Chương 13
PHẢI, nhưng còn bà giáo? Bà nóng lòng sốt ruột lắm rồi, những lời tự vỗ về ảnh con nó tươi lắm, mấy ngày liền sau khi chúng nó ra đi trời êm nắng đạp gió hiu hiu, bà không cần nghe. Giẹp, giẹp đi hết, bà chỉ cần điện tín! Bà đương ngồi trong bếp thì ông trưởng nam Hải dẫn xác vào. Bà mắng liền:
- Chúng mày mấy đứa con giai có biết xót bố mẹ không? Bố mẹ lau cứt, dọn đái, dỗ ngủ lũ trẻ suốt ngày được hai đồng một đứa, miệng chúng mày ngậm lệch điếu thuốc lá ngoại quốc, sướng lắm hả?
Vi – thằng thứ hai – cũng tự ngoài toan vô bếp vào nhà cầu, nghe tiếng mẹ đương mắng anh vội đứng khựng lại, rồi quay gót ra không vào nữa. Vi đầy rẫy tội lỗi, vào thì chết: bán quần, bán áo, bán thuốc của mẹ lấy tiền đi thết bạn cà phê thuốc lá. Rút cục chỉ một mình Hải lãnh đủ. Bà giáo tiếp tục kể tội lũ con trai:
- Ngủ chín, mười giờ sáng mới dậy – (lúc khác bà thương chúng thiếu dinh dưỡng) – để mặc bố mẹ giặt quần áo, quét nhà, rửa bát, dội cầu tiêu, lau bàn ghế…
Ly mới đi thăm bạn về ngay tình đi thẳng xuống bếp. Vi nhìn theo chị nói thầm: “chết bà rồi!” Quả nhiên tiếng bà giáo từ dưới bếp vang lên, chuyển mũi dùi sang Ly:
- Tao mới lục thấy một đống áo sợi móc của lũ con gái chúng mày kia, tao phải đem ngâm sà bông giặt kia. Lúc thích, móc hai ba tuần xong chiếc áo, mặc được ít lâu chán bỏ, để vàng khè…
Ông Giáo cũng muốn vào bếp nói vài câu đỡ đòn cho lũ con, nhưng ông biết nói vào lúc này không lợi, chỉ tổ đổ dầu thêm vào lửa. Vả lại chính lúc đó bà giáo cũng đương nghĩ đến ông giáo, vẩn cái tội chiều con. Xe đạp chúng nó đi hỏng thì kệ xác chúng nó đi mà chữa lấy, bố lại lẳng lặng giắt đi sửa cho chúng. Thỉnh thoảng lại dọa: “Để rồi tôi mắng cho nó một trận!” Nhưng để là để dành, chiều con mà, mắng sao được. Chúng nó tắm thì sẵn nồi nước điện đun sôi khệ nệ bưng vào phòng tắm đích than pha nước cho con tắm. Về lỗi nuông chiều con nơi ông giáo như chấy rận nơi con nhà nghèo, sờ đâu cũng thấy. Dạy con như thế dạy làm sao được!
Có tiếng ông giáo gọi lớn tưng bừng từ phòng khách:
- Cô Hảo ơi, có tin vợ chồng con Hoa này! Bao nhiêu bực rọc tưởng ngàn năm không nguôi vụt biến hẳn không còn một chút vết tích.
Giọng bà reo lên:
- Có điện tín đấy ư anh?
- Cô ra đây có bác tới chơi này.
Bà Giáo ra gặp ông thông gia – bố chồng Hoa.
- Có tin cháu rồi ư bác? Có tin cháu rồi ư bác? – Giọng bà cuống quýt, dáng bà cuống quýt như đứa trẻ lâu ngày mới gặp bà nội lại được cho quà.
