← Quay lại trang sách

Chương 18

TRONG bóng tối nhờ nhờ của gian gác, tiếng bà giáo ú ớ nói mơ giọng như van xin thê thiết. Ông Giáo nằm bên vội nắm chặt cánh tay bà Giáo vừa lắc vừa gọi: “Cô Hảo! Cô Hảo!” tiếng bà Giáo: “Dạ!” Rồi tỉnh dần, rồi thút thít khóc.

- Cô Hảo nằm mơ thấy gì mà ú ớ mãi thế - ông Giáo hỏi – bây giờ dễ đã đến ba giờ sáng.

Bà Giáo vẫn thút thít khóc, giây lâu mới đáp lời đứt quãng theo tiếng khóc trong đêm khu- ya:

- Em mơ thấy con Hoa nó trở về… Nó đương lau bếp… Nó gầy chỉ còn phân nửa bố ạ. Em… bảo nó con gầy quá con ơi… Việc gì con phải lo nhiều… Để thằng Lịch nó lo cho… Nó trả lời… con cũng phải lo chứ mẹ… tránh sao được…

Bà Giáo khóc nức lên:

- Thương nó quá!

- Trời ơi, mẹ thật vớ vẩn, làm như gặp con thật, thấy con gầy thật. Nó bây giờ thì được ăn đầy đủ, lại khỏi phải lo nghĩ bực bội, phải béo gấp đôi ở nhà chứ, mẹ chỉ vớ vẩn!

Đã đành ông Giáo nói có lý, nhưng không làm cho bà Giáo vơi nỗi sầu khổ âu lo. Bà đã thôi khóc, nhưng hơi rùng mình, vừa thương nhớ Hoa, Thiện xót xa, vừa lo cho hai đứa con trai – Hải, Vi – đương bị câu thúc trong tuổi nghĩa vụ quân sự. Nhất là vụ thằng Vi suýt bị tóm cổ hôm qua làm bà bất kỳ lúc nào nghĩ lại cũng thấy thảng thốt cả người. Nguyên do sang tháng 7-1980 này, đám công an nhận được chỉ thị mở một cuộc bố ráp đại quy mô. Những cảnh tượng điển hình của thời phát-xít Đức tái diễn trâng tráo và khốc liệt. Đám công an quần áo vàng, mũ vàng trang bị súng AK xông vào các quán cà phê vỉa hè, bắt các thanh niên giơ hai tay lên quay mặt vào tường, súng AK chỉa thẳng sẵn¬ sàng nổ đạn rồi một tên công an khám xét túi áo quần, kiểm tra giấy tờ. Thanh niên để tóc dài, để râu cũng là một cớ để tống lên xe bịt bùng, không được cãi, hạ hồi phân giải. Ai cũng dư kinh nghiệm biết rằng một khi công an Cộng Sản bắt giữ thì chẳng có gì bảo đảm là nhất thiết vô tội. Giấy tờ nào mà chả khả nghi. Họ muốn giữ bao lâu thì giữ thôi. Cái tóc cái tội, họ giải thích thế nào cũng thành tội. Cảnh bắt bớ gợi cảnh ngày tàn của bạo tàn. Đúng như lời nhà báo Pháp nói; “Chúng sinh ra trong cảnh khốn cùng, lớn mạnh trong chiến tranh, sống bằng gian dối và bạo lực giờ đây chúng hấp hối trong ngu đần và bất lực.”

Nhưng dù chúng đương hấp hối trong ngu đần và bất lực đi nữa, chuyện Vi suýt bị cảnh sát công an tóm cổ đêm qua luôn luôn làm bà Giáo rụng rời chân tay mỗi khi nghĩ tới. Vi vốn ít nói và nói khẽ, đặc biệt lần này lời Vi hơi to. Vi thuật lại khá đầy đủ cảnh mình vừa trải qua để bố mẹ anh chị em nghe:

