← Quay lại trang sách

Đến nơi Kho Bảo trì máy bay Regis Air

Do JFK cần đường lăn thông thoáng, cái máy bay được giữ nguyên trạng và được kéo vào kho bảo trì dài tít tắp của hãng Regis Aữ trước bình minh. Ai nấy đều im lặng khi chiếc 777 què quặt chứa đầy hành khách đã chết lăn bánh qua như một quan tài trắng khổng lồ.

Khi các miếng chặn bánh đã đưọc đặt vào vị trí và cái máy bay đã được cố định, những tấm vải bạt đen được trải ra phủ lên sàn xi măng lem luốc. Các tấm rèm y tế đi mưọn được dựng thẳng lên, tạo ra một khu cách ly rộng ở khoảng giữa cánh trái và mũi máy bay. Cái máy bay bị cô lập trong kho chứa, như xác chết trong một nhà xác khổng lồ.

Theo yêu cầu của Eph, Cơ quan Pháp y (OCME) New York đã cử tới một số điều tra viên pháp y cấp cao từ Manhattan và Queens, mang theo vài thùng đựng túi cứu hộ bằng cao su. OCME, cơ quan pháp y lớn nhất thế giới, đã có nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý thảm họa thương vong lớn và hỗ trợ quá trình thu hồi xác.

Các nhân viên HAZMAT của Cơ quan Quản lý Cảng mặc đồ bảo hộ đưa viên cảnh sát hàng không ra trước tiên - mọi người nghiêm trang cúi chào khi túi thi thể xuất hiện nơi cửa cánh - rồi lần lượt từng hành khách ngồi hàng đầu trong khoang. Tiếp theo, họ tháo bỏ những ghế trống đó, sử dụng khoảng trống mới có này để cho xác chết vào túi trước khi đưa ra. Lần lượt từng thi thể được buộc vào cáng và hạ từ cánh máy bay xuống mặt sàn lót vải bạt.

Quá trình này diễn ra vô cùng thận trọng và, đôi lúc, ghê rợn. Sau một lúc, khi đã đưa được khoảng ba mươi thi thể ra, một nhân viên Quản lý Cảng bất ngờ ngã ra khỏi hàng ngũ thu hồi xác, vừa rên rỉ vừa tàm chặt lấy mũ trùm đầu. Hai nhân viên HAZMAT xúm lại hỗ trợ nhưng anh ta đá chân, xô họ ngã vào mấy tấm màn y tế, phá thủng ranh giới cách ly. Hoảng loạn bùng phát, mọi người dạt hết ra để cho anh nhân viên có khả năng đã bị đầu độc hoặc bị nhiễm bệnh này vừa cấu xé bộ đồ bảo hộ vừa tun đường thoát khỏi cái kho hun hút. Eph bắt kịp anh ta tại thềm đế máy bay, và ở đây, dưới ánh mặt tròi buổi sáng, anh nhân viên cuối cùng cũng thành công vứt chiếc mũ trùm và cỏi bỏ bộ đồ bảo hộ đang như một lóp da co khít. Eph túm lấy anh nhân viên, và anh này ngồi thụp xuống thềm đế máy bay, nước mắt đầm đìa.

"Thành phố này," anh ta nức nở. "Cái thành phố chết tiệt này."

Sau này, người ta đồn rằng nhân viên Quản lý Cảng này đã trải qua vài tuần làm việc đầu tiên kinh khủng bên đống đổ nát tại Khu vực Số 0[I], ban đầu làm nhiệm vụ giải cứu, rồi về sau là hỗ trợ công cuộc tái thiết. Bóng ma ngày 11/9 vẫn lơ lửng trên đầu rất nhiều nhân viên Quản lý Cảng, và cái thảm họa chết người hàng loạt đầy bí ẩn này lại một lần nữa khoi dậy nó.

Một nhóm phản ứng nhanh bao gồm các chuyên viên phân tích và điều tra viên từ ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia tại Washington D.c. đã đến trên một máy bay Gulfstream của FAA. Họ có mặt để phỏng vấn tất cả những người liên quan tới "sự cố" trên chuyến bay 753 của Regis Air, thu thập tư liệu về những giờ phút hoạt động cuối cùng, thông số chuyến bay cùng băng ghi âm buồng lái. Các điều tra viên từ Sở Y tế thành phố New York, vốn đã bị CDC qua mặt trong cuộc ứng phó khủng hoảng, được báo cáo vắn tắt về vụ việc, tuy nhiên Eph đã bác bỏ quyền tài phán của họ. Anh biết mình cần phải kiểm soát công cuộc ứng phó và ngăn chặn thảm họa nếu muốn mọi thứ diễn ra tốt đẹp.

Đại diện hãng Boeing trên đường từ Washington tới đã phủ nhận việc chiếc 777 hoàn toàn ngưng hoạt động là do "vấn đề kỹ thuật". Phó chủ tịch Regis Air, vừa thức dậy ở Scarsdale, khăng khăng rằng đội kỹ thuật riêng của Regis phải là nhóm người đầu tiên lên kiểm tra máy bay một khi lệnh cách ly bệnh dịch được dỡ bỏ. (Hiện tại, hỏng hóc hệ thống thông khí đang là giả thuyết chính về nguyên nhân tử vong.) Đại sứ Đức tại Hoa Kỳ cùng đội ngũ nhân viên của ông vẫn đang chờ nhận túi ngoại giao, Eph đã để mặc họ đợi tại phòng chờ Lufthansa's Senator trong nhà ga số 1. Thư ký truyền thông của thị trưởng đã lên kế hoạch cho buổi họp báo buổi chiều, còn ủy viên cảnh sát cũng có mặt cùng cục trưởng Cục Chống Khủng bố bên trong buồng điều khiển của xe phản ứng khẩn cấp của Sở Cảnh sát New York (NYPD).

Tới giữa buổi sáng, chỉ còn lại tám mươi thi thể chưa được mang ra. Quá trình xác định danh tính được triển khai nhanh chóng nhờ các bản scan hộ chiếu và kê khai hành khách chi tiết.

Trong thời gian nghỉ để thay đồ, Eph và Nora hội ý với Jim bên ngoài khu vực cách ly, tại một góc nhỏ của thân máy bay khổng lồ lộ ra phía sau những tấm màn chắn. Ngoài kia, các máy bay lại đang cất cánh và hạ cánh; họ có thể nghe thấy tiếng động cơ lúc to lúc nhỏ trên đầu, cảm nhận sự khuấy động trong bầu khí quyển, trong luồng không khí.

Eph vừa hỏi Jim vừa cầm chai nước uống từng ngụm một, "Bộ phận Giám định Pháp y ở Manhattan có thể xử lý được bao nhiêu thi thể vậy?"