Ông thông gia thuật lại một lần nữa dài dòng hơn vì lần này có đủ cả ông bà Giáo và đám con trai gái. Ông nói là một đứa con của một gia đình có cổ phần trong việc đóng ghe vượt biên vừa qua vừa tới nói với ông rằng ghe ra tới hải phận quốc tế đã được tàu Hoa Kỳ vớt và sẽ cập bến Tân Gia Ba, ở trại tị nạn nơi đó, đợi làm thủ tục xong là được bốc đi Mỹ liền. Tàu Mỹ vớt thì định cư tại Mỹ, trừ phi mình có người nhà nơi nào khác muốn xin đinh cư nơi đó. Cô Chu đã từ trên gác xuống cũng chảy nước mắt vì sung sướng như bà Giáo. (Bà nội đi lễ chùa chưa về).
Bà Giáo nói quả thực mới sau tám ngày đi đã sớm được tin như thế là hi hữu lắm (bây giờ thì bà công nhận là sớm một cách hi hữu), nhưng làm sao người đó biết tin? Ông thông gia cho hay là nhà đó nhận được điện, và là điện của ông thuyền trưởng Mỹ. Chắc hẳn là vì lòng nhân đạo họ đánh điện vắn tắt cho biết để loan báo cho nhau. Câu chuyện tới đó thì ông thông gia cáo biệt, ông còn đi báo tin mừng đó tới vài gia đình người thân khác nữa. Bây giờ chỉ còn chờ điện tín của chính chúng nó, chừng vài ngày nữa thôi chứ gì.
Ông Giáo ngồi vào dương cầm đánh rất nhẹ (như lời thủ thỉ) bản nhạc xinh “Nhớ Ai” mà ba mươi sáu năm về trước ông đã làm tặng bà, thuở bà còn là cô gái mưỡi mà đương thuở “Đông đào Tây liễu.”
Tiếng đàn thật dịu thật êm, giọng ông hát khẽ còn dịu còn êm hơn:
Sương chiều thu buông trắng xóa
Trăng mùa thu xa vắng quá
Ai nhớ ai mắt say mơ màng
Rằng ai có thấu ai chăng.
Ngày đó, sau bản nhạc tặng này “chàng” dắt “nàng” đi học dương cầm cùng một bà thầy người Pháp ở đường Tràng Tiền, Hà-Nội. Hai người nói dối bà thầy là… hai anh em. Bà thầy quá giỏi về dương cầm, nhưng lại quá gà mờ về nhận xét nét mặt, khi nghe hai người nói vậy thì gật gù khen ngay là hai anh em giống nhau lắm. Hai người cùng học dương cầm một năm thì làm lễ thành hôn, cô dâu nghỉ tập đàn, tưởng là tạm nghỉ nhưng sau đó cuộc kháng chiến bùng nổ, rồi những ngày cực nhọc của toàn thể gia đình, rồi con cái đứa nọ kế tiếp đứa kia… Trường hợp này của bà Giáo y hệt trường hợp của Quỳ “đệ nhất danh ca”. Bà Giáo cũng hoàn toàn quên bẵng mình đã từng một năm học dương cầm, đã từng đánh rất trôi chảy những bản Valse Favorite của Mozart, Danse Villageoise của Beethoven… trong Classiques Favoris quyển I. Và cũng như Quỳ, tuy không còn đích thân theo đuổi nghệ thuật nhưng ý thức nghệ thuật còn sắc bén.
Ngày ông giáo mới được thả về, hì học tập đàn lại những bài ngày xưa ông đã chơi quen thuộc lắm, nhưng vì hai bàn tay lao động cực nhọc suốt mấy năm trời nên tiếng đàn thô lậu. Bà Giáo phê bình: “Ngày xưa, tiếng đàn của bố bè bạn đều khen là bay bướm tài hoa, bây giờ tiếng đàn của bố nghe nặng nề như bổ củi. Tội nghiệp bố!” Đến ba bốn tháng sau tiếng đàn của ông Giáo mới thuần hơn, bớt đi tính chất cứng nhắc, nặng nề… bổ củi.
