đưa nội vụ ra tòa. Nhưng tụi cướp biển này là cả một tổ chức ghê gớm loại Mafia.

Số nhân chứng có tới 157 người nhớ rõ số tàu, mặt mũi chúng mà tòa về phe chúng vẫn kêu là chưa đủ chứng cớ, đình lại ba bốn lần, chỉ mới có năm tên bị bắt. Vì vậy cả đám nhân chứng còn nằm ì lại nơi tị nạn, chưa đi định cư nơi đâu, đợi tòa xử trắng đen rõ rệt đã.

Mặc dầu được nghe bao nhiêu chuyện sầu thảm về vượt biên lần này ông Giáo vẫn cảm thấy êm ả về đám con cháu ra đi. Ông mở lại cuốn album nhìn lại những tấm ảnh ngày làm lễ cưới Hoa Lịch. Lúc hai vợ chồng nó lễ trước bàn thờ Phật trên cao, mắt con bé ngước lên, hai bàn tay chắp lại. Nhìn vào tấm hình tưởng như chúng nó đương đóng phim, cuốn phim thành công nhất, ưng ý nhất của chúng nó. Mấy ngày liền sau ngày chúng nó đi, trời lại quá êm ả, không mưa, chỉ có gió hiu hiu. Chỉ còn sợ có hải tặc, thì Lịch đã lái tàu theo hải trình hướng về Tân Gia Ba xa hơn nhưng an toàn. Đài BBC, đài VOA loan tin mấy ngày nay số người vượt biên bỗng tăng rộ, vì mọi người tranh thủ lấy khoảng thời gian ít ỏi đẹp trời còn lại. Mùa bão đã đến nơi rồi. Vẫn hai đài phát thanh trên báo tin có ngày Hồng Thập Tự Tây Đức và tàu Mỹ vớt được khoảng trên sáu trăm người, đưa về các trại tị nạn ở Mã Lai, Tân Gia Ba, Thái Lan.

Lục tập nhạc cũ vô tình ông Giáo lượm được một mảnh bìa màu trắng trên có những hàng chữ. Ông nhận ra ngay nét chữ của Thiện. Ông đọc, ông mủm mỉnh cười. Vừa lúc đó bà Giáo xách giỏ rau đậu ở chợ về, ông nói với bà:

- Này mẹ nó xem mỗi nức con có cách riêng nghĩ về bố.

Đặt giỏ rau xuống, bà Giáo đón lấy tấm bìa màu trắng, bà thốt tiếng reo:

- Ủa, chữ thằng Thiện nè!

Và bà đọc. Và bà cũng mủm mỉm cười:

Bố

Tên: T.Q.

Sinh: Năm 1923 (tại một làng gần Hà Nội) Nghề nghiệp: Giáo sư – viết văn

Thích:

- Rửa bát đũa sau bữa cơm.

- Sáng dậy sớm rang cơm, xào mì cho con cháu ăn trước khi đi học.

- Ăn cơm với muối vừng, đét-se chuối với đậu

phọng.

Ghét:

- Những quân gian dối, lưu manh bịp bợm. Vì vậy bố bị chúng nó bắt.

- Kể từ 4 – 4 – 1976: bố nằm tù chơi để tụi nó nuôi cơm.

- Sáng 27 – 1 – 1980: bố gọi cửa: “Hoa ơi bố về nè!”

Ông Giáo tiếp tục lục chồng vở cũ, thoạt ông thấy một xấp bảng danh dự của Hoa và Ánh hồi cả hai đứa còn theoo trung học tại trường Ma- rie Curie, kế đó ông thấy đủ cả văn bằng Tú Tài Pháp, giấy chứng nhận tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm ban Pháp Văn của Hoa, cùng mấy chứng chỉ đã thi đậu Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Vương vất giữa đám văn bằng đó còn giấy tờ quay ronéo mời Hoa tới trường Marie Curie để nhận phần thưởng với lời yêu cầu y phục chỉnh tề. Đọc tờ giấy đó ông Giáo mỉm cười nhớ rằng trong tám đứa con, hai đứa con gái đầu lòng của ông – Hoa và Ánh – học chăm và giỏi nhất. Các giáo sư Pháp đặt cho Hoa cái tên Sylvie (và cho Ánh cái tên Catherine) để dễ gọi:

Lycée Marie Curie Saigon

Distribution Solennelle Des Prix

Mlle Trần Thị Ngọc Hoa Sylvie est invitée à se rendre au Lycée Marie Curie, le Vendredi 7 Mai

1971 à 16h30 pour y recevoir les Prix qui lui ont été de1cernés par le Conseil des Professeurs. Tenue soignée de rigueur.

Le Proviseur

Ông Giáo vui vẻ kể, tưởng như vừa tức thì được gặp lại Hoa, không phải Hoa đã trưởng thành bây giờ mà là con Hoa thuở nữ sinh trung học.