Jim nói, "Queens có quyền hạn ở đây, nhưng anh có lý, trụ sở Ở Manhattan được trang bị tốt hơn cả. Chúng ta sẽ chia các nạn nhân ra giữa hai nơi này và Brooklyn cùng Bronx. Vậy, khoảng năm mươi người mỗi noi."

"Ta tính vận chuyển họ thế nào?"

"Xe tải đông lạnh. Giám định pháp y nói đó là cách họ xử lý những thi thể còn lại ở Trung tâm Thương mại Thế giới. Họ đã liên lạc với chợ cá Fulton ở Lower Manhattan."

Eph thường coi công việc kiểm soát dịch bệnh như một nỗ lực phản kháng thời chiến, anh và đồng đội chiến đấu cam go trong khi phần còn lại của thế giới cố duy trì cuộc sống thường ngày dưới nguy cơ bị chiếm đóng, bị lây nhiễm bởi vi rút và vi khuẩn. Trong tình huống ấy, Jim là phát thanh viên ngầm, thông thạo ba ngôn ngữ, người có thể kiếm được mọi thứ từ bơ sữa đến vũ khí hay một lối thoát an toàn ra khỏi thành phố.

Eph hỏi, "Không có gì từ phía Đức sao?"

"Vân chưa. Họ đã đóng cửa sân bay hai giờ, kiểm tra an ninh toàn diện. Không có nhân viên nào phát bệnh ở sân bay, không một ca bệnh đột ngột nào đưọc báo cáo cho các bệnh viện."

Nora lo lắng nói, "Chuyện này thật khó hiểu."

Eph gật đầu đồng tình. "Tiếp đi."

"Chúng ta có một máy bay đầy xác chết. Nếu nguyên nhân là khí độc, hay một sol khí nào đó trong hệ thống thông khí - dù có phải là tai nạn hay không - thì tất cả bọn họ đã không ra đi một cách... tôi phải nói là, cực kỳ thanh thản đến thế. Đáng ra họ phải bị ngạt, giãy giụa. Nôn mửa. Xanh tái. Người có cơ địa khác nhau sẽ gục ở những thời điểm khác nhau. Và kèm theo sự hoảng loạn. Này nhé - nếu như thay vì thế, đây là một vụ lây nhiễm, vậy thì chúng ta có một dạng mầm bệnh mới toanh cực kỳ lạ lùng, một thứ chưa ai trong chúng ta từng thấy. Ý tôi là, thứ gì đó do con người tạo ra, trong phòng thí nghiệm. Và trong cùng một thời điểm, hai người nhớ chứ, không chỉ các hành khách chết - cả cái máy bay cũng chết. Như thể là một thứ gì đó, một thứ có khả năng phá hủy nào đó, đã tấn công máy bay và xóa sổ mọi thứ bên trong, kể cả hành khách. Nhưng cũng chưa chắc là thế, phải không? Bởi vì, và tôi cho rằng đây mới là câu hỏi quan trọng nhất hiện giờ, ai đã mở cửa?" Nora nhìn qua nhìn lại giữa Eph và Jim. "Ý tôi là - cũng rất có thể là do thay đổi áp suất. Có thể cánh cửa vốn không khóa, và vì máy bay giảm áp suất nên nó đã mở ra. Ta có thể đưa ra những lời giải thích khôn khéo cho bất cứ vấn đề gì, bởi chúng ta là những chuyên gia y tế, đó là công việc của chúng ta."

"Còn những tấm che cửa sổ nữa," Jim nói. "Mọi người luôn nhìn ra ngoài cửa sổ trong lúc hạ cánh. Ai đã đóng hết chúng?"

Eph gật đầu. Suốt cả sáng nay, anh đã quá tập trung vào chi tiết, cũng tốt thôi nếu lùi lại và đứng từ xa mà nhìn các sự kiện kỳ lạ. "Bổi vậy nên bốn người sống sót mới chính là chìa khóa. Biết đâu họ đã được chứng kiến bất cứ điều gì."

Nora bổ sung, "Hoặc là có liên quan."

Jim nói, "Cả bốn người đều trong tình trạng nguy kịch nhưng ổn định tại khu cách ly của Trung tâm Y tế Bệnh viện Jamaica. Cơ trưởng Redfern, phi công thứ ba, nam, ba hai tuổi. Một luật sư từ hạt Westchester, nữ, bốn mốt tuổi. Một nhà lập trình máy tính từ Brooklyn, nam, bốn bốn tuổi. Và một nhạc sĩ, một nhân vật nổi tiếng từ Manhattan & Miami Beach, nam, ba sáu tuổi. Tên anh ta là Dwight Moorshein."

Eph nhún vai. "Chưa nghe tên đó bao giờ."

"Anh ta biểu diễn dưới nghệ danh Gabriel Bolivar."

Eph nói, "Ồ."

Nora nói, "Eo."

Jim nói, "Anh ta đang đi du lịch bí mật, ở khoang hạng nhất. Không lóp trang điểm đáng sợ, không cặp kính áp tròng điên rồ. Thế nên giới truyền thông hẳn sẽ phát rồ hơn nữa."

Eph nói, "Có bất cứ mối liên hệ nào giữa những người sống sót không?"

"Chưa thấy gì hết. Có thể các phân tích y tế sẽ tiết lộ gì đó. Họ ngồi rải rác trên máy bay, lập trình viên ở khoang thường, luật sư ở khoang thương gia, ca sĩ ở khoang hạng nhất. Và cơ trưởng Redfern, dĩ nhiên, ở buồng lái."

"Thật khó hiểu," Eph nói. "Nhưng dù sao nó cũng có ý nghĩa gì đó. Nếu họ tình lại, tất nhiên. Đủ lâu để chúng ta có thể thu được vài câu trả lời từ họ."

Một nhân viên Quản lý Cảng đêh tìm Eph. "Bác sĩ Goodweather, ông nên trở vào đó thì hon," anh ta nói. "Khoang hàng. Họ vừa tìm thấy một thứ."

Qua cánh cửa sập bên của khoang hàng, trong bụng dưới chiếc 777, họ đã bắt đầu đưa các tủ đựng hành lý bằng thép có bánh xe xuống, để đội HAZMAT Quản lý Cảng mở và kiểm tra. Eph và Nora bước vòng tránh các thùng chứa hàng còn lại được nối với nhau và khóa bánh vào đường ray trên mặt sàn.

Ở cuối khoang chứa hàng là một hộp chữ nhật dài, màu đen, bằng gỗ và trông rất nặng, giống như một chiếc tủ lớn để ngửa. Gỗ mun không đánh véc ni, dài khoảng hai mét rưỡi, rộng một mét hai, cao một mét. Cao hơn một cái tủ lạnh. Mặt trên phủ kín các hình chạm khắc tinh xảo, đường nét trang trí phức tạp cùng những ký tự cổ hoặc được-làm-cho-giống-ngôn- ngữ-cổ. Rất nhiều đường xoáy na ná các hình thù, các hình người trôi nổi - và có lẽ, với một chút tưởng tưọng, các khuôn mặt đang la hét.

