← Quay lại trang sách

Chương 10

ÔNG Giáo quyết định trong thời gian còn đợi điện tín của lũ con cháu đánh về báo tin đã được tàu nào vớt, ông sẽ không lang thang đi đến nhà bè bạn để khỏi phải nghe kể những chuyến đi bi hùng và bi thảm nữa. Nghe đủ rồi! Đủ quá rồi!

Ở nhà ông giúp bà Giáo trông nom vườn trẻ. Ông lau cứt đái lũ trẻ rất cẩn thận. Lúc chúng chịu chơi êm ả, hay lặng lẽ ngủ, ông cũng nằm khoèo vắt tay lên trán ôn lại những chuyện nổi bật nhất hồi ông còn ở trại lao động cưỡng bách cao nguyê cho tới ngày về với gia đình.

Ở trại lao động cưỡng bách nơi cao nguyên, điều nổi bật bao trùm là ĐÓI. Ông Giáo vốn ăn yếu, ăn ít mà cũng còn đói nói chi những tay sức lực thanh niên. Đói dai dẳng, đói thường xuyên nên tất cả ý nghĩ đều thâu hút vào bữa ăn. Vào những ngày đầu vụ thu hoạch bắp rồi khoai, rồi mì (sắn), còn được no một chút, nhưng chỉ được một tuần là cùng, bàn tay của ban quản lý trại đã vội siết chặt để kịp dập tắt những ánh mắt những nụ cười và để khuôn mặt đói, đói dai dẳng, đói đến ngơ ngác của toàn trại tái xuất hiện cho đúng… tiêu chuẩn. Người nhà ở Sài Gòn hay ở các tỉnh miền Đông, miền Tây, vượt từ 800 đến 1000 cây số thăm nuôi chồng con, nội quy trại chỉ cho nhận 3 ký đồ, khéo nài nỉ được khoảng 5 ký, về trại chia sớt cho những bạn nghèo không bao giờ được thăm nuôi, và đáp lễ những người đã từng chia sẻ cho mình, còn lại chừng hơn một ký đồ, ăn dè được một tháng là cùng.

Bởi vậy, ngay khi còn đồ, đồ thăm nuôi ăn thêm mà có được là bao, khuôn mặt của toàn trại bao giờ cũng ĐÓI thường xuyên đói, dai dẳng đói. Nguồn protéine thạch sùng thật mong manh, chỉ mấy lần bị đám phạm nhân bố ráp là tuyệt chủng. Thỉnh thoảng có được chú rết dại dột thấy ánh đèn nê-ông bật sáng trên sà nhà vào lúc chập tối vội ngoe nguẩy ra dự hội… hoa đăng, lập tức bị đám phạm nhân ngủ sàn trên vồ ngay (dĩ nhiên về phần anh lẹ tay) bẻ nghiến một bên ngàm để khỏi bị cắn, hôm sau đem ra hiện trường nướng ăn ngon nào kém gì tôm nướng. Những anh khéo tay làm được bẫy chuột bẫy chim, mỗi ngày được thêm một con chim con chuột nướng ăn, đều được anh em nhìn bằng con mắt thán phục và thèm muốn. Ngoài hiện trường, những người lanh tay lẹ mắt cố gắng kiếm thêm được chút rau (rau tàu bay, rau cuống chiếu, rau dền cơm…) tát vội một khoảng nước cạn may ra bắt được vài con tép, con cua, đi qua vùng rậm cố bắt vài con cào cào, châu chấu, nếu lại đập chết được con rắn nước, con thằn lằn, con rắn lục, bữa ăn được coi là tiệc rồi đó… Đói, đói dai dẳng, đói ngơ ngác. Nói với nhau thuần bàn chuyện ăn: bố trí bữa ăn, phương pháp kiếm thêm thức ăn. Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm mà! Khi không nói chuyện ăn, tư tưởng trong yên lặng vẫn âm thầm… suy tư về ăn. Ăn xong bữa sáng thì tư tưởng hướng về bữa ăn trưa khi lao động ở hiện trường về; ăn xong bữa trưa tư tưởng hướng ngay về bữa chiều khi lao động ở hiện trường về.

Sở dĩ như vậy vì bữa ăn nào cũng thiếu, thiếu quá đi. Khẩu phần mỗi bữa đổ vào dạ dày như gió hiu hiu thổi vào nhà trống. Tuổi trẻ nhiều khi “yêu mà như chưa yêu,” phạm nhân nơi đây thì “ăn mà như chưa ăn.” Với nhiều người dù đã cố tình nhai rất chậm, ăn rất lâu mà khi ăn xong cảm thấy càng bị cồn cào, càng bị kích thích cho đói thêm. Thường thì chợp ngủ là mơ ăn, có người mở miệng nhai tóp tép hẳn hoi. Đói và thiếu thốn đến mức khi được nhấm hạt muối mà thấy ngọt thỉu.

