← Quay lại trang sách

Chương 11

VẪN chưa thể có điện tín đánh về được. Chúng nó mới đi vừa được một tuần. Ông giáo tự khám phá thấy rằng sở dĩ ông tránh không muốn nghe thêm những chuyện vượt biên bi hùng và bi thảm là để giữ cho lòng bình yên, tin tưởng đám con cháu mình ra đi chuyến vừa rồi êm đẹp. Ông không muốn nghe thêm, còn vì bây giờ ông thấy nỗi bất hạnh của người cũng là nỗi bất hạnh của ông, của con cháu ông. Ông thương và lo sợ cho người chính là thương và lo sợ cho mình, cho con cháu mình. Rõ rệt nhất là suố buổi sáng nay mưa dông lớn, những làn gió mạnh như muốn thốc tung những mái tôn, ông thấy hãi hùng lo sợ cho những ghe vượt biên đương chao chát như chiếc lá rụng trên những cồn sóng hung hãn chập chùng. Mười giờ gió dịu, mặt trời ló ra khỏi vùng mây, nắng vàng hoe thành nụ cười mênh mông của tạo vật, ông cũng cảm thấy lòng bừng sáng và nụ cười của ông hòa với nụ cười của tạo vật làm một. Ông như nhìn thấy bằng con mắt tâm linh những ghe vượt biên lúc đó rập rềnh xao xuyến nhưng rất an ninh trên mặt biển sóng rợn hiền hòa và chan hòa nắng vàng. Tuy nhiên, việc ông

Giáo tránh không lang thang đến thăm nhà bè bạn để khỏi phải nghe kể chuyện những chuyến đi bi thảm và chuyển dòn tư tưởng ôn lại chuyện tù thì cũng chẳng khác gì tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Mặc dầu ông đã để cho lòng hồi niệm rất lâu và đi vào chi tiết rất kỹ phần đoàn tụ với gia đình, nhưng điều đó đâu có làm cho dịu đi dù là muôn một những ray rứt, hãi hùng của cảnh tù đày địa ngục trần gian chà đạp nhân phẩm tàn phá nhân cách đã có và đương còn kia.

Tư tưởng ông lại một lần nữa chuyển hướng tìm về một điểm tựa nào để giữ vững cho nhân sinh khỏi lật nhào, che chở cho nhân sinh khỏi hủy diệt. Tư tưởng ông hướng về một người bạn, một tình bạn hy hữu. Đây là người bạn già, người bạn vong niên, hơn ông dễ đến mười tuổi. Người bạn già ở thế hệ Tự Lực Văn Đoàn, tuy không làm văn nghệ nhưng rất được giới văn nghệ tiền chiến (thế hệ Tự Lực Văn Đoàn) cũng như hậu chiến (văn nghệ miền Nam tự do sau ngày đất nước qua phân, 1954) gần gũi quý mến. Người bạn già của ông bao giờ cũng bận đồ rộng thùng thình, mặc áo sơ-mi và quần tây gì mà như bận áo cà sa.

Vào một buổi chiều lộng gió (ôi chao, cách đây xa lắm, trên hai mươi năm lận) ông giáo nhận ra người bạn già ngay từ xa đi lại phơi phới như đi trên mây. Ông giáo và người bạn già rất ít gặp nhau, xuân tu nhị kỳ, hoặc ba, bốn lần là cùng mà kỳ dị thay lần nào gặp nhau cũng tưởng như mới xa nhau mấy hôm trước và câu chuyện tiếp nối (câu chuyện văn nghệ dĩ nhiên), nồng đượm tức khắc như vẫn nồng đượm tự bao giờ. Lần cuối cùng hai người gặp nhau – cách đây hai mươi năm, đó là điều ông Giáo không bao giờ ngờ tới

– rủ nhau đi ăn cơm gà ở một quán bình dân nổi tiếng về món này trong Chợ Lớn.

Ông Giáo được trả tự do về được một tuần thì một người trẻ đã đỗ bác sĩ thời “ngụy”, bạn của lũ con ông giáo, hỏi ông:

- Thưa bác, bác có quen ông Hoàng Nguyên (tên người bạn già)?