"Chưa ai mở nó ư?" Eph hỏi.

Các nhân viên HAZMAT đều lắc đầu. "Chúng tôi chưa hề chạm vào thứ đó," một người nói.

Eph kiểm tra mặt sau của nó. Ba sợi dây chằng màu cam nằm trên sàn bên cạnh cái hòm, móc thép của chúng vẫn còn gài vào các khoen trên sàn. "Những dây đai này?"

"Lúc chúng tôi vào thì đã gỡ sẵn rồi," một người khác nói.

Eph nhìn quanh khoang hàng. "Không thể có chuyện đó," anh nói. "Nếu thứ này không được buộc cố định khi đang bay, nó sẽ gây hư hại nặng cho các thùng chứa hành lý, thậm chí là các vách trong của khoang hàng." Anh nghiên cứu lại nó lần nữa. "Thẻ thông tin của nó đâu? Bảng kê khai hàng hóa cho biết gì?"

Một nhân viên cầm một tập giấy được đóng kẹp tròn trong bàn tay đeo găng. "Nó không có ở đây."

Eph bước tới để tự mình kiểm tra. "Không thể thế được."

"Hàng hóa bất thường duy nhất được liệt kê ở đây, ngoài ba bộ gậy đánh golf, là một xuồng kayak." Người nhân viên chỉ sang bức vách bên, nơi một chiếc xuồng kayak để trong túi nhựa dán nhãn hành lý máy bay cũng được buộc bằng một loại dây đai màu cam có khóa móc.

"Gọi cho bên Berlin," Eph nói. "Họ phải có biên bản. Hẳn phải có người còn nhớ thứ này. Nó dễ phải nặng tới gần hai trăm cân."

"Chúng tôi đã làm rồi. Không có biên bản nào cả. Họ sẽ cho gọi đội quản lý hành lý và hỏi từng người một."

Eph quay lại với cái hòm đen. Bỏ qua lối chạm khắc kỳ quái, anh cúi rạp người, xem xét các bên, tìm ra ba bản lề tại mỗi cạnh trên. Nắp hòm là một cánh cửa xẻ dọc ở giữa, tạo thành hai nửa có thể mở ra. Eph chạm bàn tay đeo găng vào nắp hòm chạm khắc, rồi luồn tay xuống dưổi, cố mở cánh cửa nặng trịch. "Ai muốn giúp tôi một tay không?"

Một nhân viên bước lên, vòng những ngón tay mang găng xuống dưới mép chiếc nắp phía đối diện với Eph. Eph đếm đến ba, và họ cùng lúc mở cả hai cánh cửa nặng.

Hai cánh cửa mở toang trên những bản lề rộng bản chắc chắn. Một mùi giống mùi xác chết phả ra, như thể cái hòm đã bị khóa kín một trăm năm nay. Nó có vẻ rỗng, cho đến khi một nhân viên bật đèn pin soi vào trong.

Eph thò tay vào, ngón tay anh chìm vào trong một lóp đất mùn dày màu đen. Lóp mùn mềm dễ chịu như bột bánh và ngập tới hai phần ba cái hòm.

Nora lùi một bước khỏi cái hòm đang mở. "Nó trông như một chiếc quan tài," Nora nói.

Eph rút ngón tay ra, vẩy cho hết những thứ bám vào tay rồi quay về phía Nora, vô vọng chờ đợi một nụ cười của cô. "Hoi lớn so với một chiếc quan tài nhỉ?"

"Tại sao lại có người muốn vận chuyển một thùng đất chứ?" cô hỏi.

"Họ không làm thế đâu," Eph nói. "Hẳn phải có thứ gì đó bên trong."

"Nhưng bằng cách nào?" Nora nói. "Máy bay này đã bị cách ly hoàn toàn."

Eph nhún vai. "Chúng ta giải thích được bất cứ điều gì ở đây cơ chứ? Tất cả những gì anh biết chắc là ở đây, ta đang có một cái hòm mở khóa và không được gài dây, cũng không có hóa đon vận chuyển." Anh quay về phía những người còn lại. "Ta cần lấy mẫu đất. Đất lưu giữ dấu vết chứng cứ rất tốt. Như bức xạ chẳng hạn."

Một nhân viên nói, "Anh cho rằng tác nhân được dùng để hạ các hành khách...?"

"Được vận chuyển trong này? Đó là giả thuyết tốt nhất tôi được nghe trong suốt cả ngày hôm nay đấy."

Giọng của Jim vọng lên từ phía dưới họ, bên ngoài máy bay. "Eph? Nora?"

Eph đáp lại, "Gì vậy, Jim?"

"Tôi vừa nhận được điện thoại từ khu cách ly của bệnh viện Jamaica. Hai người thể nào cũng muốn tới đó ngay lập tức đấy."

Trung tâm Y tế Bệnh viện Jamaica

BỆNH VIỆN CHỈ CÁCH JFK mười phút ô tô về phía Bắc, dọc theo đường cao tốc Van Wyck. Jamaica là một trong bốn Trung tâm Phòng chống Khủng bố Sinh học ở New York. Nó là một thành viên đủ tư cách trong Hệ thống Giám sát Hội chứng, và Eph từng tổ chức một cuộc hội thảo của Canary tại đó chỉ mới vài tháng trước. Vì vậy anh biết rõ đường tới khoa cách ly bệnh nhân lây nhiễm qua đường hô hấp trên tầng năm.

Cánh cửa kim loại hai lóp có biểu tượng nguy hiểm sinh học ba cánh hoa màu cam lửa đặc trưng, ám chỉ nguy hiểm thực sự hoặc tiềm tàng đối với các thành phần tế bào hay cơ thể sống. Dòng chữ cảnh báo in:

KHU VỰC CÁCH LY: YÊU CẦU MẶC ĐÓ BẢO HỘ, KHÔNG PHẬN Sự MIỄN VÀO.

Eph giơ thẻ CDC tại bàn, và người quản lý đã nhận ra anh từ những lần tập huấn phòng chống sinh học trước kia. Bà đưa anh vào trong. "Chuyện gì vậy?" anh hỏi.

"Tôi thực sự không muốn tỏ ra kịch tính quá mức đâu," bà vừa nói vừa quẹt thẻ bệnh viện của mình trên máy quét và mở cửa vào khu cách ly, "nhung anh phải xem tận mắt mới được."

Lối đi bên trong nhỏ hẹp, vốn là vòng ngoài của khu cách ly, phần lớn diện tích được dành cho trạm y tá. Eph theo bà quản lý bước qua một tấm rèm xanh nước biển, vào một sảnh rộng đặt các khay đựng đồ bảo hộ - áo choàng, kính, găng tay, giày, mặt nạ phòng độ - và một thùng rác xoay lớn lót túi rác sinh học màu đỏ. Mặt nạ phòng độc là loại nửa mặt N95, hiệu suất lọc 95 phần trăm các hạt từ 0.3 micrômet trở lên. Nghĩa là nó có thể giúp bảo vệ người đeo khỏi phần lớn các vi rút lây qua đường hô hấp và các mầm bệnh do vi khuẩn, nhưng không thể chống lại chất độc hóa học hay khí độc.