“Kinh khủng quá bác ơi, cháu chưa thấy tù nào như tù này, ngoài sức tưởng tượng.” Một người bạn trẻ thốt khẽ với ông Giáo. Một người bạn trẻ khác, trí thức hơn, dùng lời Pascal: “Thưa bác, trí tưởng tượng phồn thịnh đến mấy cũng chết đuối nơi này – (l’imagination s’y perd).”

Riêng ông Giáo cũng tự nhận là dù khảnh ăn và ăn yếu như ông mà dạ dày cũng biến thành thứ cân tiểu ly rồi, ông cũng như bất kỳ một phạm nhân nào khác nhặt từng hạt cơm vãi, kể cả hạt cơm rơi trên vệt máu rệp bị giết trên khoảng sàn nằm. “Không một giọt máu chảy ngoài huyết quản” – ông vẫn thường cười và nói đùa như vậy. Dĩ nhiên tất cả những việc cải thiện bữa ăn như kiếm thêm rau rừng, bắt cua bắt cá, bẫy chim bẫy chuột đều phải làm lén lút, mắt trước mắt sau, cán bộ bắt được là đứng chào cờ (đứng nghiêm trước cán bộ), uống cà phê đắng (chịu trận mắng chửi lên lớp của cán bộ quản giáo hay cán bộ quản chế) và viết kiểm điểm.

Có phạm nhân kiên nhẫn tích trữ tất cả những hạt thóc nhặt được bữa này qua bữa khác để tới một chiều chủ nhật nào đó được nghỉ hẳn hoi đem số thóc thu nhặt được ra cắn từng hạt, bỏ trấu lấy gạo, hôm sau ra hiện trường lén lút đun vụng cũng được một gô (lon đựng sữa bột guigoz xưa) cháo loãng.

Vào mùa mưa, những phạm nhân lanh tay lẹ mắt còn thêm được hai nguồn thức ăn rất phong phú: nấm mối và măng. Măng khi luộc bỏ thêm vào nước sôi một cục than hồng, như vậy – theo kinh nghiệm đồn đại của những người đi trước – măng sẽ hết đắng. Còn nấm mối thì khỏi chê, đúng là thứ sơn hào quý giá, nướng hay luộc đều thơm và ngọt, nhai như nhai thịt gà.

Vào hôm trời sắp nổi dông bão, kiến mối bay ra rồi tự cắn đứt cánh, phạm nhân bắt chúng ở quanh đèn nê-ông hay dọc theo hàng rào, giội nước cho sạch đất rồi đun với chút mắm thừa, ăn với cơm thấy bùi nghịt tưởng chừng có thể phần nào so sánh với đậu phọng. Măng và nấm, ông Giáo được những người bạn trẻ có lòng ưu ái mời ăn, nhưng suốt hơn hai năm trời bị giam giữ ở trại lao động cưỡng bách này, ông giáo chưa hề ăn thịt chuột thịt rắn. Những hảo thủ đã từng ăn những thứ đó thì khen thịt chuột ngon như thịt chim, thịt rắn như thịt gà. Ông Giáo tự hứa khi nào được về với xã hội bên ngoài ông sẽ thử ăn hai thứ thịt đó xem sao. Thì ở Sài Gòn trước đây, vào thời “ngụy” há chẳng có mấy tiệm chuyên bán thịt ba ba và thịt rắn đó sao, còn thịt chuột thì ở miền Tây, chuột đồng béo tròn bị bắt cả đàn lột da moi ruột rồi cho và chảo mỡ đầy, ăn dòn và thơm phức kém gì thịt chim thất đó. Có điều – vẫn lời đám hảo thủ ở trại giam này căn dặn nhau – thịt chim, thịt rắn, thịt chuột ở hoàn cảnh thiếu đủ mọi gia vị này chỉ có cách duy nhất là nướng mà ăn, chớ ăn luột, tanh ngòm! Có một dạo ông Giáo được cử công tác ra suối gánh cát về cho các bạn đồng đội khác rải sân và tráng khuôn đóng gạch. Một lần ông Giáo xúc cát thấy lộ ra một quả trứng trắng phau xinh thật là xinh, ông cuối xuống lấy tay bới cát thì moi ra được mười lăm quả nữa, đem về chia cho một số bạn trẻ thân. Ai nấy tưởng trứng ba ba, đến khi luộc ăn thấy bên trong đã thành hình tắc kè nhỏ. Trứng luộc tanh ngòm nhưng ông Giáo cố nhắm mắt nuốt cho xong để gọi là tiếp tế cho cơ thể chút ít “chiến lợi phẩm” ngoài hiện trường suốt thời gian hai năm rưỡi bị giữ ở nơi đây.