- Con vừa đạp xe tới ngã tư Hiền Vương – Hai Bà Trưng thấy bốn bề người qua lại cũng bình thường, một trật tự viên giao thông băng tay đỏ đứng bên lề đường vẻ bình thường thôi. Chợt một tiếng còi xé lên, một công an áo vàng vừa từ dưới hàng hiên nhô ra ngoắc tay làm hiệu con dừng lại. Con cũng vừa nhận ra có rất nhiều áo vàng đứng phục kích sẵn đó dọc theo hàng hiên. Con cũng nhận ra một ông cụn già trên bao lơn gần đấy nhìn con thất vọng (Cụ đã làm dấu bảo Vi quay đi ngả khác mà Vi không thấy). Tụi nó chĩa súng bắt con quay mặt vào tường, một tên tới tự tay lục túi áo túi quần, lấy ví ra, mở rút hết tia61y tờ tiền nong. Nó hỏi con đi đâu. Con đáp đi làm về. Nó hỏi sao đi làm lại về vào lúc tám giờ tối này. Con đáp tôi đi làm ca chiều từ một giờ rưỡi đến bảy giờ rưỡi. Nó cười hằn học bảo: Anh mà đi làm gì, nói láo, anh là dân buôn bán chợ trời. Giấy chứng nhận đăng ký quân sự của anh đâu. Con đáp phường tôi không phát giấy chứng nhận đó. Nó nói: Vậy tôi có quyền giữ anh lại, anh hãy ra xì hơi bánh xe của anh! Lúc con cúi xuống vặn đầu van, con nhận thấy thêm mấy xe bịt bùng phía xa bên trong có thấp thoáng bóng người bị bắt. Con nghĩ mình “tiêu” rồi, nhưng con chỉ xì lốp một cái thật mạnh cho chúng nó nghe thấy rồi ngừng, vừa lúc một thằng huýt còi ra lệnh cho một thanh niên khác dừng lại, một thằng chĩa súng AK làm hiệu con hãy trở lại chỗ cũ quay mặt vào tường.

Mười lắm phút qua, thêm hai thanh niên bị khám xét nữa. Sắp đủ chuyến để dẫn lên xe bịt bùng phía xa, thì một chuyến xe đò tới, bị vẫy dừng lại để khám xét. Thời cơ thuận tiện, nhân lúc bất ngờ mấy tên công an cũng bận quay người, quay súng về phía xe đò, con vùng cạy tới chỗ xe đạp nhảy vù lên, quẹo theo góc sang đường Hiền Vương, tiếng súng AK bắn chỉ thiên và tiếng giầy rượt theo, con quẹo ngay vào hẻm nữa, cố tình càng đi sâu vào lắt léo càng nhiều hy vọng thoát nạn. Tiếng một bà già đón từ phía trước: “Vô ngay đây cháu, vô!” Con dừng lại dắt xe vô gấp, bà cụ đóng cửa lại. (Vào những ngày này các người già cả vẫn tự động xuất hiện làm bộ đứng phất phơ trên các ngả đường đưa đến khu công an đương chặn hỏi giấy tờ để ra hiệu cho các thanh niên kịp tránh sang ngả khác). Vi ở nhà bà cụ tới mười một giờ khuya, đường phố yên tĩnh vắng bóng công an mới từ giã gia đình bà cụ ân nhân len lén đạp về.

- Mày thoát nanh vuốt quỷ, con ơi – bà Giáo vừa khóc vừa nói. Thôi từ mai bỏ việc đi, làm làm gì, ham mấy chục bạc lương nhỡ nó tóm cổ lần nữa khó thoát đó con ơi! Bố mày đã về từ cõi chết, chúng mày đừng dại dột để sa vào nanh vuốt chúng!

Buổi tối Vi suýt bị công an tóm cổ thì sớm hôm sau đã đến ngày Ánh phải rời gia đình đi Vũng Tàu. Thời gian nghỉ hè còn đấy nhưng Ánh phải tới trường theo học lớp chính trị. Ánh biết đấy chỉ là cách chúng quản lý người cho chặt chẽ chứ lớp học chính trị có gì mới lạ đâu. Bà Giáo đã thổi cơm nếp cho Ánh từ tối hôm trước (khoảng thời gian Vi phải giơ hai tay, quay mặt vào tường…). Bà đã rót cho Ánh một lít dầu hôi mang đi theo. Sáng sớm chưa đầy 5 giờ, cả hai ông bà đã cùng Ánh thức dậy. Trong khi Ánh kiểm soát lại hành trang, ông bà giúp nhau đơm đĩa xôi, lấy muối vừng trộn đường đổ ra chiếc bát nhỏ, pha phin cà phê, tất cả đều cho Ánh.

Bà Giáo bảo Ánh:

- Ngồi ăn nếp đi con, lên xe cho vững dạ. Cà phê đây, uống đi con, cho tỉnh. Con đã soạn đủ đồ chưa? Mày đãng trí lắm kia, ai lại lần trước lọ đường mẹ để dành cho, chiếc áo mưa mẹ gấp sẵn cho, rồi lúc đi cũng bỏ quên tuốt luột.

Ông Giáo nói đùa cho ấm buổi sớm:

- Lần này áo mưa con đã nhớ mang đi lên xe phải nhớ giữ cho cẩn thận kẻo lại bị kẻ cắp rạch sắc lấy mất thì cũng uổng công nhớ mà thôi.