Sau bộ đồ bảo hộ kín mít tại sân bay, Eph cảm thấy như thể đang bị phoi ra với chiếc khẩu trang y tế, mũ phẫu thuật, kính bảo hộ, áo choàng và bao giày bệnh viện. Bà quản lý, cũng đang mặc bộ đồ tương tự, nhấn một cái nút bấm, mở một dãy cửa bên trong, và khi bước vào, Eph cảm thấy một lực hút giống như chân không, do hệ thống áp suất âm hút không khí vào trong khu cách ly để không một phân tử nào có thể thoát ra.

Bên trong, một hành lang chạy dọc từ trái qua phải phía ngoài trạm cung cấp trung tâm. Trạm này gồm một xe đẩy chứa thuốc và các dụng cụ cấp cứu, một máy tính xách tay bọc nhựa và hệ thống liên lạc nội bộ giúp giao tiếp với bên ngoài, cùng các vật dụng cách ly phụ trợ.

Khu bệnh nhân là một dãy tám phòng nhỏ. Tổng cộng tám phòng cách ly cho một quận hơn hai triệu hai trăm năm mươi ngàn dân. "Năng lực vượt tràn" là một thuật ngữ ứng biến thảm họa chỉ khả năng mở rộng nhanh quy mô hoạt động bình thường của một cơ sở y tế để đáp ứng nhu cầu sức khỏe cộng đồng khi có trường họp khẩn cấp gầy nguy hại trên diện rộng. Số giường bệnh ở bang New York là khoảng 60.000 và đang giảm sút. Riêng dân số thành phö'New York đã là 8,1 triệu và đang tiếp tục tăng. Dự án Canary được cấp vốn với hy vọng cải thiện sự thiếu hụt mang tính thống kê này, như một dạng phương án ứng biến thảm họa tạm thời. CDC đánh giá động cơ chính trị này là "lạc quan". Eph thích thuật ngữ "tư duy hão huyền" hon.

Eph theo chân bà quản lý vào phòng đầu tiên. Đây không phải một phòng cách ly sinh học hoàn toàn; không có khóa không khí hay cửa thép. Chỉ là phòng bệnh bình thường được tách riêng. Căn phòng lát gạch vuông sáng ánh đèn huỳnh quang. Thứ đầu tiên Eph nhìn thấy là cái khoang Kurt bỏ đi đặt sát bức tường bên. Khoang Kurt là một loại cáng nhựa hình hộp dùng một lần, trông giống một chiếc quan tài trong suốt, mỗi bên có hai lỗ tiếp xúc tròn gắn kèm găng tay, khoang còn được trang bị bình dưỡng khí lắp ngoài có thể tháo ròi. Một cái áo choàng, áo sơ mi và quần dài, đã được cắt khỏi người bệnh nhân bằng kéo phẫu thuật, gom thành một đống bên cạnh, logo vương miện có cánh của Regis Air lộ ra trên chiếc mũ phi công để ngửa.

Một lóp rèm nhựa trong suốt bao quanh giường bệnh ở giữa phòng, bên ngoài đặt thiết bị giám sát và một khung truyền dịch tĩnh mạch điện tử chất đầy những túi dịch. Chiếc giường có tay vịn phủ khăn trải giường xanh chất mấy cái gối trắng lớn được dựng lên ở tư thế ngồi.

Cơ trưởng Doyle Redfern ngồi giữa giường, tay đặt trên đùi. Anh ta để chân trần, chỉ mặc một bộ quần áo bệnh nhân, vẻ cảnh giác. Nhưng, nhìn mũi kim truyền dịch trên bàn tay và cánh tay Redfern, cùng vẻ mặt mệt mỏi của anh ta - anh ta có vẻ đã sụt mất năm cân kể từ khi được Eph tìm thấy trong buồng lái - anh ta trông hệt như một bệnh nhân đang chờ kiểm tra sức khỏe tổng quát.

Anh ta ngước lên đầy hy vọng khi Eph tiến lại gần. "Anh ở bên hãng hàng không à?" anh ta hỏi.

Eph lắc đầu, chết lặng. Đêm qua, người này đã hổn hển ngã nhào xuống sàn buồng lái chuyến 753, mắt trọn ngược, trông như sắp chết đến noi.

Chiếc nệm mỏng kêu sột soạt khi người phi công cựa mình. Anh ta cau mày như thể đang bị đau, rồi hỏi, "Chuyện gì đã xảy ra trên máy bay vậy?"

Eph không giấu nổi nỗi thất vọng. "Tôi tới đây cũng vì muốn hỏi anh câu đó đấy."

Eph đứng trước mặt ngôi sao nhạc rock Gabriel Bolivar, người đang ngồi trên mép giường như một con quái vật vận quần áo bệnh nhân. Không có lóp trang điểm kinh dị, trông anh ta đẹp trai đến lạ, theo kiểu kham khổ, đầu bù tóc rối.

"Mệt vãi," Bolivar nói.

"Anh còn thấy khó chịu chỗ nào nữa không?" Eph hỏi.

"Đủ chỗ. Trời ạ." Anh ta xọc tay vào mái tóc đen dài. "Chớ bao giờ đi máy bay thương mại. Bài học rút ra từ vụ này đấy."

"Anh Bolivar, anh có thể cho tôi biết điều cuối cùng anh nhớ được về quá trình hạ cánh là gì không?"

"Hạ cánh nào? Nghiêm túc đấy. Tôi đã nốc khá nhiều vodka tonic trong suốt chuyến bay - chắc tôi đã ngủ say." Anh ta ngước lên, nheo mắt trước ánh sáng. "Cho tôi chút Demerol*[II]* chứ? Khi xe đẩy đi ngang qua ấy?"

Eph nhìn thấy những vết sẹo chằng chịt trên cánh tay trần của Bolivar, và nhớ ra một trong những trò điển hình của anh ta trên sân khấu là tự rạch lên người mình. "Chứng tôi đang cố khóp các hành khách với hành lý của mỗi người."

"Đon giản thôi. Tôi chẳng có gì cả. Không hành lý, chỉ mỗi điện thoại thôi. Máy bay riêng bị hỏng nên tôi lên chuyến bay này vào phút chót. Quản lý của tôi chưa nói cho anh biết à?"

"Tôi chưa nói chuyện với ông ta. Tôi đang muốn hỏi về một cái hòm lớn."

Bolivar nhìn anh chằm chằm. "Đây là một dạng kiểm tra tâm lý à?"

"Trong khoang hành lý. Một cái hòm cũ, chứa đầy đất."

"Chẳng biết anh đang nói về cái gì."