Trong khi ông Giáo đàn lại bản nhạc xưa thật dịu, thật êm thì Chu đạp xe đi ngay để báo tin cho gia đình bên nhà Phương, Quỳ. Chỉ còn đợi điện tín của đám bên ấy nữa là hoàn toàn yên chí. Thực ra Phương, Quỳ cũng rất yên chí vì theo dõi hai đài phát thanh VOA và BBC thì mấy ngày ngay sau hôm bọn nhà ra đi, tàu của nhiều nước túc trực ngoài khơi để vớt những người vượt biên. Tội nghiệp, chả vì họ thấy mình chết nhiều quá. Nghe nói Hải Quân Hoa Kỳ cũng đã tặng cho Hải Quân Thái Lan một chiếc tàu nhẹ trng bị đặc biệt thuận tiện cho việc săn đuổi và bắt bằng được những tàu hải tặc. Cụ bố chồng Quỳ mất. Tang ma làm rất đơn giản. Chừng ba ngày sau Phương Quỳ nhận được điện của Hoàn (cô em đã mang thằng Út đi và đã định cư tại California Hoa Kỳ):
“Có tin các cháu Bích Vân Tỉ sẽ tới Tân Gia Ba.” Quỳ mừng rơn tới nói với ông Giáo: “Em chắc là cả hai ghe của hai nhà cùng được một tàu ngoại quốc vớt, tất cả chúng nó gặp nhau trên tàu đó anh ạ.”
Ông Giáo gật đầu. “Có thể lắm chứ, cả tụi nó mà gặp nhau thì tha hồ tổ chức văn nghệ văn gừng.”
Nhưng rồi mấy hôm sau nữa, ông Giáo vẫn chưa nhận được điện của Hoa Lịch. Bà Giáo lại bắt đầu sốt ruột. Bà đạp xe lại đàng ông bà thông gia hỏi lại về bức điện hom nọ có thực mục sở thị không. Ông bà thông gia cho hay là không được chính mắt đọc bức điện, chỉ nghe thằng bé thuật lại, mà địa chỉ nhà thằng bé ông bà cũng không biết.
Thêm vài ngày qua đi không thấy gì, tất cả mọi người bắt đầu lo, nhất là tới ngày đó mới hay thêm là ngày xuất phát có một ghe taxi bị đám cướp sông chận đường lột nhẫn vàng, tiền và một số hành trang, nhưng người vẫn lên kịp thuyền lớn, và ghe chở lương thực đã thất lạc, không biết vô tình hay cố ý. Như vậy thuyền đi thiếu lương thực, e rằng nếu hai ngày lênh đênh ngoài khơi mà không được cứu vớt thì đói. Tiếu gì chuyện vượt biên trẻ con người lớn đói xỉu người đi. Lần nầy bà Giáo lo âm thầm nung nấu, có tiếng động ngoài cửa là bà dừng mọi công việc lắng nghe xem có phải điện tín của tụi nó gửi về.
Đã đến ngày Chu phải từ biệt gia đình anh chị trở ra Bắc. (Bà nội còn ở lại.) Bề ngoài Chu cố giữ vẻ bình tĩnh, trong lòng Chu cũng lo lắng chẳng kém gì bà Giáo. Chu ân cần dặn ông giáo ngay tại nhà, ân cần dặn lũ cháu ra tiễn tại ga xe lửa Bình Triệu, là hễ có điện của Hoa, Lịch, Thiện thì điện ra Hà Nội báo cho cô hay ngay lập tức.
Vào đúng trưa ngày chủ nhật, vừa năm tuần qua, ông giáo nhận được điện của người bạn thân từ Pháp đánh về bằng tiếng Pháp:
“Hoa Lịch Thiện đã được nhận vào Đại Học
Nam Dương. Đậu bình thứ.”
Bà Giáo khóc, (bao giờ cũng vậy, vui bà cũng khóc mà buồn bà cũng khóc,) còn tất cả những người khác trong gia đình thở phào nhẹ nhõm. Ông Giáo sai một đứa đi đánh điện ra ngay Hà Nội cho cô em gái, một đứa khác đạp xe đi ngay một tua báo cho Phương, Quỳ, gia đình bên ông bà thông gia và một số người thân khác.
Thôi thế là bây giờ chỉ còn đợi thư của tụi nó kể tỉ mỉ cuộc hành trình của chúng. Việc này có càng sớm càng hay, muộn cũng chẳng sao!