Và cũng khoảng thời gian được chỉ định công tác xúc cát gánh về này, ông Giáo được sống thoải mái hơn cả giữa một vùng thiên nhiên núi rừng và suối. Lúc ngừng xúc cát bên bờ suối, ông ngửa mặt nhìn khoảng ngọt cây rừng reo vui với nắng gió tít trên cao; hạ thấp tầng nhìn khoảng ngang thân cây, bóng rừng âm thầm hơn ấp ủ bê trong cả một chu kỳ sống và chết, sinh trưởng và tàn lụi của thực vật; dưới nữa là dòng suối ngay bên ông. Nhắm mắt lại: tiếng suối reo vui, tiếng suối tưng bừng; mở mắt ra: dòng nước hung hãn nơi này, lao mình vào những tảng đá tròn nhẵn thín nhô cao, bọt nước tung tóe trắng xóa; dòng nước phẳng lặng nơi kia, vẫn cuồn cuộn miệt mài xuôi dòng đấy nhưng trầm lặng hơn nhiều. Có lúc đương xúc cát, mấy chiếc lá vô tình rụng xuống va đúng vào đầu, vào vai, ông Giáo mỉm cười nghĩ rằng thần rừng thần suối vừa tinh nghịch lẻn tới vỗ nhẹ lên đầu lên vai để trêu ông. Ông xúc cát cảm thấy bớt cô tịch, mà dường như cả khoảng rừng suối này cũng bớt cô tịch đi nhiều.

Cũng vào dịp này, ông được thoải mái nhấm nháp những nõn lá đọt cây. Có những nõn lá màu vàng mượt ăn vào thấy ngày ngậy như có chất mỡ chất thịt; có những nõn lá màu đỏ thoạt nhai thấy chát nhưng chỉ lát sau chuyển thành ngòn ngọt, hương vị ngòn ngọt ấy còn lưu luyến khá lâu nơi cuống họng. Ông có tìm ra được mấy cây bứa nhỏ ngay bên bờ suối, đọt bứa ăn chua như me, chắc chắn cung cấp cho cơ thê ông một dung lượng không nhỏ Vitamine C. Nhân một lần có anh bạn trẻ chỉ cho ông một loại cỏ trâu bò vẫn ăn, nói rằng trước đây anh ta vẫn đi nhổ từng cụm cỏ đó về giã lấy nước pha đường uống rất mát và bồi bổ sinh lực rất chóng. Ông Giáo đã nhổ những cụm cỏ đó, rửa sạch dưới suối rồi cho vào miệng nhai dần, hương vị ngọt nhẹ và tinh khiết vô cùng. Nhai nuốt hết chất ngọt thơm tinh khiết của nó, ông nhả bã và cho vào miệng những cọng khác. Mấy ngày như vậy qua đi, ông có cảm tưởng tinh thần sảng khoái hẳn, sinh lực dồi dào hẳn. Chẳng biết có phải do ảo giác tự kỷ ám thị? Tuy nhiên chính vào dịp này ông mới có dịp suy ngẫm nhiều về bầu sữa mênh mông bất tận của bà mẹ thiên nhiên đã nuôi lớn nhân loại. Buổi chiều, vào lúc sắp hết giờ lao động trước gánh cát cuối cùng, ông xuống suối tắm. Dầm mình dưới làn nước thoạt lạnh buốt sau thành mát thăm thẳm, ông kỳ cọ thân thể mà có cảm tưởng như đang gột rửa cả tâm hồn.

Ngày 22/1/80 ăn xong phần khoai sáng còn đói meo, ông giáo theo tiếng còi ra tập họp cùng toàn đội tại sân lớn trong trại đợi điểm danh xong là ra hiện trường. Một cán bộ trại tới đội bảo ông ở lại để lao động trong (có nghĩa là lao động trong trại). Khi đội nào đội nấy đã tiếp nối nhau ra hiện trường, toàn trại vắng hoe. Viên cán bộ trực bảo ông giáo về thu xếp áo quần chăn màn và nói thêm: “Có thể anh được trả tự do.”

Dĩ nhiên ông giáo mừng lắm và biết đích thực là mình được trả tự do rồi, chẳng còn nghi ngờ gì nữa, nhưng ông vẫn hoàn toàn làm chủ được tính cảm, bình tĩnh thu xắc đeo, lẵng xách, để lại những thứ không cần thiết cho những bạn kế cận xử dụng, rồi vẫn điềm đạm nghiêm cẩn, ông theo người cán bộ trực tới văn phòng làm tờ cam đoan khi trở về với xã hội sẽ tuân hành ng- hiêm túc luật pháp của chính phủ. Giữ được bình tĩnh như vậy không một cử chỉ bứt rứt, không một tâm trạng xao động nôn náo, ông giáo tin rằng đó là tác dụng của thiền. Suốt ba năm chín tháng bị tạm giữ, ba lần thay đổi trạm giam, đêm nào ông cũng thức giấc vào giờ Tý hoặc giờ Dần, ngồi thiền chừng khoảng nửa giờ, trừ một số đêm rất ít vào trường hợp ông bị bịnh hoặc bị mệt.

