← Quay lại trang sách

Chương 19

HOA, Lịch, Thiện cùng những người đồng cảnh rời đảo Kuku đặc biệt lần này vào khoảng 5 giờ sáng. Trời còn mờ mờ. Chòm Đại Hùng Tinh sáng chói. Thiện nhớ bố mẹ - nói sao cho xiết! Bao nhiêu hình ảnh của bố mẹ, bao nhiêu kỷ niệm với bố mẹ! Thiện chỉ thấy buồn, buồn ứa nước mắt. Thiện vừa theo Hoa Lịch đi vừa ngẩng nhìn trời tìm ra sao Bắc Đẩu theo cách bố đã một lần chỉ dẫn. Ánh sáng của soa Bắc Đẩu heo hút như nỗi nhớ niềm thương của Thiện lúc đó. Thiện nhìn sao Bắc Đẩu một nữa như nhìn vào một kỷ niệm luyến tiếc. Lên tàu rồi và tàu đã mở máy hướng về đảo Galang, nơi đây mới là trại tị nạn chính thức, quy mô hơn trại nhỏ ở Kuku nhiều. Thiện tiếp tục ngẩng nhìn vòm trời sao. Giữa khoảng biển mênh mông này, các chòm sao gần gũi nhau như hai người hàng xóm. Chòm sao Thập Tự Nam bao giờ cũng đứng ở thế chênh vênh nửa như một dũng sĩ ngang tàng, nửa như một nghệ sĩ khinh thế ngạo vật.

Khoảng 6 giờ sáng, Thiện thấy ngôi sao sát chân trời của chòm Thập Tự Nam đã lặn mất còn lại hình tam giác bên trên. Thiện thôi nhìn trời sao mà tựa cả thân hình mảnh khảnh của mình lên thanh sắt trên boong tàu. Khi tàu vào một khoảng eo biển ngang qua một mỏm núi loang lổ đá trắng và xanh mướt mầu lá dừa, sóng bạc đầu làm con tầu hơi lao đao, cả một vùng khói sóng trắng xóa phía trước mũi tầu trong khi mặt trời bên trên chói chang vàng lộng. Thiện lơ đãng nhìn một căn nhà chon von trên một mỏm núi nhô ra biển. Nhìn vào bất kỳ cái gì Thiện cũng chỉ thấy cô quạnh và nhớ nhung và luyến tiếc nữa.

Lịch, Hoa đứng đấy không xa. Lịch chỉ cho Hoa căn nhà chon von trên mỏm núi nói khẽ:

- Giá chúng ta có được căn nhà kia làm nơi nghỉ ngơi sau mỗi ngày làm việc tận lực chắc chắn chúng ta có thể yêu nhau ngàn vạn năm.

Lịch bật cười để tự chế riễu lời nói thật sáo nhưng lại thật chân thành của mình. Hoa buồn rầu (nỗi lòng như Thiện) lắc đầu nói khẽ:

- Chẳng thể yêu nhau ngàn vạn năm được đâu anh ạ, nhưng nếu chúng ta có căn nhà đó chúng ta được hưởng hạnh phúc yêu đương trong một giờ thì cũng bằng trọn đời hay vạn kiếp.

Hoa cũng như Thiện, hai chị em cứ giữ tâm trạng buồn rầu đó ngay cả sau khi đã lên đảo Galang, nhập trại tỵ nạn Tanjung Pinang, nơi ăn chốn ở tạm yên tề yên tất. Buổi chiều hai chị em không bảo nhau cùng ra ngồi trên một tảng đá cao nhìn về phía biển Đông. Mặt trời sắp lặn trông như gót chân rực rỡ của một mỹ nữ thiên cung nào đương e dè rúng xuống nước. Mặt trời xuất hiện tròn trịa vừa chạm mặt nước trông như hệt chiếc bát vàng thần thoại đặt trên mặt biển thần thoại, khi mặt trời đã ngập gần nửa mới cho hai chị em cảm tưởng đương nhìn quả bóng bềnh bồng. Mặt trời ngập thêm nữa, bên trên chỉ còn hình một chóp mũ. Khi mặt trời đã lặn hẳn, bên trên lẩn sau những vệt mây đen vẫn là những khoảng đỏ lộng. Cả Hoa cùng Thiện tưởng như màu đỏ đó sẽ tắt ngấm đi rất mau, ai ngờ càng lóe sáng rực rỡ lên bội phần ban phát ánh sáng huy hoàng cho cả vòm trời sang tận chân trời Đông. Nơi nào có mây trắng, nơi đó nhuộm màu đỏ rực hoặc vàng lộng, đám mây lớn nhất phủ trọn vẹn từ Nam sang Bắc đỉnh trời. Ánh vàng càng rực rỡ khi chiếu xuống mặt biển lung linh, duy mặt biển phía Bắc là giữ nguyên màu tối uy nghi xanh thẳm. Những đám mây trắng nhuộm màu đỏ rực thì dịu đi rất chóng, nhưng những đám mây vàng lộng thì còn dai dẳng bịn rịn như người đàn bà làm đỏm cố bíu giữ nhan sắc.