"Anh không mang nó từ Đức về ư? Nó có vẻ giống kiểu mà những người như anh thích sưu tầm."

Bolivar cau mày. "Chỉ là diễn thôi, ông ơi. Một chương trình chết tiệt, một màn biểu diễn. Trang điểm kiểu gothic và lời nhạc nặng đô. Google tôi đi - cha tôi là một nhà truyền giáo theo Hội Giám lý, và thứ duy nhất tôi sưu tầm là gái. Mà nhân nói đến chuyện đó, đến lúc quái nào tôi mới có thể ra khỏi đây?"

Eph nói, "Chúng tôi còn một vài lượt kiểm tra nữa. Chúng tôi muốn xác nhận tình trạng sức khỏe của anh hoàn toàn tốt trước khi để anh đi."

"Khi nào tôi có thể lấy lại điện thoại của mình?"

"Sớm thôi," Eph nói, rồi bước ra ngoài.

Bà quản lý đang gặp rắc rối với ba người đàn ông bên ngoài cửa vào khu cách ly. Hai trong số đó cao hơn hẳn Eph, hẳn phải là vệ sĩ của Bolivar. Gã thứ ba nhỏ con hơn mang một chiếc cặp hồ sơ, sặc mùi luật sư.

Eph nói, "Các quý ông, đây là khu vực cấm."

Gã luật sư nói, "Tôi tới đây để đón thân chủ của tôi, Gabriel Bolivar."

"Ông Bolivar đang trải qua một số cuộc kiểm tra và sẽ được xuất viện trong thời gian sớm nhất có thể."

"Và đó là khi nào?"

Eph nhún vai. "Hai, hay có lẽ là ba ngày, nếu mọi việc thuận lọi."

"Ông Bolivar đã yêu cầu được xuất viện để bác sĩ riêng của ông ấy chăm sóc. Tôi không chỉ có quyền của một luật sư, tôi còn là người đại diện chăm sóc sức khỏe của ông Bolivar trong trường họp ông ấy bị bất kỳ thương tật gì."

"Không ai được vào gặp anh ta ngoại trừ tôi," Eph nói. Rồi anh nói với bà quản lý, "Hãy lập tức bố trí bảo vệ tại đây."

Gã luật sư sấn tói. "Nghe này, bác sĩ. Tôi không biết nhiều về luật cách ly kiểm dịch, nhưng tôi khá chắc cần phải có sắc lệnh hành pháp từ tổng thống khi muốn giữ ai đó trong khu cách ly y tế. Tôi có thể xem sắc lệnh đó đưọc chứ?"

Eph mỉm cười. "Anh Bolivar giờ là bệnh nhân của tôi và cũng là người sống sót sau một tai nạn thương vong lớn. Nếu anh để lại số điện thoại của mình tại bàn y tá, tôi sẽ cố gắng hết sức cập nhật tình hình phục hồi của anh ta cho anh - tất nhiên là với sự ưng thuận của anh Bolivar."

"Này, bác sĩ." Gã luật sư đặt tay lên vai Eph theo cái kiểu mà Eph chẳng thích một chút nào. "Tôi có thể đạt được kết quả nhanh hơn so với đợi lệnh của tòa án chỉ đơn giản bằng cách huy động lực lượng fan cuồng của thân chủ tôi." Gã đe dọa cả bà quản lý. "Hai người có muốn đám gái mặc đồ gothic cùng một lũ đồng bóng biểu tình bên ngoài bệnh viện, càn quét qua những hành lang này chỉ để được gặp anh ấy không?"

Eph nhìn vào bàn tay tên luật sư cho tới khi hắn bỏ ra khỏi vai anh. Anh phải gặp hai người sống sót nữa. "Này, tôi thực sự không có thời gian cho chuyện này. Vì thế tôi sẽ hỏi thẳng anh một số câu. Thân chủ của anh có bất cứ bệnh lây truyền qua đường tình dục nào mà tôi cần biết không? Anh ta có tiền sử dùng ma túy không? Tôi hỏi thế bởi vì nếu tôi phải đi lục lại toàn bộ hồ sơ bệnh án của anh ta, chậc, những thứ này có khi lại lọt vào tay kẻ xấu không chừng. Anh đâu muốn toàn bộ bệnh án của anh ta bị tiết lộ cho giới báo chí, phải không?"

Gã luật sư nhìn anh chòng chọc. "Đó là những thông tin riêng tư. Làm lộ nó nghĩa là phạm trọng tội."

"Và cũng là một nỗi ô nhục khủng khiếp nữa," Eph nói, rồi nhìn thẳng vào mắt gã luật sư thêm vài giây để đạt được hiệu quả tối đa. "Ý tôi là, hãy thử tưởng tượng lỡ ai đó đưa toàn bộ hồ sơ bệnh án của anh lên mạng cho mọi người cùng thấy mà xem."

Gã luật sư đờ ra khi Eph bước qua hai tên vệ sĩ.

Joan Luss, đồng sở hữu một công ty luật, bà mẹ hai con, tốt nghiệp Đại học Swarthmore, sống tại Bronxville, thành viên Junior League11*, đang ngồi trên tấm nệm xốp trên giường bệnh khoa cách ly, vẫn trong trang phục bệnh nhân lố bịch ấy, nguệch ngoạc ghi chép trên mặt sau của tấm ga trải giường. Nguệch ngoạc, chờ đợi và ngọ nguậy những ngón chân trần. Họ không trả lại điện thoại cho cô ta; cô ta thậm chí đã phải tán tỉnh và hăm dọa chỉ để xin được một chiếc bút chì.

Cô ta lại vừa định lẩm bẩm gì đó thì y tá cuối cùng cũng bước vào. Joan liền nở một nụ cười cầu cạnh. "Xin chào, cô đây rồi. Tôi đang băn khoăn quá. Tên của bác sĩ vừa ở đây là gì ấy nhỉ?"

"Anh ấy không phải bác sĩ ở bệnh viện này."

"Tôi biết chứ. Tôi hỏi tên anh ta thôi mà."

"Anh ấy là bác sĩ Goodweather."

"Họ Goodweather." Cô ta nguệch ngoạc ghi lại. "Còn tên?"

"Bác sĩ." Cô y tá cười nhạt. "Với tôi, họ đều có một cái tên như nhau - Bác sĩ."

Joan nheo mày, như thể không chắc mình đã nghe chính xác, và hơi cựa mình trên tấm ga trải giường thô cứng. "Và anh ta đã được cử tới đây từ Trung tâm Kiểm dịch?"

"Vâng, tôi đoán vậy. Lúc ra về anh ta có yêu cầu kiểm tra vài thứ..."

"Có bao nhiêu người khác sống sót sau vụ va chạm?"

"ừm, không có vụ va chạm nào cả."