Ông Giáo đáp:

- Tôi quý ông ấy lắm. Có thể nói chúng tôi là tri âm tri kỷ với nhau. Anh bạn đã gặp ông bạn tôi ở đâu?

- Cháu là con nuôi ổng.

- Vậy à. Khi nào tiện anh bạn đưa tôi đến thăm ổng nghe!

- Vâng. Hôm nay cháu đi xe đạp, để mai cháu đi Honda lại đây chở bác đi cho lẹ và tiện.

- Được lắm!

Hôm sau chính ông bạn già Hoàng Nguyên của ông giáo lọc cọc đạp xe đạp tới thăm. Dĩ nhiên, hai người nhìn nhau có thấy nhau già đi chút ít, chút ít thôi. Nhưng khi nghe ông bạn già nói: “Thế mà hai mươi năm qua rồi đấy anh nhé, kể từ buổi chiều chúng ta ăn cơm gà với nhau,” thì ông Giáo trợn tròn mắt thoạt nhất định không tin. Ông Giáo không quên ông vừa ra tù và ông đã ở tù ngót bốn năm, nhưng cảm giác tổng quát tươi mát đến nỗi ông có ý nghĩ rất tổng quát rằng ông chỉ mới xa người bạn già có vài năm. Thời gian tâm lý ở trường hợp này bị thu ngắn lại đến tối đa, thiệt là hy hữu.

Suốt buổi nói chuyện của đôi bạn hôm đó nhẹ về văn nghệ, nặng về đạo học – một trường hợp đặc biệt ch83ng. Nhân nói đến tinh thần vô cầu siêu thoát hai người tìm hiểu về nội lực. Phải rồi, giơ ngón tay cái cho một hài nhi nắm, nó nắm chắc đáo để, vậy mà nó đâu có ý thức, có chủ tâm mắm môi trợn mắt nắm? Phải rồi, một hài nhi ngã từ trên giường xuống sàn, hoặc dữ hơn, ngã lăn theo thang gác, thường thì chẳng sao đâu, các cụ nhà ta xưa nói là được mụ đỡ, sự thực vì nó không gồng mình mắm môi trợn mắt lấy gân lấy sức phản ứng lại, nó buông thả mà cũng chẳng biết là mình buông thả nữa, do đó nó đã thung hòa được bạo lực. Hãy vô cầu như đứa trẻ để trung hòa mọi bạo lực, tham sân si làm nên nghiệp quả. Thượng Đế, Phật, Chúa, Tiên, Thánh là những gì rộng lớn bao trùm thời gian, không gian. Bởi vậy khi cái ta nhỏ bé cầu nguyện, các siêu-thể-bao-trùm đó trực cảm ngay tấm lòng thành của thế nhân. Thế nhân dốc lòng tu tâm dưỡng tính cũng là cách cầu nguyện Trời, Phật, Chúa, Tiên, Thánh, bởi Chân-Thiện- Mỹ là thuộc tính cả Trời, Phật, Tiên, Thánh chứ còn gì nữa. Thì ba giờ Siêu-thể bao trùm chẳng là niềm vui, ánh sáng, đấng che chở cho thực-thể- hạn-hẹp-trong-thời-không, nhưng đừng bao giờ quên thực thể đó nằm gọn trong lòng siêu thể và với siêu thể là Một, đạo học về Nhất Thể và Hỗ Tương là như vậy, nhất thể và vô thể bao hàm và dung nạp nhau là thế: một là tất cả, tất cả là một, nhất đa tương dung là thế.

Câu chuyện vừa tới điểm hào hứng nhất người bạn già điềm đạm đứng dậy:

- Thôi tôi phải về.

- Tôi muốn đến thăm anh vào giờ nào thì tiện? Ông Giáo hỏi bạn.

- Anh khỏi bận tâm. Khi nào rảnh rỗi tôi đến với anh, chúng ta trọn vẹn được nói với nhau. Anh đến đàng tôi gặp nhiều loại khách, khách mạt chược, khách trà dư tửu hậu, chúng ta bị phân tâm nhiều trong câu chuyện.