Nhìn về phía mấy dương-vận-hạm đậu trong vịnh, phía đèn vàng buông neo trông đỏ kệch như ánh màu viên ngọc giả, những đèn đỏ lưu ý phi cơ trên đỉnh cột buồm như những viên hồng ngọ thật quý giá trang điểm cho mầu chiều rực rỡ. Nhìn về một phía đảo, ánh hoàng hôn thấp thoáng qua những thân cây đỉnh núi như muôn vành ánh lửa trại tưng bừng. Gió rất hiền mà sóng xô vào bờ thật mạnh, bọt trắng xóa. Tựa như sóng nhớ đất liền mà lăn xả vào. Một vùng dừa gần đấy tiếp nhận ánh hoàng hôn từ trên đỉnh cao đổ xuống như tiếp nhận một dòng thép vẫn rực rỡ mà vẫn hiền hòa. Màu sắc và ánh sáng thì lồng lộng huy hoàng như vậy, nhưng vạn vật đặc biệt câm nín.

- Đúng vậy – Hoa cười bâng quơ với Thiện nhưng tự nhủ thầm – màu sắc hoàng hôn rực rỡ như kia chỉ thứ âm nhạc siêu âm như vậy mới sánh kịp.

Thấm thoát một tuần đã qua!

Mấy lạng vàng còn kia, Hoa, Lịch, Thiện – trong khi đợi ngày được định cư tại một nước nào đó – đã xin được việc làm ngay trong trại tỵ nạn này. Thành thử tiểu gia đình ba anh chị em rõ ràng là dư dật của ăn của để. Nhưng cả ba cùng một chiều suy tư, đời sống hiện tại càng tương đối đầy đủ, cả ba càng cảm thấy thương cảm xót xa cho những người thân còn ở lại quằn quại nơi quê nhà.

Hôm nay Thiện nhận công việc làm ngay nơi trại. Hoa, Lịch cùng một số anh chị em khác xuống tàu nhỏ ra khơi chuyên chở đồ tiếp tế từ tầu lớn của Liên Hiệp Quốc vô. Công việc làm suốt buổi sáng, ăn trưa rồi tiếp tục buổi chiều, lúc nào cũng bận rộn làm Hoa và Lịch quên được nỗi bận tâm thương nhớ gia đình.

Đây là chuyến ra khơi thứ hai của buổi chiều và chắc chắn cũng là chuyến cuối cùng. Mọi người trên chiếc tàu nhỏ cùng cảm thấy thảnh thơi đôi chút, kẻ ngồi người đứng tựa vào thành tầu. Vài người đàn ông bật quẹt châm thuốc lá. Phụ nữ dường như cùng lắng nghe tiếng máy tàu vang lên đều đều theo một tần số nào đó.

Lịch đã châm thuốc lá tiến tới bên Hoa:

- Em nghĩ gì vậy?

- Để tránh suy nghĩ về gia đình – Hoa đáp – em ôn lại cá tính ngộ nghĩ từng người còn ở lại, nhiều khi em ôn lại những lời bố nói và rút ra ở đấy những bài học xử thế.

- Được đó, sáng kiến hay!

- Em thấy bố thật là dễ dãi nhưng có điều tối kỵ với bố.

- Điều gì vậy?

- Bố sợ những ràng buộc đảng phái. Có lần em được nghe cuộc đàm thoại giữa bố và người bạn có khuynh hướng chính trị. Đại ý bố nói: Tham vọng là điều cần nơi mỗi người cầu tiến về đừng là thứ tham vọng bá quyền. Riêng về các chính khách tôi thây cần phải tránh cái tham vọng khá phổ biến này, là cứ muốn ngự trị nghệ thuật. Không! Đây là hai lãnh vực với hai nhiệm vụ khác biệt. Văn nghệ sĩ cám ơn các chính trị đã nhập thế khéo tổ chức xã hội, khéo giữ vững kỷ luật trật tự cho đồng bào trong khi nhiệm vụ của văn nghệ sĩ là bay bổng để gây niềm cảm hứng mới. Cũng có thể nhiều khi văn nghệ sĩ trong khi tung hoành tự do đã lạc hướng mất hút, chẳng gây được niềm cảm hứng mới nào, nhưng đó là cái giá mà thế nhân phải trả để có những đồng bào nghệ sĩ, có những tác phẩm văn nghệ quốc gia mà giá trị nhân bản tràn bờ thành quốc tế. Đừng nuôi ảo tưởng xử dụng nghệ thuật như một tên đầy tớ, bởi lúc đó nghệ thuật đâu còn là nghệ thuật. Hãy ngước nhìn nghệ thuật như tia sáng tuyệt vời soi bừng hướng tiến…