Joan mủn cười. Đôi khi, để hiểu được vấn đề, ta cần phải giả vờ như tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai của họ. "Tôi đang muốn hỏi cô là còn bao nhiêu người nữa không chết trên chuyến bay 753 từ Berlin đến New York?"

"Ngoài cô ra, còn ba người khác trên chuyến bay này. Nào, bác sĩ Goodweather muốn lấy máu và..."

Joan ngay tức khắc phớt lờ cô y tá. Lý do duy nhất khiến cô ta vẫn còn ngồi trong phòng bệnh này là bởi cô ta biết mình [III]

CÓ thể tìm hiểu thêm về sự việc bằng cách vờ họp tác. Nhưng âm mưu này đang sắp đến hồi kết. Joan Luss là một luật sư lo những vụ thiệt hại ngoài họp đồng, "thiệt hại ngoài họp đồng" là thuật ngữ pháp lý mang nghĩa "một sai phạm dân sự", được xem là cơ sở để kiện tụng. Một cái máy bay chở đầy hành khách đã chết, ngoại trừ bốn người - một trong số đó là luật sư dân sự.

Tội nghiệp Regis Air. Đối với họ mà nói, có một hành khách lẽ ra không nên sống sót.

Joan nói, át tiếng chỉ dẫn của cô y tá, "Tôi muốn một bản sao hồ sơ bệnh án của tôi cho đến thời điểm hiện tại, cùng danh sách tất cả các xét nghiệm đã được thực hiện, và kết quả của chúng..."

"Cô Luss? Cô chắc mình vẫn ổn chứ?"

Trước đó Joan đã bất tỉnh một lát, nhưng đấy chỉ là tàn dư của bất cứ thứ gì đó đã chế ngự họ vào cuối chuyến bay khủng khiếp ấy. Cô ta mỉm cười và lắc đầu nguầy nguậy, tỏ rõ ý kiến của mình. Nỗi căm phẫn mà cô ta đang cảm thấy đây sẽ tiếp sức cho cô ta trong hàng ngàn tiếng đồng hồ đáng đồng tiền bát gạo sắp tới cốt để rà soát lại thảm họa này và mang hãng hàng không cẩu thả đến mức nguy hiểm kia ra tòa.

Cô ta nói, "Tôi sẽ sớm cảm thấy vô cùng ổn thôi."

Kho bảo trì máy bay Regis Air

"KHÔNG CÓ RUỒI," EPH NÓI.

Nora hỏi, "Gì cơ?"

Họ đang dring trước dãy túi xác xếp trước máy bay. Bốn xe tải đông lạnh đã đậùtrong kho, hai bên thùng xe được cẩn thận căng bạt đen để che dấu hiệu của chợ cá. Cơ quan Pháp y New York đã nhận diện và đeo thẻ chân có mã vạch cho mọi thi thể. Thảm kịch này là một tai nạn chết người hàng loạt "trong không gian kín", theo cách nói của họ, với con số thương vong cố định và có thể biết được - trái ngược với vụ sập Tháp đôi. Nhờ bản scan hộ chiếu, thống kê hành khách và tình trạng nguyên vẹn của các thi thể, công việc nhận dạng người thiệt mạng khá đơn giản và dễ dàng. Việc xác định nguyên nhân tử vong mới chính là thử thách thực sự.

Tấm bạt vải nhăn nhúm lại dưới đế giày của đội HAZMAT trong khi những túi nhựa dẻo màu xanh dương được nhấc bổng lên nhờ hai sọi dây ở hai đầu và chất lên các xe tải đang chờ sẵn với thái độ trang trọng.

Eph nói, "Đáng ra phải có ruồi chứ." Các đèn đặt quanh kho máy bay cho thấy không gian phía trên các xác chết khá thoáng đãng, chỉ có một vài con bướm đêm lười nhác. "Tại sao không có ruồi nhỉ?"

Sau khi ai đó chết, các vi khuẩn trong hệ tiêu hóa, vốn trước đó sống cộng sinh trong vật chủ khỏe mạnh, bắt đầu tự sinh tồn. Đầu tiên chúng ăn ruột, sau đó ăn tới khoang bụng và tàn phá các cơ quan. Ruồi có thể đánh hơi thấy mùi thối rữa của xác chết phân hủy từ cách xa cả dặm.

Hai trăm lẻ sáu bữa ân đã được bày sẵn tại đây. Kho máy bay đáng lẽ phải vo ve đầy ruồi nhặng.

Eph đi sang phía bên kia tấm bạt vải, tới nơi hai nhân viên HAZMAT đang niêm phong một túi xác. "Chờ chút," anh bảo họ. Họ vươn thẳng người lên và lùi lại trong khi Eph quỳ xuống mở khóa kéo, để lộ ra xác chết bên trong.

Đó là cô bé đã chết khi vẫn đang nắm tay mẹ. Eph đã vô thức ghi nhớ vị trí thi thể cô trên sàn. Người ta luôn luôn nhớ đến trẻ con.

Mái tóc vàng của cô bé xõa xưọi, một mặt dây chuyền hình ông mặt tròi mỉm cười xỏ sợi dây màu đen nằm trên hõm cổ. Chiếc váy trắng khiến cô trông như một cô dâu.

Hai nhân viên chuyển sang niêm phong cái túi kế tiếp. Nora bước tới sau Eph, quan sát anh. Bằng hai bàn tay mang găng, anh nhẹ nhàng giữ hai bên đầu cô bé, rồi xoay nhẹ.

Tử thi sẽ hoàn toàn cứng lại khoảng mười hai giờ sau khi chết, rồi duy trì trạng thái đó trong muôi hai đến hai tư giờ - hiện giờ các thi thể đang ở giữa giai đoạn này - cho tới khi các liên kết canxi cố định bên trong các cơ bị đứt lần nữa và cơ thể quay trở lại trạng thái mềm.

"Vẫn mềm," Eph nói. "Không bị Cling."

Anh nắm lấy vai và hông cô bé rồi lật úp cô lại. Anh tháo cúc ở lưng váy, làm lộ ra phần thịt ở thắt lưng và các đốt xương sống nhỏ. Da cô xanh xao và lấm tần tàn nhang.

Sau khi tim ngừng đập, máu sẽ ngập hệ tuần hoàn. Vách mao mạch, chỉ có độ dày bằng một tế bào, sẽ nhanh chóng đầu hàng trước áp lực, bục ra và làm tràn máu vào các mô lân cận. Máu này nằm ở vùng thấp nhất, vùng "phụ thuộc" của cơ thể, và sẽ đông rất nhanh chóng, sắc bầm tím nghe nói sẽ ổn định sau khoảng mười sáu giờ.

Đến lúc này thì đã quá giới hạn thời gian đó.

Khi ngừng thở trong tư thế ngồi, rồi sau đó lại được đặt nằm thẳng, lóp máu dày tràn lẽ ra phải khiến lóp da phần lưng dưới có màu tím đậm.