Sau khi nhận số tiền hai mươi lăm đồng làm tiền lệ phí về với gia đình, ông chào các cán bộ tại văng phòng, đeo xắc lên vai và xách lẵng ra khỏi cổng trại theo đường đồi ra quốc lộ số 19 đón xe. Trên đường ông giáo gặp một cán bộ quản chế đi ngược đường vào trại.

- Anh kia đi đâu? Giọng người cán bộ ng- hiêm khắc như thường lệ.

- Báo cáo cán bộc, tôi đã được cấp giấy trả tự do.

Khuôn mặt người cán bộ dịu đi, thoáng một chút bâng khuâng. Có thể người đó thoáng nghĩ đến quê hương gia đình, ngoài miền Bắc xa xôi. Không có nụ cười, nhưng giọng nói thật dịu.

- Ờ thôi, anh về xum họp vui vẻ với gia đình vào dịp Tết này nhớ.

- Cám ơn cán bộ!

Ông giáo đã đi được mấy bước, người cán bộ còn nói theo:

- Về với gia đình vào dịp Tết này thì nhất rồi còn gì!

Vẫn giữ được trạng thái tâm hồn thật bình tĩnh, ông giáo vừa đi vừa ngắm qua cảnh trí xung quanh: đường quanh co, đồi chập chùng với những bụi cây thấp, đây đó vài cụm mua hoa tím, gợi ông nhớ nhiều tới miền Trung du tiếp giáp với Thượng du Việt Bắc thời kháng chiến. Ra tới quốc lộ số 19, ôi chao, lâu… lâu lắm rồi ông mới được ngắm màu xám thẫm như đá mài của con đường thiên lý trườn mình về hai ngả. Có năm em bé khôi ngô trong số đó có một em gái người Thượng đương ríu rít từ xa lại, em trai đi đầu cầm chiếc gậy múa may một cách hào hứng. Thấy ông giáo ngồi chờ xe bên lề đường, các em ngừng lại, ngắm nghía tò mò. Thái độ đó thoạt làm ông mếch lòng; ông nghĩ tới loại nhi đồng sớm bị bôi bẩn, dạy cho cách do thám canh chừng người lớn, như một em bé Hàng Bạc đã kín đáo theo dõi biết chỗ cha mẹ em chôn dấu vàng ở chân tường phòng ăn, kịp thời báo cáo với Công an tới tịch thâu.

Em bé cậm gạy nói khẽ với bốn em kia:

- Ông này giờ đây sướng nhất trần đời!

Là dân địa phương, thoáng trông, em biết ngay ông là tù vừa được trả tự do… Em tiến thêm một bước tới gần nói với ông giáo:

- Chú sẽ về đâu?

Ông giáo cười hiền nhưng trong lòng vẫn ác cảm với em bé:

- Chú về Saigon, cháu. Em bé nói ngay:

- Thế thì chú nên đón xe lên Pleiku rồi từ đấy chú mua vé xe về thẳng Saigon.

- Cám ơn cháu, chú cũng định vậy đó.

Sự thực tới lúc đó, nghe em bé nói ông mới quyết định như em gợi ý, vì chợt lãng ý ông giáo không rõ em bé vừa nói thêm câu gì với ông, ông chỉ kịp bắt được ba tiếng sau cùng “năm đồng chú”. Cho rằng “em bé do thám” của chế độ cuối cùng ngỏ ý xin ông năm đồng, ông trả lời giọng nghiêm lạnh:

- Chú vừa ở tù ra, chú làm gì có năm đồng cho cháu.

Em bé lắc đầu quầy quậy:

- Chú không hiểu cháu nói. Cháu bảo: xe từ đây lên Pleiku năm đồng là cùng.

Ông giáo chợt hối hận vô cùng, hối hận đến xấu hổ vì đã hiểu lầm em bé. Sự xấu hổ đó càng thấm thía khi ông nghe em bé nói tiếp:

- Chú mới ở trại học tập được thả ra, chú có thể xin đi nhờ, người ta không lấy tiền đâu. Kìa xe lên Pleiku sắp tới kìa.

- Chú nhớ xin người ta khỏi trả tiền nhé. Chú về mạnh khỏe với gia đình.

- Cám ơn cháu! Cám ơn cháu!