- Anh thì nhớ buổi chiều trước hôm đi, anh có nói với bố: “Đi là chấp nhận phần nguy hiểm thứ nhất là nhà đá, thứ nhì cá ăn bố ạ.”

- Thế bố bảo anh sao?

- Giọng bố buồn buồn: “Có được bầu nhiệt huyết sôi bỏng như vậy mà mù quáng thì ích gì. Tất cả những lời chúng nó đều có vẻ đúng, khốn nạn thay tất cả những việc chúng làm đều sai. Thứ nhất nhà đá thứ nhì cá ăn! Cậu thử nghĩ lại xem, những ai thích đề cao dân tộc tính Việt phải biết nêu sự kiện này lên. Trong số khoảng hai triệu người đã cảm tử vượt biên chỉ cần lấy một phần tư là 500.000 người ở tuổi nam nữ thanh niên trung niên còn năng lực hoạt động. Nửa triệu người đó mà kết hợp thành từng nhóm lớn để nổi loạn, từng nhóm nhỏ để phá hoại khủng bố, liệu Cộng sản có thể ngôi yên như bây giờ trên nửa phần miền Nam đất nước này? Không, dân tộc tính cái tác động trong sâu thẳm tiềm thức dân tộc là lòng hiếu hòa, tính nhẫn nại, hiếu hòa và nhẫn nại đến nỗi có thể bị ngộ nhận là ươn hèn, mình đã chọn liều chết ra đi, không chọn ở lại làm loạn. Hình như bằng một trực cảm mẫn nhuệ lạ lùng dân tộc mình đã biết chọn con đường đổ máu ít nhất mà kẻ thù vẫn thân bại danh liệt. Ở các nước tiền tiến người ta dùng lòng nướng bằng tia cực tím cự hồng gì đó, dân tộc ta hiện thiêu đủ các thứ ác độc quái đản bằng những tia siêu hiền hòa, siêu nhẫn nại. Rồi việc tới sẽ tới! Mà cậu cũng thấy sự việc đương tới rồi đấy. Chúng bây giờ còn gì? Khi còn lẩn lút trên Trường Sơn thì chỉ một đường phải chiến đấu. Chiếm được miền Nam, màu đỏ sơn quét lợt đi, chỗ điểm tựa để tuyên truyền gian dối không còn, màng ảo hóa tan rã đến chẳng còn cách gì cứu vãn nổi. Chính trị tự cô lập, ngoại giao tự cô đơn, quân sự - ở Miên, ở biên giới Việt Hoa – tự sa lầy. Chúng còn gì nữa đâu, ù lì trước hiện tại, mù lòa trước tương lai, tự ve vuốt bằng những vàng son giả trá trong dĩ vãng. Miền Nam phải mất, đó là niềm đau cần thiết – le mal necessaire – để Cộng sản lộ nguyên hình trước toàn thế giới. Chỗ nầy giọng bố tưng bừng lắm em ạ. Bố nhận định phân tích. Kể từ 30-4-1975, chúng “giải phóng” miền Nam, “giải phóng” được – nghĩa là ăn cướp được – khoảng 200 tỷ đô-la đủ các thức: xe cộ, máy móc, súng ống, bất động sản… Hai trăm tỷ đô-la đó giá chính phủ thối nát miền Nam cứ giữ rịt lấy chỉ để mua giấy viết lách chống Cộng cũng vẫn thất bại, có lẽ càng thất bại. Nhưng để cho Cộng sản chiếm miền Nam bằng cái ngu dốt của chúng, chiếm trọn hai trăm tỷ đô-la chiến lợi phẩm và triển lãm trước thế giới cái ngu dốt hùng vĩ, lì lợm, tởm lợm của chúng. Thế là xong! Căn bệnh đã được chữa tận gốc, sau đây cả căn bện ung thư Cộng sản thời đại được chữa khỏi tuyệt nọc. Bắt đầu từ Việt Nam! Em có biết không, nghe tới đây anh gián tiếp đặt câu hỏi với bố: “Nhưng giờ đây thì dân chúng vẫn ra đi, thứ nhất nhà đá thứ nhì cá ăn!” Bố đáp ngay: “Vẫn ra đi chứ cậu! Tựa như người dân ra đi nói với chính quyền Cộng sản ở lại: Thôi thì các anh tạm thắng, chúng tôi tạm ra đi, ra đi tìm cái mà hiện các anh không thể cho, không có mà cho: tự do và nhân phẩm. Lạ lắm! Càng biết chúng chỉ tạm thắng – cái ác nào cũng có thể tạm thắng – càng ra đi gấp. Càng ra đi gấp chúng càng tan rã gấp. Chắc chắn sụp đổ gấp! Chắc chắn! Lạ lắm! Dĩ nhiên chồn cáo không thể đội lốt hoài sư tử, ánh đèn dầu chẳng thể soi sáng như mặt trời mặt trăng. Nhưng rồi đây chúng sẽ sụp đổ như thế nào? Trùng trùng duyên khởi của thời gian, không gian sẽ cho chúng ta thấy. Biết thế nào mà đoán trước được!

