Chương 14
SAU niềm vui chan hòa cả nhà cùng hưởng, Ánh cảm thấy buồn nản, buồn nản đến rã rời cơ thể. Ánh nghĩ tới một tháng hè về phép sống giữa gia đình của mình chẳng còn bao lâu nữa, còn có không đầy hai tuần. Ánh nay là cô giáo mà nghĩ ngày phải dời gia đình trở lại trường buồn chán đến muốn ứa nước mắt, y hệt đứa trẻ ham chơi, sau dịp nghỉ Tết sắp phải dời cha mẹ trở lại nhà trọ chuẩn bị tới trường. Trường và thầy và bạn với đứa trẻ lúc đó y hệt với Ánh lúc này là tất cả những yếu tố kết hợp lại thành địa ngục tâm hồn.
Ngay từ năm 1975, “cách mạng” vừa vào tới Saigon thì Ánh và Hoa cũng vừa học xong chương trình Đại Học Sư Phạm bốn năm ban Anh Văn và Pháp Văn. Nhưng tất cả đám sinh viên này đều phải học thêm một năm vừa để “bồi dưỡng” về chính trị vừa để ban giám hiệu mới (dĩ nhiên toàn những người “cách mạng” từ Bắc hay Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định vô) thanh lọc những phần tử “không hợp với cách mạng.”
Bởi vậy, tuy đã phải học thêm một năm mà còn thêm một năm sau nữa đợi tuyển dụng. Hoa tốt nghiệp ban Pháp Văn đòi được tuyển bổ ngay tại Saigon mới chịu đi dạy, không thôi. Lý lịch gia đình thuần “cách mạng” đòi thế còn không xuôi huống chi lý lịch Hoa có bố đi học tập. Vì vậy Hoa ở nhà giúp mẹ trông nom vườn trẻ, đi làm gia sư cho mấy nhà. Hoa cũng như Ánh, cũng như cô (Quỳ) rất có khiếu về dạy học. Học trò rất mến và biết ơn. Sau này Hoa còn mở một xe rau má như chúng ta đã biết. Ánh được bổ dụng làm giáo viên cấp ba trường Vũng Tàu. Ánh chịu nhận để công an phường khóm khỏi dòm ngó gia đình, và bà Giáo cũng dễ mua một số nhu yếu phẩm.
Trong bốn chị em, Ánh nhu mì hiền hậu nhất và ua đi vào chiều sâu suy tư, nên mặc dầu vụng về khâu vá bếp nước và rất hay quên, bà Giáo cũng ít mắng con, trái lại còn săn sóc cho đủ điều. Có quần áo tốt bè bạn từ ngoại quốc gửi về không bao giờ bà Giáo quên giành phần cho “cô giáo Vũng Tàu.” Một số quần áo tốt đó đã bị kẻ cắp rạch sắc lấy mất trên những chuyến xe đò Ánh đi từ Saigon tới Vũng Tàu hay ngược lại. Mỗi lần Ánh bị mất cắp như vậy về là cả nhà lại mỗi người có một cách giơ tay lên trời thống trách tên ăn cắp là “ngu,” vì ăn cắp của ai kia chứ ăn cắp của cô giáo Ánh thì còn gì là hào hứng nữa. Quả thực Ánh hiền đến mức mọi thủ đoạn bố trí lừa lọc rõ ràng thừa một cách vô ích.
Hồi còn ở trại cải tạo cao nguyên ông Giáo có nhận được một lá thư của Ánh đặc biệt báo cáo về bước đầu vào ngành gõ đầu trẻ với bố. Lần đầu tiên bước lên bục gỗ, Ánh cũng ngại nhưng không hề lúng túng mà làm chủ được bài giảng ngay. Theo ý Ánh viết cho bô thì dạy học cũng như viết văn, đóng kịch, có những nét sáng tạo bất ngờ do cảm hứng và không lần nào giống lần nào. Dạy học được hai tháng thì một lần có bà thanh tra tới thật bất ngờ. “Con bình tĩnh không thể tả được bố ạ - lời thư Ánh – bà thanh tra khen con hết lời.” Có lẽ đó là lá thư duy nhất Ánh báo cáo với bố về nghệ thuật dạy của mình không hổ danh bố, còn những bức thư khác Ánh hoàn toàn viết về việc nhà hoặc những nhận xét của Ánh về cuộc sống xung quanh:
“… Dạy cùng trường với con có những người chỉ trạc tuổi chú Phương, kém bố tới chục tuổi, vậy mà cuộc sống chật vật khó khăn và phức tạp bây giờ đã khiến họ rã rời, lụ khụ trông rất thê thảm, họ già hơn bố nhiều, thiếu sức sống hơn bố nhiều…”
“… Con về trường nầy kể ra thì đã là may mắn lắm vì ở đây khí hậu tốt, trường sở lớn, nhất là nơi ăn chốn ở có thể nói là không đâu bằng. Ấy vậy mà cũng có những lúc con chán nản lắm. Cuộc sống bây giờ vừa phức tạp vừa đen tối, bố vắng nhà lâu quá chắc không mường tượng nổi đâu. Đôi khi con tưởng như không sống được, những lúc như vậy con vội nghĩ đến bố, đến những bức thư đầy lạc quan, đầy sức sống, điềm đạm và kho- an dung của bố…”
“… Ở nhà tuy mẹ vẫn vất vả, nhưng các em thì mỗi ngày mỗi ý thức được bổn phận của mình. Mỗi đứa một công việc giúp mẹ, xong việc rồi căn nhà mình lại tưng bừng với tiếng đàn, tiếng hát. Tất cả chúng con không đứa nào nhắc nhở đứa nào, nhưng đều noi gương bố, sống vô tư lạc quan, tự tạo hạnh phúc cho chính mình…”
Thường thường cứ hai tuần một lần Ánh lại từ Vũng Tàu về thăm nhà một lần. Chiều thứ bảy về, sáng thứ hai đã phải thức giấc từ bốn giờ sáng ra bến xe sắp hàng, nhiều khi tới mười giờ sáng mới mua được vé lên xe. Cũng may nhà gần bến xe. Từ ngày ông giáo về với gia đình, lần nào ông cũng thức dậy thật sớm, rang cơm hay xào mì hay nướng bánh mì phết bơ và pha cà phê cho Ánh, rồi đích thân đưa Ánh ra bến xe. Vài lần vào bảy, tám giờ sáng biết con chưa lấy được vé, bố lại mua bánh chưng hay xôi và pha thêm một cữ cà phê nữa đổ vào chiếc lọ xinh mang ra cho Ánh. Thường thì ít khi Ánh ăn thêm hay uống thêm những thứ đó, mà để dành mang ra Vũng Tàu chia sẻ với đám bạn bè cùng dạy ngoài đó.
Cả nhà bất kỳ muốn tổ chức ăn uống gì đều đồng ý là đợi “cô giáo Vũng Tàu” về đã. Có những cuộc sinh nhật ăn uống xôm xôm một chút được tổ chức sớm hơn vài ngày hoặc muộn hơn vài ngày cũng chỉ cốt có sự hiện diện của “cô giáo Vũng Tàu.”
Lần ở Vũng Tàu về hay tin chị (Hoa) ra đi thất bại còn bị giữ ở khám lớn Mỹ Tho, Ánh khóc âm thầm vào đêm ở nhà cũng như khi đã trở lại Vũng Tàu. Lần thứ ba Hoa đi biết trước là vào ngày Chủ Nhật, ông Giáo đã ra nhà bưu điện gọi điện thoại nói trực tiếp với Ánh là hãy về “bằng mọi giá chiều thứ bảy. Lần này Ánh xin nghỉ bất thường một ngày, về vào chiều thứ sáu và quấn quít với Hoa suốt cho đến mười giờ mười lăm – Ánh nhớ lắm – hôm Chủ Nhật. Khi đến lượt toán Hoa Thiện và một người nữa ra đi vào lúc 10:15, Ánh cũng thấy lòng nghẹn ngào, cơ thể rã rời, cõi đời hoang vắng, chẳng khác gì ông Giáo, và Ánh vào bếp vục nước ở chậu rửa mặt cho loãng hai dòng nước mắt cứ chảy liên tiếp, liên tiếp hoài. Bốn giờ sáng hôm sau (thứ hai) Ánh ra bến xe xếp hàng lấy vé. Tám giờ lên xe, mười hai giờ trưa ra tới Vũng Tàu, lòng bồn chồn không lúc nào yên cho đến khi lại chính ông Giáo ra nhà giây thép gọi điện thoại báo cho Ánh hay Hoa đã được tàu Mỹ vớt và hiện ở Tân Gia Ba.