Rồi ông Giáo đích thân xách sắc cho Ánh, đưa Ánh vòng vèo theo con hẻm ra đường Nguyễn Hoàng đi đến bến xe (cách nhà chỉ khoảng 300 thước). Khi ông Giáo về, bà Giáo còn ngồi trước máy giặt, chưa cho máy chạy. Cả hai ông bà không nói ra nhưng cũng cảm thấy lòng hoang vắng quá đỗi, chẳng muốn ăn uống gì, người như phát sốt. Ánh đi Vũng Tàu mà hai ông bà thấy buồn nhớ da diết như thể Ánh ra đi vượt biên như Hoa một tháng trước đây. Ông Giáo thấy thương thấm thía cả loạt trẻ cỡ tuổi con ông sống tạm bợ, bế tắc phí hoài tuổi xuân trong một xã hội ngày một nhớp nhúa, lầy lội, u tối. Cả gian bếp chỉ còn vang tiếng nước rỏ giọt tự những vòi nước hỏng mà không thay được vòi mới, vì thứ nhất là không tiền, thứ nhì là có nhịn ăn bớt tiêu mua được vòi mới thì cũng chẳng được mấy ngày mà đã hỏng còn tồi tệ hơn thế này. Cái gì của quốc doanh cũng tồi tệ điêu bạc như thế cả, ngày nay còn ai ngạc nhiên nữa đâu. Bà Giáo cũng không buồn nói là lần này Ánh lại quên mang theo sợi dây điện-trở mà bà đã mua cho từ mấy hôm trước, rất cầ thiết để chữa lại cái bếp điện nhỏ của Ánh đã mang ra Vũng Tàu từ trước, mới hỏng.

Chính những buồn lo vời vợi chồng chất này làm bà Giáo cả ngày hôm đó vẻ mặt lúc nào cũng héo hon, lòng sầu dằng dặc, và là nguyên nhân đưa đến giấc mộng sầu thm gặp lại Hoa gầy chỉ còn một nửa. “Con gầy quá con ơi… việc gì con phải lo nhiều… để thằng Lịch nó lo cho…” – “Con cũng phải lo chứ mẹ… tránh sao được!”

Nước mắt bà Giáo lúc đó đã lại đổ ra ướt đẫm mặt gối. Nếu tình thế không sớm đổi thay – bà Giáo nghĩ thầm – thì phải cố tìm cách gửi cho ít nhất là hai thằng Hải, Vi đi nốt nữa. Mùa bão tới rồi, cơn bão số 4 thổi vào đất liền miền Thanh Nghệ Tĩnh tốc độ tới 130 cây số giờ, thật kinh khủng. Hai thằng Hải và Vi nếu được đi có thể gặp cơn bão tương tự, có thể ghe đắm, có thể chết. Chết trên biển cả, làm mồi cho cá vẫn là cái chết của người đi tìm tự do, hay đúng hơn cái chết của người tự do, vì lúc đó Hải, Vi hoàn toàn là con người tự do đấy chứ. Thốt nhiên đến lúc đó bà Giáo mới hốt hoảng hoàn toàn thông cảm với lời nói của bà bạn ngày nào: “Giá như biết quân đội bí mật của mình ở đâu, tôi gửi cháu nó đi ngay.

Thà nó chết bờ chết bụi còn hơn sống chui sống lủi, sống như súc vật, sống héo mòn u tối với tụi này như thế này.”

Đó là những xung động biến thái của tình mẹ, bà Giáo làm sao mà tránh được. Ông Giáo thì cứ vào đúng những lúc tình cảm và lý trí sa lầy vào hệ lụy như vậy là tự động – tự động như một máy điện tử tinh vi – phóng trí tưởng tượng vào không gian vô tận hòa vào với thời gian vô cùng để thấy rằng phiền não với hạnh phúc chỉ là những đường tần số uốn éo vi ti trong cái toàn bộ Thời – Không là Một. Ai mà nhốt được cái Toàn Bộ đó trong những danh từ Tốt Xấu, Thiện Ác! Có phải ngẫu nhiên đâu, người bạn già của ông Giáo – Hoàng lão hữu - đã ghi tặng ông Giáo bài kệ kia “…Tử sinh đồng nhất thể, hà úy hựu hà tham.” Chẳng phải nếp phản ứng tự động đó giúp ông Giáo hoàn toàn thoát khỏi dằn vặt, hoàn toàn thảnh thơi hơn bà Giáo. Không đâu! Mà chính ông Giáo cũng chẳng ưa thế - ông còn là một nhà văn mà – nhưng ít ra đó cũng là một lối thoát, một nắp xì hơi an toàn hữu hiệu.