Ông giáo vừa nói vừa vội lên xe cùng xắc và lẵng đồ, lòng càng cảm thấy xấu hổ thấm thía hơn vì đã chót hiểu lầm em bé phúc hậu. Xe chạy, ông ôn lại trong trí hai năm rưỡi trước đây ngày xe chở phạm nhân di chuyển từ trại Phan Đăng Lưu (T.20) Gia Định, lên trại lao động cưỡng bách cao nguyên này, xe ngừng lại nơi đâu (Nha Trang,

Sông Cầu, Bình Định) là dân chúng quẳng thức ăn lên xe (bánh tráng, bánh cuốn, bánh chưng…) bất chấp cán bộ áp tải ngăn cấm. Đám phạm nhân trong xe muốn đứng lên ló đầu ra cám ơn đồng bào, bị đám cán bộ áp tải uy hiếp ngăn cấm bằng được. Phải đợi lúc xe bắt đầu chuyển bánh cả đám phạm nhân mới nhất loạt đứng lên chào vẫy đồng bào hảo tâm, cả hai bên cùng xúc động chảy nước mắt. Thực ra hồi còn bị gian ở trại Phan Đăng Lưu, ông giáo đã từng nghe những chuyện tương tự nhưng còn bán tín bán nghi. Bây giờ thì ông giáo hiểu rằng dân chúng khắp nơi bên ngoài thương những phạm nhân chính trị vô cùng bởi vì chính chồng con cha anh họ cũng đương bị giam giữ ở một trại tập trung cưỡng bách lao động nào đó. Đám em bé kia sớm trưởng thành, sớm có ý thức về tình thương, vì các em đã lớn lên trong hoàn cảnh đó giữa mẹ cha anh chị và đồng bào.

Tới Pleiku nghe lời một bà trên xe, ông giáo đi sắp hàng lấy vé xe về Saigon ngay, nhưng không kịp, hàng còn dài mà vé đã hết. Vào nhà trọ xếp gọn đồ nơi giường nằm. Thực phẩm do trưởng nữ thăm nuôi ba tuần lễ trước đây nay còn đường thẻ, bột sữa, mì vụn và bơ. Số tiền 25 đồng chính phủ cấp với số tiền của mình còn cộng thành 65 đồng tất cả. Vé xe đò về Saigon có 15 đồng, vậy phải ăn tiêu dè sẻn sao cho cầm cự được 4 ngày. Nhìn cung cách chen lấn nhau và kêu la khi sắp hàng lấy vé, ông giáo dám nghĩ có thể bốn ngày nữa mới lấy được vé, số tiền vừa xoẳn.

Dẫu sao thì cũng phải ăn một bữa lấy no cho xứng đáng một con người được trở về với xã hội công dân. Ông giáo bèn ra bến xe (ngay bên ngoài nhà trọ) mua hai ổ bánh mì bự, hai đồng một ổ. Xuống bếp nhà trọ xin được một thố nước sôi mang về giường pha bột sữa với đường. Lúc đó khoảng hai giờ chiều, ông giáo định chỉ ăn một ổ bánh mì, còn một ổ để dành đến tối, không dè thuận miệng nuốt trôi tuồn tuột, loáng cái hết nhẵn cả hai ổ mà còn thòm thèm. Buổi chiều xẩm, ông giáo vào tiệm ăn quốc doanh gọi một tô phở ba đồng. Toan đánh liều gọi thêm một ly cà phê, nhưng một đồng tư một ly, đắt quá, giá lỏm lẻm cả một ổ bánh mì bự ăn tạm no, nên ông quyết định uống nước trà của tiệm không mất tiền rồi về ngủ. Ngày đầu tiên làm công dân tự do, ông đã vỗ về cái dạ dày đỡ đói hẳn. Suốt ngày hôm đó, và suốt mấy ngày hôm sau, ông luôn luôn nhìn ánh nắng, nhìn đồng hồ, nhìn ánh đèn để tưởng giờ đó các bạn đồng đội của ông đang làm gì ở hiện trường hay ở trại. Được cái cơ quan nào gần đấy cũng dùng hiệu kẻng, ông giáo có cảm tưởng cả nước Việt Nam từ Ải Nam Quan tới mũi Cà Mau bây giờ đều sống giờ giấc theo hiệu lệnh của tiếng kẻng lanh lảnh, vừa khắc nghiệt, vừa lạc hậu. Thật là một ám ảnh hãi hùng.

Tại nhà trọ đêm đầu, khoảng một giờ sáng ông thức giấc ngồi thiền, rồi theo dãy hành lang hẹp thăm thẳm ông ra cửa sau đi tiểu, rồi đứng trên một khoảng đất phẳng đỉnh đồi, ngửa mặt ngắm vòm trời sao, tìm các chòm sao quen thuộc: Đại Hùng Tinh, Tiểu Hùng Tinh với sao Bắc Đẩu, chòm Cassiopee, chòm Orion, chòm Thập Tự Nam. Đêm không trăng nên ánh sao càng vằng vặc, nhiều vì sao như những chấm nhòe rực rỡ trên thảm nhung, cả bầu trời sao như thu nhỏ lại đầy đủ trọn vẹn, tia nhìn không bị vướng mắc.