Eph nhìn dãy túi xác. "Tại sao các thi thể này không phân hủy như lẽ thường chứ?"

Eph nhẹ nhàng đặt cô bé nằm ngửa lại, rồi bằng bàn tay lành nghề của mình, anh mở mắt phải của cô. Giác mạc mờ đục, đúng như phải thế, và màng cứng, lóp trắng đục bảo vệ mắt, khô như lẽ thường. Anh kiểm tra các đầu ngón tay phải của cô bé - bàn tay lúc trước đã lồng trong bàn tay mẹ - và nhận thấy chúng hơi nhăn do mất nước, cũng đúng như lẽ thường.

Anh ngồi xuống, bối rối trước những dấu hiệu lẫn lộn, rồi anh đặt hai ngón cái mang găng vào giữa cặp môi khô của cô bé. Tiếng động nghe như hơi thở bật ra từ cái miệng vừa được tách ra chỉ đon giản là tiếng thoát khí. Bên trong miệng cô bé có vẻ không có gì bất thường, nhưng anh vẫn luồn một ngón tay vào để ấn lưỡi cô bé xuống, kiểm tra độ khô.

Vòm miệng và lưỡi đều trắng bệch, như thể được chạm ngà. Trông giống một chiếc netsuke®. Lưỡi cứng và cương lên một cách kỳ lạ. Eph đẩy cái lưỡi sang một bên, đê’ lộ phần còn lại của miệng, cũng khô tương tự.

1. Netsuke là một loại trang sức nhỏ chạm ngà của Nhật, thường có hình tròn và được móc vào trang phục kimono.

Khô ư? Rồi gì nữa đây? anh nghĩ. “Các thi thể đều kiệt nước - không còn một giọt máu." Nếu không phải câu thoại đó thì là một câu trong một bộ phim truyền hình kinh dị thập niên 1970 của đạo diễn Dan Curtis: “Thưa Trung úy, các xác chết - chúng đều... bị hút kiệt máu!" Tiếng đàn organ vang lên.

Eph bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Anh giữ cái lưỡi cứng giữa ngón cái và ngón trỏ, rồi dùng một đèn pin nhỏ để soi kỹ xuống cổ họng trắng phớ của cô bé. Đối với anh, việc này có gì đó hơi giống với khám phụ khoa. Netsuke khiêu dâm?

Rồi cái lưỡi chuyển động. Anh giật nảy người ra sau, rút ngón tay ra. "Chúa ơi!" Khuôn mặt cô bé vẫn giữ nguyên chiếc mặt nạ tử thần vô hồn, môi vẫn hơi hé mở.

Nora, đứng ngay cạnh anh, nhìn chằm chằm. "Gì vậy?"

Eph chùi ngón tay đeo găng vào quần. "Phản xạ bình thường thôi," anh nói và đứng dậy. Anh nhìn xuống khuôn mặt cô bé một lúc cho tới khi không thể chịu nổi nữa, rồi kéo khóa lên dọc thân túi, khóa cô lại bên trong.

Nora nói, "Đó có thể là gì nhỉ? Một thú bằng cách nào đó làm chậm quá trình phân hủy các mô? Những người này đã chết..."

"Chết đúng nghĩa ngoại trừ quá trình phân hủy." Eph lắc đầu bực bội. "Chúng ta không thể trì hoãn việc vận chuyển. Điều quan trọng là, ta cần đưa những thi thể này đến nhà xác. Mổ phanh ra. Tìm hiểu thứ này từ bên trong."

Anh để ý thấy Nora đang nhìn chằm chằm về hướng cái hòm chạm khắc hoa văn, đang được đặt trên sàn kho máy bay, tách biệt khỏi những đống hành lý chưa dỡ. "Chuyện này không ổn chút nào," cô nói.

Eph nhìn về hướng khác, về phía cái máy bay khổng lồ phía trên. Anh muốn trở lại máy bay. Họ chắc hẳn đã bỏ sót gì đó. Câu trả lời hẳn phải nằm trong đấy.

Nhưng chưa kịp làm thế, anh đã nhìn thấy Jim Kent đang tháp tùng giám đốc CDC bên trong nhà kho. Bác sĩ Everett Barnes đã sáu mươi mốt tuổi, nhưng trông vẫn chả khác gì so với ngày ông bắt đầu sự nghiệp là một bác sĩ miền Nam. Dịch vụ Y tế Công cộng (PHS), mà CDC là một phần trong đó, bắt nguồn từ hải quân, và mặc dù PHS đã tách ra từ lâu, nhiều nhân sự cấp cao của CDC, gồm cả giám đốc Bames, vẫn ưa loại đồng phục quân đội. Vậy nên mới sinh ra một quý ông bình dân, giản dị, để một chỏm râu bạc phớ nhưng lại ăn vận như một thượng tướng về hưu trong bộ đồng phục chiến đấu kaki cùng mề đay trên ngực. Trông hệt như một phiên bản đóng quân phục của Đại tá Sanders[4].

Sau màn chào hỏi và xem xét qua loa một xác chết, giám đốc Barnes hỏi về những người sống sót.

Eph bảo ông, "Không ại trong số họ có bất kỳ ký ức nào về chuyện đã xảy ra. Họ không giúp ích được gì cả."

"Các triệu chứng?"

"Đau đầu, có người rất nặng. Đau cơ, ù tai. Chóng mặt. Khô miệng. Mất thăng bằng."

Giám đốc Bames nói, "Nói chung là cũng chẳng tệ hơn là mấy so với bất cứ ai vừa trải qua một chuyến bay vượt Đại Tây Dương."

"Lạ lắm, Everett à," Eph nói. "Tôi và Nora là hai người đầu tiên lên máy bay. Mấy hành khách này - cả bốn người họ - đều đã chết. Tắt thở. Quá bốn phút không có ôxy là não sẽ bị tổn thương vĩnh viễn. Những người này, họ có lẽ đã thiếu ôxy trong hơn một giờ."

"Rõ là không thể vậy rồi," giám đốc nói. "Và họ không thể nói cho anh biết bất cứ điều gì ư?”

"Họ còn hỏi tôi nhiều hơn tôi hỏi họ."

"Có bất cứ tương đồng nào giữa bốn người này không?"

"Tôi đang tìm hiểu đây. Tôi định nhờ ồng giúp giữ họ lại cho tới khi công việc của ta hoàn tất."

"Giúp ư?"

"Ta cần bốn bệnh nhân này họp tác."

"Ta có sự họp tác của họ đấy chứ."

"Lúc này thôi. Chỉ là... chúng ta không thể liều được."

Giám đốc vừa nói vừa chải bộ râu bạc của ông. "Tôi chắc rằng, chỉ cần khôn khéo một chút trong cách ứng xử với bệnh nhân, ta có thể khoi dậy lòng cảm kích của họ vì đã thoát khỏi số phận bi thảm này và khiến họ họp tác." Ông mỉm cười, để lộ hàm răng trên bọc sứ.