Cũng vương trong đám văn bằng còn một lá thư của Thúy gửi cho Hoa. Ngày nhận được lá thư đó, đọc xong Hoa cười đưa cho bố: “Này bố xem lời con Thúy thật ngộ nghĩnh.” Thúy là một trong số những khuôn mặt bạn ngộ nghĩnh của gia đình. Thúy xinh như búp bê, ở Đà Lạt và là cô gái Tàu hoàn toàn, điều mà ít ai ngờ nổi. Bà nội và bà ngoại Thúy là những vị nữ nhân Trung Hoa có tinh thần dân tộc hết sức cuồng tín. Hai cụ không muốn Thúy giao thiệp thân mật với bất kỳ cậu trai Việt nào. Trong gia đình, các cụ bắt đám con cháu hoàn toàn nói tiếng Tàu với nhau.

Thúy có người anh học kiến trúc ở Sài Gòn. Bạn đồng học người Việt của anh có mấy người mỗi lần lên Đà Lạt tới nhà chơi là bà nội nhìn bằng con mắt nghi kỵ đến gần như hằn học. Thúy chỉ biết mỉm cười. Bước ra khỏi ngưỡng cửa gia đình, Thúy hoàn toàn là một thiếu nữ Việt chỉ biết giao thiệp với người Việt. Xuống Sài Gòn thăm anh (người anh học Kiến Trúc), một lần Thúy gặp Hoa, quen Hoa, tới nhà Hoa, đem lòng quý mến ngay không khí văn nghệ và cởi mở của gia đình này. Từ đấy, mỗi lần rời Đà Lạt xuống Sài Gòn thăm anh là Thúy tới tạm trú nhà Hoa. Lần xuống Sài Gòn mới đây, Thúy đã gặp ông Giáo thuở ông vừa được thả về khoảng hơn một tuần. Bức thư của Thúy viế cho Hoa không chỉ ngộ nghĩnh như lời phê bình đơn giản của Hoa mà còn là cả một thế giới tế vi giăng mắc ẩn hiện biết bao buồn vui thao thức của tuổi trẻ thụ nạn đương thời:

Đà Lạt ngày…

Chị (Trần Thị Ngọc) Hoa,

Một năm lâu quá mà hình như cũng nhanh quá, chị Hoa nhỉ. Tối hôm qua em tổ chức sinh nhật, có bánh, cà-phê, hoa và hát hỏng. Nếu tổ chức dưới Sài Gòn chắc chắn vui gấp bội vì còn được yểm trợ văn nghệ của Trần gia nữa. Sáng nay trời sập mưa bất ngờ, mưa bão hẳn hoi, điệu này gió mưa còn dai dẳng kéo dài vài ngày nữa là ít, hậu quả là cả một chùm bông cỏ dại mầu tím em mới gây giống ngoài vườn kia trôi mất tiêu rồi. Tiếc không?! Nhưng thôi, gần nhà em có một cây to, thật to, em cứ gọi đại là cây bồ đề. Vào dịp này các cành cây mới đây đầy những trái xanh, nhỏ như hạt

nhãn, chỉ ít bữa nữa thôi những trái đó đen bóng lên, trong xa như những chuỗi tràng hạt ai mới đem mắc lên. Từ hôm cây có trái thì những con cú không đến đậu, và những đêm nằm vật vã với chính hơi thở của mình em lắng nghe và bỗng thấy nhớ… tiếng cú kêu. Chị tính có kỳ không kia chứ, em vốn ghét thậm tệ loài cú! Đời sống thiệt ngộ nghĩnh, vừa lạnh lùng vừa khốc liệt làm sao ấy, khó tả quá đi mất.

Chuyên, con em em, yêu đời hơn tất cả nhà. Nụ cười, ánh mắt và cả máu, tim nó đều muốn nói lên. Mùa xuân khi đã qua rồi còn ở lại rất lâu trong ánh mắt nó, trong khi với em, ngay cả mùa xuân vừa tới em đã thấy là xuân đương hiu hắt tàn lụi rồi. Với em, mùa xuân luôn luôn là một cái gì mong manh như những giọt nắng quá đẹp chỉ chực tắt. Quái ác! Chính vì vậy mà em vừa yêu vừa sợ mùa xuân. Tựa như có cái gì thâm u bí ẩn muôn đời của thiên nhiên trầm lắng trong đó. Mùa xuân không chỉ hiện diện trong những sắc màu tươi thắm mà trong tất cả mọi sự vật, tỉ như trong trái tim bệnh hoạn của em, hoặc sau những tấm bia mộ quạnh hiu nơi nghĩa trang cô tịch, và cả trên những cánh bay của con cú già nữa. Vào mùa xuân này chẳng hay chị Hoa có còn hay cúi đầu rũ tóc xuống và kêu “Ô, sao tôi buồn rũ thế này” không? Chúc chị Hoa làm hòa được với những cơn “buồn rũ,” hay mau rũ được những cơn buồn đó nhé.

Em, Thúy

Loay hoay suy nghĩ một cách thích thú về những thao thức nhiêu khê, những dằn vặt tội nghiệp đó của tuổi trẻ trong quốc nạn hiện giờ, ông giáo cũng quên đi phần nào nỗi lo âu thương nhớ lũ con cháu vừa ra đi chưa có tin tức gì.

Nhưng không lâu!