Hôm sau, có thông báo không có xe đò về Saigon, ông giáo lo lắng. Tới lúc đó ông mới nóng lòng trở về với gia đình. Nếu ngày mai xe Saigon cũng vẫn không có thì biết đến bao giờ ông mới về với vợ con đây. Buổi chiều ông tới phòng bán vé, thấy cảnh hành khách chen lấn nhau, cãi nhau, kêu la như chợ vỡ để cố mua lấy tấm vé về Qui Nhơn mà thấy nẫu lòng. Người lấy xong vé chẳng còn lối nào ra thoát, đành trèo lên khoảng gờ ghi-sê rồi giẫm đại lên đầu, lên vai, lên cổ những người quanh đấy mà nhảy xuống khoảng tương đối trống. Thỉnh thoảng lại có tiếng thét lanh lảnh bất thần của một người đàn bà bị giẫm lên chân đau điếng, tiếng thét hốt hoảng thê thảm y hệt tiếng thét là của một người bị giải phẫu không có thuốc tê.

Chợt cả đám đông náo động giạt về bốn phía, những tiếng gì nghe như tiếng chày giã gạo.

“Thằng ăn cắp, đánh chết mẹ nó đi!” Một người bộ đội đương đấm cần cù những cú đấm chắc nịch vào giữa mặt chú thanh niên mặt mũi trắng trẻo khôi ngô khoảng mười bảy mười tám tuổi. Người bộ đội lực lưỡng vẫn tiếp tục thoi đều vào mặt đứa ăn cắp rồi lôi xềnh xệch nó ra khỏi phòng, kéo xuống khoảng rộng của bến xe. – “Tao sẽ đánh cho mày kỳ chết” - người bộ đội nghiến răng nói. Ông giáo cảm thấy cả cơ thể, cả tâm hồn tê tái, ông không cầm được hai giọt lệ ứa ra.

Thằng nhỏ ăn cắp trạ tuổi mấy đứa con ông ở nhà, ông tưởng như người bộ đội đương đánh con ông, đánh dập vùi, đánh đến chết, vô phương cứu gỡ.

Ông cảm thấy lòng dạ cồn cào khi trở về phòng trọ. Làm sao về sớm được với vợ con ông bây giờ, trong đám con ông – tám đứa – có bốn đứa con trai sinh liền nhau từ mười bẩy đến hai mươi hai tuổi cũng khoảng tuổi chú nhỏ sa cơ đi ăn cắp bị đánh dập vùi sống dở chết dở. Ông nghĩ thầm trong trí xem mình còn bộ đồ nào khả dĩ bán được lấy tiền mua vé chợ đen vậy. Nhưng quần áo của ông cũ quá rồi, ngoài ra ông còn vật gì đáng tiền nữa đâu.

Hôm sau, biết là một giờ chiều người ta mới bán vé, ông ra xếp hàng từ mười giờ vậy mà cũng còn đứng sau trên mười người. Dù cho mỗi người đứng trên ông mua hai vé, đến ông vẫn còn chỗ ngồi. Ông nghĩ đến cha mất vào đúng năm miền Nam thất thủ - 1975 – Ông khấn thầm: “Thầy ơi, xin thầy phù hộ cho con mua được vé hôm nay để sớm về với gia đình.” Phòng vé đông dần. Bên ghi sê bán vé Qui Nhơn Bình Định lại đông nghẹt, lại những cảnh leo trèo thường lệ, tiếng la hét thất thất thanh thường lệ. Một giờ chiều bắt đầu bán vé về Saigon. Ông giáo lại khấn thầm và bám sát lấy người đứng trước, hết sức cảnh giác không cho kẻ nào chen ngang vào như mấy người phía trên. Còn ba người nữa tới ông, rồn còn hai người. Chắc chắn ông lấy được vé hôm nay, mai lên xe sớm, sớm mốt đã có mặt ở nhà giữa đám vợ con reo vui tưng bừng. Còn một người nữa ông vươn tay nắm chắc lấy gờ cửa ghi sê, rồi ông tiến lên chắc nịch. Tới phiên ông xuất trình giấy xuất trại và mười lăm đồng tiền vé. Nhận tấm vé, ông nắm chặt trong tay tưởng như vò nát, ông vui sướng đến bàng hoàng, ông luột ra khỏi đám đông thiết tha nói thầm với hương hồn cha: “Thầy ơi, con mua được vé để về với gia đình rồi.” Thêm mấy lần nữa trong nửa ngày còn lại ông giáo nhắc thầm câu trên thiết tha như hệt. Thành thử chính lúc ông hay tin được trả tự do ông giữ được bình tĩnh, nhưng đến lúc mua vé xe đò, kể cả sau lúc ông mua được vé rồi, ông nôn nao bồn chồn, mất bình tĩnh hẳn.