"Hay là áp dụng Đạo luật Quyền Y tế[5]..."

"Ephraim, anh biết việc cách ly một vài hành khách tự nguyện điều trị phòng bệnh khác xa với việc giam giữ họ trong thời gian cách ly mà. Ta có những vấn đề lớn hơn - thực lòng mà nói là những vấn đề truyền thông - cần giải quyết."

"Everett, tôi buộc lòng phải phản đối..."

Bàn tay nhỏ của ông giám đốc nhẹ nhàng hạ xuống vai Eph. Ông nói với giọng lè nhè hơi cuông điệu, có lẽ nhằm xoa dịu tình hình. "Để tôi tiết kiệm chút thời gian cho cả hai ta nhé, Ephraim. Nhìn nhận một cách khách quan mà nói, sự cố bi thảm này, may mắn thay - hay người ta có thể nói là, thần kỳ thay - đã được chặn lại. Ta không có ca tử vong hay nhiễm bệnh nào khác trên bất kỳ chuyên bay hay sân bay nào khác trên toàn cầu, trong vòng xấp xỉ mười tám giờ kể từ khi cái máy bay kia hạ cánh. Đó là những điểm tích cực, và ta phải nhấn mạnh vào đó. Hãy gửi thông điệp tới toàn thể công chúng, củng cố niềm tin của họ vào hệ thống hàng không của ta. Tôi tin chắc, Ephraim ạ, chỉ cần giành được cảm tình của nhũng người may mắn sống sót này, kêu gọi ý thức và trách nhiệm của họ, thế là đã đủ để buộc họ họp tác." Giám đốc bỏ tay ra, mủn cười với Eph nhu thể một quân nhân đang vỗ về cậu con trai theo chủ nghĩa hòa bình của mình. "Thêm nữa," Bames tiếp tục, "vụ này có đầy đủ dấu hiệu của một vụ rò khí ga chết tiệt, phải không? Rất nhiều nạn nhân chết đột ngột? Không gian kín? Và nhũng người sống sót đã bình phục sau khi đuọc đua ra khỏi máy bay?"

Nora nói, "Ngoại trừ việc hệ thống thông khí ngừng hoạt động khi mất điện, ngay sau khi hạ cánh."

Giám đốc Bames gật đầu, khoanh tay suy nghĩ về điều đó. "Ùm, còn rất nhiều điều phải xem xét, dĩ nhiên. Nhưng, xem này, đây quả là một đợt huấn luyện cực tốt cho nhóm của anh. Anh đã xử lý rất tốt. Và giờ đây mọi thứ có vẻ như đã trong tầm kiểm soát, cú chờ mà xem anh giải quyết triệt để vụ này. Ngay khi cuộc họp báo chết tiệt này xong xuôi."

Eph nói, "Khoan đã. Gì cơ?"

"Thị trưởng và thống đốc đang chuẩn bị tổ chức họp báo, cùng các đại diện bên hãng hàng không, nhân viên Quản lý Cảng, vân vân. Tôi và anh sẽ đại diện cho lực lưọng phản ứng y tế liên bang."

"Ôi, không. Thưa ông, tôi không có thời gian. Jim có thể làm việc đó..."

"Jim có thểỉầm việc này, nhưng hôm nay sẽ là anh, Ephraim. Như tôi đã nói, đã đến lúc anh trở thành người tiên phong. Anh là người đứng đầu dự án Canary, và tôi muốn có một người từng tiếp xúc trực tiếp với các nạn nhân. Ta cần một gương mặt đại diện cho những nỗ lực của chúng ta."

Bởi vậy mới có màn cao giọng về việc tránh giam giữ hay cách ly kiểm dịch. Bames đang choi trò bè phái. "Nhưng tôi thực sự vẫn chưa biết được điều gì," Eph nói. "Sao phải sớm như vậy?"

Giám đốc Bames mủn cười, lại khoe bộ răng sứ. "Nguyên tắc của bác sĩ là 'Trên hết - không làm tổn thương'. Nguyên tắc của chính trị gia là 'Trên hết - lên sóng truyền hình'. Thêm vào đó, theo tôi hiểu còn dính đến cả yếu tố thời gian nữa. Kiểu như muốn lên sóng trước sự kiện nhật thực chết tiệt kia. Các vết đen mặt tròi ảnh hưởng tới sóng vô tuyến hay gì gì đó."

"Nhật thực..." Eph đã quên béng vụ này. Hiện tượng nhật thực toàn phần hiếm có sẽ xảy ra vào khoảng ba giờ ba mươi ngay chiều hôm đó. Lần đầu tiên có một sự kiện nhật thực như thế ở khu vực New York trong hơn bốn trăm năm qua, kể từ khi khai phá lục địa Mỹ. "Chúa ơi, tôi quên mất."

"Thông điệp của chúng ta gửi tới toàn bộ người dân cả nước sẽ đon giản thôi. Ở đây đã có thiệt hại nhân mạng đáng kể, và đang được CDC điều tra toàn diện. Đây là một thảm họa về người, nhưng sự cố đã được kiểm soát, và có vẻ như đây là trường họp duy nhất, đồng thời chắc chắn không có gì cần phải lo lắng thêm."

Eph giấu vẻ giận dữ không để viên giám đốc nhìn thấy. Anh đang bị ép phải đứng trước máy quay để nói rằng mọi thứ đều rất ổn. Anh rời khỏi khu vực cách ly, lách qua khe hở hẹp giữa hai cánh cổng lớn của kho máy bay, bước ra vùng ánh sáng ban ngày ảm đạm. Anh vẫn đang cố hình dung ra một cách nào đó thoát ra khỏi vụ này thì chiếc điện thoại trong túi quần rung lên phía trên bắp đùi anh. Anh rút điện thoại ra, một biểu tượng phong bì đang chậm rãi xoay tròn trên màn hình LCD. Một tin nhắn từ di động của Matt. Eph ấn mở:

Yanks 4 Sux 2. ghe dep, uoc j bo o day, z.

Eph đứng nhìn chằm chằm tin nhắn từ cậu con trai cho tới khi mắt nhòa đi. Anh bị bỏ lại một mình nhìn không chóp mắt xuống cái bóng của chính mình đang in trên cái thềm đế máy bay, không biết có phải là ảo giác của anh không, đã bắt đầu biến mất.

Chú Thích

[I] “Khu vực số 0” là tên gọi của tòa tháp đôi New York sau vụ khùng bố ngày 11 tháng Chín năm 2001.

[II] Một loại thuốc giảm đau cực mạnh.

[III] Một tổ chức tình nguyện của phụ nữ.

[4] Người sáng lập chuỗi nhà hàng KFC.

[5] Health Powers Act: đạo luật này cho phép các cơ quan lập pháp có quyền sửa đổi luật y tế công cộng để giúp kiểm soát bệnh dịch và phòng chống khủng bố sinh học.