Hai người vai kề vai ra tới thềm cửa, người bạn già bỗng dừng lại thân ái nắm lấy bờ vai ông Giáo, đầu hơi cúi, nhìn như nhìn vào tâm linh, nói cũng như nói với tâm linh:

- Tôi không hiểu là anh đã viết lại chưa, nếu viết rồi e sẽ phải viết lại. Hãy nên để một thời gian suy ngẫm. Chỉ xin nhấn mạnh thêm một điều: hãy tránh căm thù. Căm thù làm thấp kém, làm nhỏ bé, làm xấu xí con người. Có thể câu này tôi nói với người khác thì không đúng, nhưng với anh thì đúng. Chắc anh cũng chẳng hỏi là vì sao. Chúng ta đi vào vết xe đổ của họ làm gì!

Ông Giáo cũng nắm lấy hai cổ tay bạn:

- Anh nghĩ sao về sự kiện kinh tế suy sụp đến bi thảm, vàng chạy trốn ra ngoại quốc? Anh nghĩ sao về chất xám của não cũng thất thoát ra ngoại quốc: bác sĩ, kỹ sư, văn nghệ sĩ… ngày một vắng hoa?

Giọng người bạn già nhường như càng bình tĩnh:

- Tôi hỏi thực anh nhé, la fuite de l’or, vàng thất thoát, vàng chạy trốn ra nước ngoài, nhưng vàng đâu có như Kinh Kha một đi không trở lại? Rồi đây sau khi dân tộc ta đã trả xong nghiệp chướng có cả ngàn lẻ một cách “vàng về… Hợp Phố.” Mà cái mình cần lưu ý đâu phải là vàng? Cái mình lưu ý là cái dụng – cách dùng – của vàng kia, anh thừa biết đấy. Trí thức chạy ra nước ngoài ư? Tôi hỏi anh nhé, anh có dám đánh cuộc với tôi không, trí thức Việt Nam cho đến lúc chế chẳng bao giờ từ khước được mình không là trí thức Việt Nam. Họ ra đi ư? Đứng ở quan điểm hướng nội thì kêu là thất thoát, nhưng trên quan điểm hướng ngoại thì đó là đóng góp. Ra đi là một dịp họ mài dũa cho sắc bén hơn. Rồi cũng như vàng trên đây chúng ta chú ý ở cái dụng của trí thức đó. Trí thức được tôi luyện như thế rồi được sử dụng thế nào cho nhân bản đây? Phục vụ cho con người là đủ rồi dù trong Việt Nam hay ngoài Việt Nam. Ôi anh có thấy không, quả địa cầu nhỏ như trái cam, nhỏ như hòn bi, nhỏ như hạt cải, giờ đây.

Chợt người bạn già chép miệng:

- Mà rồi tất cả những thứ đó cũng là cái huyễn trôi lăn mà thôi! Ông Giáo cười hiền. Tới lúc đó ông mới hoàn toàn ôn lại trong trí câu người bạn già vừa nói “có thể với người khác thì không đúng, nhưng với anh thì đúng!” Và ông nói:

- Tôi biết ý anh muốn nhắc nhở chẳng nên thù hận chán ghét thứ gì, vì thứ gì cũng là ảo huyễn mà thôi. Tôi còn là nhà văn nữa nên đôi khi anh cho phép tôi được nhìn thấy chư Phật, chư bồ tát không phải ở tòa sen lồng lộng sáng ngời năm sắc, trái lại thấy khuôn mặt các ngài cũng hoảng hốt, xót xa, bi phẫn, đứt ruột như vợ mất chồng, mẹ mất con, thấy các ngài cũng hăm hở lột mặt nạ những ác quỷ khoác áo thiên thần. Tuy nhiên tôi vẫn phải thành thực xin anh thứ lỗi cho, đặc biệt là lần này! Câu chuyện giữa chúng mình bao giờ chẳng luôn luôn nhìn trên những đường nét chiến lược bao quát và ý tại ngôn ngoại, tôi đã vô tình và vô lễ kéo anh vào những đường nét chi tiết chiến thuật.