Hoa nói:

- Bây giờ có khoảng lùi xa như thế này ôn lại lời bố nói, việc bố làm em hiểu sự cố gắng của bố về nếp sống kiến nhẫn, khoan hòa, từ bi, nhân ái; em hiểu quan niệm về đau khổ với hạnh phúc của bố; em hiểu lời bố đã có lần bảo em từ lâu, từ thời bố còn ngày ngày đi dạy học kia. “Con nên nhớ mọi sự trên đời này đều có lý do tồn tại của chúng. Thì nguyên sự hiện diện của chúng ta há đã chẳng khẳng định một cách đương nhiên là chúng có lý rồi sao: nào đau khổ, nào chiến tra- nh, nào bóc lột, nào lừa đảo… Phải thẳng thắn chấp nhận chúng thì sau đó mới tự gỡ mối mà giải thoát khỏi chúng được chứ!” Ngày đó nghe bố nói em không hiểu nhưng bây giờ thì em hiểu quá đi. Biết vậy chắc bố bằng lòng lắm.

Lịch gật đầu, hút một hơi thuốc lá, khuôn mặt cuối xuống, cái nhìn cũng chìm vào suy tư như Hoa:

- Em nói đúng. Quả thực nhiều lời bố nói lúc nghe mình chỉ thấy là những khối âm thanh tung lên như những chùm bong bóng xanh đỏ, nhưng rồi chợt một lúc nào đó hoàn cảnh giúp mình có được tần số cảm nhận để hiểu những âm thanh ấy thành lời nói. Anh nhớ một lần khác, cũng từ thời miền Nam còn tự do, anh than phiền về nỗi khổ thất bại, bố nói: “Cá nhân mình chỉ là một giọt nước trong cái dòng sinh hóa bát tuyệt thôi cậu ơi. Nếu cậu chỉ chú ý nhìn vào cái cục bộ cá nhân nhỏ xíu thì suốt đời cậu kêu khổ. Nhưng nếu tự đấy cậu giữ được bình tĩnh, bình thản, thanh thoát, giải thoát, hòa với cái toàn bộ của dòng sinh hóa bất tuyệt kia thì còn gì là đau khổ sầu muộn nữa. Mình với tiền nhân, mình với hậu thế là cái Một chan hòa miên tục mà. Tôi nhớ hôm nào đọc thơ Trần Tử Ngang:

Tiền bất kiến cổ nhân Hậu bất kiến lai giả Niệm thiên địa chi du du

Độc thương nhiên nhi thế thạ.

Chúng ta kính trọng niềm đau khổ của

Trần Tử Ngang cảm hoài khi lên đài U Châu:

Trông trước không cổ nhân Nhìn sau xa hậu thế, Ngẫm trời đất vô cùng, Thương mình dòng lệ nhỏ.

Chúng ta thán phục lời thơ kiệt tác của nhà thơ đời Đường đó, nhưng chúng ta cũng hiểu rằng sở dĩ nhà thơ khổ vào lúc đó vì lúc đó ông để mình đắm vào cái nhìn cục bộ. Ngược lại nhà thơ Việt, Tản Đà, thì lại nhìn cả đại cục chu kỳ nước đi ra biển lại mưa về nguồn, nước non hội ngộ còn luôn trong kiệt tác “Thề Non Nước” của ông. Dĩ nhiên, chúng ta cám ơn cả hai nhà thơ, tuy từ hai cái nhìn trái nghịch nhưng vẫn để lại hai kiệt tác về rung động và suy tư. Em thấy không, lúc đó anh cũng nghe rồi để đó, nhưng bây giờ dường như anh đã thấy rõ quan niệm của bố luôn luôn mở rộng các cửa sổ tinh thần, tiếp nhận người và vật, tăng thiện giảm ác.