Gần trọn một đêm thao thức, mấy lần ông ra phía cửa sau ngẩng nhìn vòm trời sao. Sáu giờ sáng ông lên xe. Rồi xe rời khỏi Pleiku, qua khoảng cây số 124 – 125 là khu trại tập trung cưỡng bách lao động ông vừa thoát khỏi, xuống đèo An Khê, xuống Qui Nhơn. Trên xe ngồi gần ông giáo là một bà cụ và một thiếu phụ cũng vừa đi thăm nuôi con và anh ở trại cưỡng bách lao động Cao Nguyên về. Cả hai đều là những sĩ quan học tập. Cụ già – người Bắc – có con trai ở trại tập trung Thanh Hóa, người thiếu phụ - người Nam – có anh ở trại tập trung Vĩnh Phú. Khi biết ông giáo chính là kẻ từ cõi chết trở về cõi sống, hai người quý và mừng rỡ tưởng như chính người thân của mình về vậy. Người thiếu phụ có vẻ đẹp Tây Phương, nét mặt thanh tú, thân hình chắc lẳn. Giọng nàng cao và trong kể lại cho ông giáo nghe truyện nàng ra Bắc tới trại Vĩnh Phú thăm nuôi anh tháng trước. Khuôn mặt, ánh mắt nàng khi kể vừa hồn nhiên vừa đau đớn, niềm đau đớn tuy nhói buốt nhưng nàng cố làm chủ ghìm giữ nó ở chiều sâu. Đôi lúc giọng trong sang sảng của nàng như vỡ ra vì vấp phải tiếng nấc bên trong, đó là vào giây phút nàng không kìm được xúc động.

- Tốn kém lắm bác ơi – nàng nói – mỗi lần đi thăm nuôi cho hai ông anh con là một lần bán đồ, khi thì chiếc cà rá, khi thì cái tủ, khi thì bộ sa- lông. Dọc đường có những cái tốn bất ngờ mình không thể lường trước được. Lần vừa rồi tới trại kiểm soát cuối cùng của trại Vĩnh Phú họ bắt con phải đóng thuế đồ thăm nuôi một trăm đồng nữa. Biết là chúng làm tiền con không chịu đóng, thì gan ngồi lỳ đó nửa ngày. Chúng nó mặt sứa gan lim lắm bác ơi, sau cùng con đành chịu đóng và đòi bằng được chúng phát cho một giấy biên lai.

Nhận trao biên lai xong con đi được một quãng xuống bến đò sửa soạn thuê đò vào trại, nó cho một thằng khác tới chặn đòi lại biên lai. Con không trả. Đóng thuế phải có biên lai chớ, ngộ trước khi vào trại còn gặp một trạm kiểm soát nữa bắt đóng thuế nữa thì sao. Nó lạnh lùng bảo con: “Không trả biên lai thì chị cứ ôm đồ ngồi đây.” Thì ngồi! Con lại thi gan với chúng một lần nữa xem sao. Nhưng cả vùng Trung Du đó vắng lặng, người qua lại thưa thớt câm lặng, cảnh như cảnh tiền sử, người như người tiền sử. Con đàn chịu thua trả nó tấm biên lai. Lúc đó thằng đó mới nói: “Chị cứ yên tâm đi, trạm kiểm soát của chúng tôi là trạm kiểm soát cuối cùng.” Người dân yếu đuối trần trụi không bấu víu vào được bất kỳ cái gì để hòng che chở. Les citoyens sans défense! Ba con, cựu công chức bộ Ngoại Giao vẫn nói vậy đó, thưa bác! “Đói quá chị ơi!” “Đói quá má ơi!” “Cái gì cũng thiếu, cái gì cũng thèm, Má!” Đó là những lời chúng con được nghe khi bước vào khu vực của trại gặp những người quân nhân học tập đương lao động gánh đá. Thưa bác, sáng họ được một khúc sắn, trưa hai khúc, chiều được một bát cơm sắn nếu làm đủ chỉ tiêu, nếu không nhịn luôn. Thưa bác, từ ngày má con nghe kể chuyện này má con bưng lên miệng bất kỳ thức gì cũng khóc ròng. Thương anh con đói. Có đứa trẻ theo mẹ cùng ra Bắc thăm bố, nhìn bố lắc đầu rụt cổ nói với mẹ: “Không phải bố, bố không bé thế.”

Trong phòng gặp thân nhân và nhận đồ thăm nuôi, một bà vợ té xỉu khi thấy chồng mình đã lẹ tay ăn cắp của một bà tới nuôi bên cạnh một miếng thịt gà rán cho vào miệng nhai ngấu nghiến. Đói quá, thèm quá! Bác có biết không, lá thư cuối cùng ba cháu viết cho anh cháu ở trại Vĩnh Phú đại ý nói kín đáo rằng: “Nếu có thể tự tử được thì cứ tự tử đi.” Chính vì ba con thương anh con, thương lắm, mà đành phải xui vậy.