Người bạn già cười, nụ cười siêu thoát rộng rãi làm sao, vừa lúc một luồng gió nhẹ lùa dọc theo đường hẻm, bộ bà ba rộng thùng thình của Hoàng lão-hữu có ngay những nét gợn phơi phới. Người bạn già tri kỷ nói:

- Anh cũng như tôi, sức mấy mà chúng mình nô lệ cho ngôn từ. Tôi xin đọc anh nghe bài kệ của tôi cô đọng cả một đời nghĩ nhiều nói ít – (ông bật thành tiếng cười lớn tuy đầu vẫn cúi) – nói nhiều chăng, chỉ khi nói chuyện với anh.

Rồi người bạn già ngẩng đầu lên (tia nhìn trầm tĩnh giao thoa với tia nhìn chân thành của ông giáo lắng đợi) khẽ gật gù:

- Vâng tôi xin đọc:

Tử vô úy hà úy

Sinh vô tham hà tham

Tử vô sinh vô tử

Sinh vô tử vô sinh

Tử sinh đồng nhất thể

Hà úy hựu hà tham.

Ông Giáo bật tiếng cười sảng khoái, tiếng cười rộng lớn không có góc cạnh, ông đọc lại sáu câu kệ chậm và chắc không sai một chữ.

Tới lúc đó hai người bạn mới thật chia tay. Cả hai cùng vô ngôn. Rõ ràng họ muốn vậy.

Chết chẳng sợ, sợ gì

Sống chẳng tham, tham gì Chết: không sống không chết Sống: không chết không sống Chết sống cùng một thể

Còn sợ gì tham gì.

Phải, chết không hẳn là sống, không hẳn là chết, mà sống cũng không hẳn là chết không hẳn là sống; sống chết đã cùng một thể, như vậy thì còn sợ gì tham gì nữa!

Quả là nghĩ về người bạn già vào lúc này lòng ông Giáo êm ả hẳn:

Tử sinh đồng nhất thể

Hà úy hựu hà tham.

Vừa một tuần qua sau ngày đám con cháu ra đi. Chưa thể có điện tín được! Cứ bình tĩnh! Long êm ả, giời êm ả, chẳng sao đâu! Ông Giáo lại cho ý nghĩ xoay quanh sáu câu kệ của bạn già. Giáo lý nào cũng là nhữn dòng chữ chết, những xác hoa xác bướm nếu không có nguồn sinh lực liên tục của từng cá nhân tu chứng giúp cho giáo lý vận hành liên tục để mãi mãi sắc bén tinh khôi với thời gian. Niềm cảm hứng trầm hùng của người bạn già quả đã đủ sâu và mạnh để kết tinh thành những lời vẫn thuần phác mà vẫn lấp lánh.

Có tiếng trẻ khóc rộ ông Giáo về với thực tại vườn trẻ. Một đứa đái lênh láng trên sàn gác, một đứa ỉa be bét trong chiếc võng làm bằng một tấm vải dù. Ông Giáo làm vệ sinh cho đứa trẻ ỉa trước, rất nhanh rất gọn (ông vẫn nói đùa với vợ con là rất courant service), rồi lau nước đái trên sàn, vừa làm ông vừa độc thoại nội tâm, hay đúng hơn như nói với đám con cháu vắng mặt (rất có thể đương ở trên một chiếc tàu vớt nào đó): “Thấy bố lau cứt đái hào hứng không? Phải thành tựu vô hạn ngay trong cái hữu hạn chứ! Phải xây dựng hạnh phúc vô biên bằng chính những cái tưởng là phiền muộn. Đạt được niềm cảm thông đó là thành tựu được cái khoảnh-khắc-mà-thành-thiên-thu. Bố mặc manh áo rách nè, con cháu thấy không, mà lồng lộng gió cuốn mây trời đó!”

Bỗng ông Giáo nín bặt suy tư, không để tiếng nói tâm linh vang vọng lên lời nào nữa. Bao giờ cũng vào đúng lúc cần thiết ông Giáo chợt thấy gớm sợ ngôn từ, dù là ngôn từ chỉ vang vọng trong nội tâm. Ngôn từ lúc đó như hệt những sợi tơ con tằm nhả ra… nhả ra để tự quấn lấy, tự bao quanh lấy mà giam giữ chính mình.