Hoa vẫn nhìn xuống mỉm cười với chính mình:

- Em nhớ một lần ở trong tù bố viết trả lời câu em xin bố hãy luôn luôn vui: “Yêu thiên nhiên, yêu con cháu, và yêu con người như bố thì muốn không vui cũng không được!” Nghịch cảnh nào với bố cũng là cơ hội để trui luyện kiên nhẫn và vũ khí đối phó lại bao giờ cũng là khoan hòa nhân ái. Vì vậy bố hóa giải được mọi nghịch cảnh.

Ít nhất cũng phải mười lăm phút nữa tầu nhỏ này mới cập ngang hông tầu lớn để rỡ đồ tiếp tế chuyến chót. Lịch chợt cảm thấy lòng phơi phới, rõ ràng mềm yếu trước cái đẹp của biển cả mênh mông lúc đó và trước cái đẹp của những cuộc đời tự do đã được cứu sống như những bằng hữu Lịch trên chiếc tàu này. Bất giác Lịch mỉm cười đưa mắt nhìn về mũi tàu. Thoạt một mảng biển xuất hiện như cái nháy mắt tình tứ với trời cao: thiên nhiên cũng giao tình! Màu mây cao thăm thẳm và màu nước bập bềnh mênh mông, trời biển như hai tâm hồn tri âm chợt gặp nhau thù tạc chếnh choáng trong men chiều. Cả trời biển hòa quyện với nhau bao trùm lấy vạn vật hư hư ảo ảo quyến rũ lạ lùng.

Niềm vui của Lịch rõ ràng bồng bột khỏe mạnh. Nhưng Hoa thì đăm chiêu hơn vì Hoa chợt nhớ một lần bố nói: “Ai sáng tạo mà chẳng muốn duy trì, nhưng nếu không chạm trán với hủy diệt làm sao có được tái tạo, làm sao có được những sáng tạo mới mới hoài hoài.” Tia sáng bất chợt của trực giác đã giúp Hoa thông cảm được lời bố. Lời nói đây đó của bố như hòa lẫn vào cái mênh mông của biển và trời lúc đó. Tự nhiên nước mắt ứa lên. Hoa nhớ bố và thương mẹ vô cùng. Thương mẹ suốt đời héo hon, hết lo âu này đến lo âu khác. Bây giờ có được khoảng lùi xa Hoa mới nhận rõ được nguyên do toàn thể bức tranh đời của mẹ. Bồn chồn vất vả suốt ngà, tâm tư lo lắng suốt ngày, làm sao mà khuôn mặt không héo hon cho được!

Hoa cúi mặt xuống kín đáo thấm nước mắt nói với Lịch, giọng nhẹ thoảng như hơi gió, nhưng không vì thế mà Lịch không nhận ra những thoáng gợn của nghẹn ngào:

- Barracks của mình quay lưng về biển, chiều chiều quả thực em ưa đứng phía sau trại nhìn biền:

Chiều chiều ra ngắm biển sau,

Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Tại đất nước mình thì có hòn vọng phu, những người con gái tự miền xa nhìn về quê mẹ nhớ mẹ qua biển khơi trùng trùng này chết thì hóa gì hở anh?

Lịch cũng cảm thấy tê tái khi nghe câu hỏi đó của Hoa, vội vã vứt điếu thuốc cháy nửa xuống biển tưởng như vừa cầm phải cục than, rồi lại châm ngay điếu mới, dáng run rẩy rõ rệt.

Biết bao giờ gặp mặt! Biết bao giờ gặp mặt! Có thể rồi mai đây được bố đi định cư ở một xứ sở xa xôi nào, rồi ở đâu âu đó, tiểu gia đình Hoa sẽ mọc rễ nơi đó như bố mẹ trước đây đã di cư vào miền Nam rồi mọc rễ ở miền Nam. Ông nội mất, bố có được gặp mặt đâu! Biết bao giờ gặp mặt! Biết bao giờ gặp mặt!

Hoa ngẩng nhìn trời thăm thẳm và trong suốt như để tìm những vì sao – (lúc đó làm gì có sao!) – nhưng là nhìn vào một tiền kiếp xa xưa nào, hồi bố mẹ còn là những vì sao trên trời.

SàiGòn 28/5 - 30/7/1980