Bà cụ người Bắc cũng kể lại cho ông giáo những nét đói khổ tương tự của một địa ngục tương tự ở Thanh Hóa. Có điều giọng cụn kể bình tĩnh hơn, đôi khi đượm chút khôi hài. Cụ nói gặp thằng cán bộ nào cụ cũng huỵch toẹt vào mặt, cụ nói thẳng, cụ chửi tuốt. Cụ 73 tuổi, gần đất xa trời rồi, cụ sợ gì! Gặp con cụ đã nói thẳng: “mẹ nhận được thư con nói ngày mới giải tới đây gặp trời mưa đá, ăn trầu cho đỡ lạnh! Thì con cứ nói phăng là bị một tổ chức trá hình dân chúng ném đá chảy máu miệng, việc gì phải che dấu sự thực. Chính phủ nào thì cũng dạy dân phải luôn luôn ngay thẳng, phản ánh đúng sự thực mà!” Mấy người cán bộ đứng giám sát gần đấy lờ đi như không nghe thấy gì.

Chuyến xe về với gia đình của ông giáo chạy ngon lành đến Đèo Cả thì pan, cũng là loại pan giả vờ để làm tiền thêm hành khách, nhất là đám hành khách con buôn. Sự gian dối đã được mặc nhiên chấp nhận thành một nếp sống của cái xã hội bị tước đoạt, bần cùng hóa đến mức này, nên biết là pan giả vờ nhưng mọi người cũng góp kẻ ít người nhiều cho xong chuyện. Hôm nghe Thiện kể đến mánh lới này, ông giáo mủm mỉm cười không nói gì thêm. Ông không muốn tô đậm thêm một nét bi quan vào tâm hồn trẻ. Âu đó cũng là một “méo mó nghề nghiệp” của một người trong ngành giáo dục. Ấy, tuy là pan giả vờ nhưng xe cũng dừng lại trên đèo qua đêm (hẳn là cho đám ét, lơ, và tài xế ngủ qua đêm).

Xe về tới bến lục tỉnh Saigon cũn khoảng bốn giờ rưỡi sáng. Vai khoác sắc, tay xách lẵng ông nôn nóng rảo cẳng đi về nhà cách đấy chừng nửa cây số. Trời còn tối, đêm qua có mưa, hơi nước mờ mờ, kính cận bị vỡ từ lâu, ngần nhiêu bất lợi làm cho ông giáo bị lúng túng khá lâu khoảng bùng binh Ngã Bảy. Tìm ra đúng hướng về nhà. Vào đúng hẻm chính nhà mình, ông giáo cũng loay hoay tìm mãi không ra nhà. Ông gọi nhũ danh bà giáo trước một căn nhà hao hao giống nhà mình, bên trong có tiếng người ngái ngủ vọng ra là không có ai tên đó. Ông lật đật bứt rứt đi rồi lại chợt dừng lại trước vài nhà nữa, có lúc chợt cuống quýt như con chuột bị dồn vào thế chân tường.

Sau cùng gặp một căn nhà đã có người thức đèn bật sáng ngoài phòng khách, ông hỏi lớn: “Cô chỉ giúp tôi nhà bà giáo Q. ở xóm này.” – “Ông đi sâu vào thêm ba nhà nữa.” Người đó đáp chẳng buồn ngẩng nhìn. Ông đi sâu thêm ba nhà nữa. Đúng nhà mình đây rồi. Ông giáo gọi ngay tên cô trưởng nữ: “Hoa ơi, bố về nè!” Tiếng một đứa reo như reo cho cả nhà, như thể nó ngồi lắng đợi như vậy từ bao nhiêu đêm thâu rồi. “Bố về!” Tiếng reo ngắn gọn như có hào quang bừng lên trước, rồi đèn bật sáng ngay sau. “Bố về! Bố về! Bố về!” Không phải là những tiếng vang dội tự vách đá mà là tiếng reo vui của nhiều giọng cao thấp khác nhau, của bà giáo, của lũ con trai, của lũ con gái, của lũ cháu. Thoát thôi, cả phòng khách đã đầy đủ mặt đại gia đình… Rồi hàng xóm nữa. Ông giáo kể chuyện lung tung tìm nhà. Trưởng nữ Hoa nói:

- Từ Thức nhập thiên thai rồi về, mấy trăm năm qua, không nhận ra nhà.

Hải, thằng con trưởng phát biểu giọng điệu khôi hài:

- Bố xa nhà lâu hơn Từ Thức nhiều, nhiều lắm chứ. Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại mà! Còn là tù Cộng sản nữa!