Hai tuần sau vừa hết niên học, Ánh được nghỉ hè một tháng, về nhà chia xẻ nỗi sốt ruột với cả nhà về việc chưa hề nhận được điện của chính Hoa. Cho đến ngày gia đình nhận được điện biết đích xác Hoa, Lịch, Thiện hiện ở một trại tỵ nạn Nam Dương thì Ánh cũng vừa nhận ra rằng hạn phép nghỉ hè của Ánh đã vơi đi quá nửa, chỉ còn hơn mười ngày nữa thôi. Ánh cảm thấy buồn nản đến rã rời cơ thể. Ngày phải về trường như ngày phải về địa ngục, chỉ được nhìn đám đao phủ Hiệu bộ, đâu đã được nhìn mặt học trò. Hơn hai tuần qua được sống trong sự đùm bọc yêu thương của gia đình, nay Ánh cảm thấy nhức nhối đến không chịu nổi khi ôn lại cảnh sáng sáng không có giờ dạy cũng phải tới trường để nghe đọc báo và tập hát với đám học trò và xem có ai nghỉ thì có thể mình dạy thay thế; ôn lại cảnh họp toàn thể giáo viên ít nhất là một tuần một lần để nghe đám hiệu bộ lải nhải những gì mà chính Ánh cũng không buồn nhớ nữa; ôn lại cảnh tiền lương năm mươi mốt đồng một tháng, góp tiền ăn tập thể mất ba mươi đồng, tiêu gì vào cái thời “gạo châu củi quế muối hạt trai” này, nếu không có tiền của mẹ cho thêm; ôn lại cảnh Tết vừa qua ra Vũng Tàu chập phép một ngày, dù chưa phải là ngày học, cũng bị đám hiệu bộ họp phê bình gay gắt bắt làm kiểm điểm. Mấy giáo viên phản đối dọa đệ đơn xin thôi (dù biết họ không bao giờ cho nghỉ việc) thì bị đám hiệu bộ chụp cho cái mũ là khiêu khích, là chống đối… cách mạng; ôn lại cách quản lý người của tụi hiệu bộ mà rõ ràng lý tưởng của chúng, cứu cánh của chúng là hành hạ con người, chà đạp lên tự do, dày xéo lên trí tuệ. Rồi đây – Ánh nghĩ – khi bọn họ hết thời múa may, nhưng sẽ phải mất bao thế hệ để phục hồi lại đất nước xác xơ, tâm hồn cháy xém, trí tuệ cằn cỗi, nhân phẩm, nhân cách, tự do tàn lụi?
Buồn thảm nhất chính Ánh cũng như một số giáo sư kỳ cựu bậc thầy Ánh đều phải công nhận rõ ràng học sinh mỗi năm một dốt đi một cách thê thảm… Đám giáo viên khuynh cách mạng trước đây, vào năm đầu “cách mạng” mới vào, họ làm việc tích cực chói lọi dễ sợ, nhưng nay thì họ hoàn toàn vỡ mộng, họ xuống dốc hoàn toàn, họ như hệt chiếc lốp xì hơi, họ bỏ giờ, về phép trễ vượt xa các giáo viên khác, bắt họ làm kiểm điểm thì họ làm nhưng rồi trở về nếp cũ ngay, tỉnh bơ.
Hồi “cách mạng” vào Nam được nửa năm, Ánh rên rẩm với chị và lũ em: “Trước đây hàng tuần được đọc bao nhiêu sách báo ngoại quốc mà còn thấy mình dốt, bây giờ tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác, rồi năm này qua năm khác, sách báo ngoại quốc cũng không có, chỉ có sách báo của Đảng và Bác như thế này thì rồi trình độ của mình sẽ xuống dốc đến đâu đây.”
Bây giờ thì Ánh quên sự cùn nhụt trí thức của chính mình mà chỉ thấy rùng mình lo sợ cho lũ học trò mỗi năm một dốt một cách thê thảm. Ánh nghĩ con người với tự do như chiếc đèn với ánh sáng. Con người bị tước đoạt mất tự do như chiếc đèn bị tước đoạt mất ánh sáng, có còn gì nữa đâu. Động lực không còn, chất xúc tác không còn, nguồn cảm hứng không có, nói chi đến trí thức, đến tiến bộ, nói chi đến nhân phẩm, nhân cách, nói chi đến văn chương, nghệ thuật. Nhân sinh biến thành tăm tối âm u là phải.
Tuy là cô giáo cấp ba, nhưng Ánh tự biết mình còn non nớt lắm, vẫn định bụng có hôm nào thư thả sẽ hỏi thêm bố về vấn đề này. Chỉ biết bây giờ đương năm êm ấm trong tình thương gia đình, nghĩ về nếp sống mình sắp tiếp tục nơi trường sở, Ánh thấy sao nó tăm tối buồn thảm, sao cả xã hội não nề tuyệt vọng, phi lý và phi nhân, như nhìn rừng không cây, nhìn cây không lá, nhìn đá không rêu. Và cũng đến bây giờ, Ánh mới thật thông cảm với tất cả những người hoặc âm thầm, hoặc lồng lộn nhưng cương quyết ra đi bằng được, bất chấp mọi gian nguy bị bắt tù, gặp hải tặc, chết đói chết khát, chết nắng thiêu, làm mồi cho lũ cá. Lũ nắm chính quyền đúng hệt lũ ngồi đáy giếng nhìn cục bộ ngỡ là toàn bộ. Tội nghiệp cho họ! Tội nghiệp cho cả dân tộc bất hạnh này rơi vào một hoàn cảnh cắc cớ ngu muội man rợ thắng văn minh. Để rồi chuyện này Ánh cũng sẽ hỏi lại bố.