← Quay lại trang sách

Hành động Khoang phổ Thông

Người sống sót của chuyến bay 753 Ansel Barbour ôm ấp vợ, Ann-Marie, và hai đứa con, Benjy tám tuổi và Haily năm tuổi, trên chiếc ghế sofa vải hoa xanh dương trong phòng kính của căn nhà ba phòng ngủ của họ ở Flatbush, New York. Thậm chí cả Pap và Gertie cũng tham gia, hai chú chó giống Saint Bernard lớn ấy cũng được phép vào nhà trong dịp đặc biệt này, vô cùng hạnh phúc khi thấy anh trở về, mấy bàn chân lớn như chân người của chúng đè lên đầu gối anh và cảm kích vỗ lên ngực anh.

Ansel đã ngồi ghế 39G gần lối đi, hạng phổ thông, trở về từ một chương trình tập huấn bảo mật dữ liệu do công ty chi trả tại Potsdam, Tây Nam Berlin. Anh là lập trình viên máy tính làm việc họp đồng bốn tháng với một nhà bán lẻ có trụ sở tại New Jersey, theo dõi những vụ trộm cắp điện tử đã lấy đi hàng triệu số tài khoản tín dụng của khách hàng. Trước giờ anh chưa từng ra nước ngoài, và anh nhớ gia đình mình da diết. Trong bốn ngày hội nghị, vẫn có thời gian nghỉ và các tour tham quan, nhưng Ansel chẳng bao giờ bén mảng ra khỏi khách sạn mà thích ở trong phòng với máy tính xách tay, nói chuyện với lũ trẻ qua webcam và đánh bạc trên mạng với những người lạ.

Vợ anh, Ann-Marie, là một phụ nữ nhát gan mê tín, và kết cục bi thảm của chuyến bay 753 chỉ càng củng cố nỗi sợ hãi thường trực của cô đối với du lịch hàng không và những trải nghiệm mới nói chung. Cô không lái xe hoi. Cô sống trong ràng buộc của hàng tá thủ tục ám ảnh-cưỡng chế quá mức, bao gồm sờ mó và liên tục lau sạch mọi tấm gương trong nhà, theo cô là để phòng tránh xui xẻo. Cha mẹ cô mất trong một tai nạn xe hơi khi cô bốn tuổi - cô sống sót sau vụ tai nạn đó - và cô được nuôi dạy bởi một bà cô không chồng, bà này qua đòi chỉ một tuần trước đám cưới của Ann-Marie và Ansei. Sau khi sinh con, sự cô lập của Ann-Marie càrig trầm trọng, những nỗi sợ bị phóng đại, tới mức có khi hàng mấy ngày liền cô chẳng chịu rời khỏi căn nhà an toàn của mình, hoàn toàn dựa dẫm vào Ansel trong bất cứ công việc gì liên quan tới giao dịch với thế giới bên ngoài.

Tin tức về cái máy bay hỏng đã khiến cô suy sụp hoàn toàn. Việc Ansel sống sót sau đó đã giúp cồ hồi sinh với sức mạnh của một niềm hạnh phúc mà cô chỉ có thể định nghĩa bằng những thuật ngữ tôn giáo, một sự hồi phục đã củng cố và thần thánh hóa sự thiết yếu của những thủ tục thừa thãi đang giúp duy trì sự sống của cô.

Về phần Ansel, anh cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm khi được trở về nhà. Cả Ben lẫn Haily đều cố nằm đè lên anh, nhưng anh phải ngăn chứng lại do con đau ở cổ vẫn chưa dứt. Sự căng cơ - các cơ của anh như nhũng sợi thừng xoắn chặt - tập trung ở vùng họng, nhưng lan qua cả khóp hàm tới tận tai. Khi bị xoắn, dây thừng sẽ ngắn lại, và các cơ của anh cũng có cảm giác y hệt. Anh duỗi cổ, hy vọng động tác nắn khớp...

RẮC... KHựC... BỐP..

hóa ra làm anh gần như gập làm đôi. Nỗ lực này chỉ khiến anh đau hon.

Lát sau, Ann-Marie bất ngờ bước vào bếp đúng lúc anh đang đặt lọ thuốc giảm đau Ibuprofen cỡ lớn của cô trở lại ngăn tủ cao phía trên lò nướng. Anh dùng liền một lúc sáu viên, liều lượng chỉ định hằng ngày - mà cơn đau gần như chẳng giảm chút nào.

Anh mắt sợ hãi của cô không còn chút dấu vết vui vẻ nào. "Chuyện gì vậy?"

"Không có gì đâu," anh nói, mặc dù đang thấy vô cùng khó chịu khi phải lắc đầu. Nhung tốt nhất là tránh gây lo lắng cho cô. "Chỉ là cứng cơ sau chuyến bay thôi. Có thể tại cách anh ngả đầu đấy."

Cô vẫn đứng ngay lối vào, kéo kéo ngón tay. "Có lẽ anh không nên xuất viện."

"Vậy thì làm sao em có thể yên tâm được?" anh đáp trả, tỏ ra cộc lốc với cô hơn dự tính.

RẮC, KHỤC VÀ BỐP...

"Nhưng lỡ như... lỡ như anh buộc phải quay lại? Lỡ như, lần này, họ muốn anh ở lại?"

Thật mệt mỏi khi phải dùng chính nỗi sợ của bản thân để rũ bỏ nỗi lo sợ cho cô. "Anh không thể lỡ thêm bất cứ công việc nào nữa. Em cũng biết tình hình tài chính của ta đang bấp bênh mà."

Họ là gia đình một nguồn thu nhập trong cái nước Mỹ toàn những gia đình hai nguồn thu nhập. Mà Ansel thì chẳng thể đảm đương công việc thứ hai, bải như vậy thì ai sẽ đi chợ?

Cô nói, "Anh biết đấy, em... em chẳng thể xoay xở được nếu thiếu anh." Bọn họ chưa từng thảo luận về căn bệnh của cô. Hay ít ra là, chưa từng nói về nó như một căn bệnh. "Em cần anh. Chúng em cần anh."

Anh gục đầu mà như thể cúi chào, khom cả eo thay vì chỉ uốn cổ xuống. "Chúa ơi, cứ nghĩ về tất cả những con người ấy là anh lại chẳng bình tâm được." Anh mường tượng lại những người ngồi gần anh trên chuyến bay dài. Gia đình có ba đứa con lớn ngồi hai hàng phía trước anh. Cặp vợ chồng lớn tuổi ngồi sát lối đi, gần như ngủ suốt, hai mái đầu bạc cùng chia sẻ một chiếc gối du lịch. Tiếp viên hàng không tóc nhuộm vàng làm rớt soda lên đùi anh. "Tại sao lại là anh, em biết đấy? Có lý do gì khiến anh sống sót?"

"Có một lý do đấy," cô nói, áp hai tay lên ngực. "Em."

Một lúc sau, Ansel đưa lũ chó về chuồng ở sân sau. Cái sân là lý do chính khiến họ mua căn nhà này: có rất nhiều chỗ choi cho bọn trẻ và lũ chó. Ansel đã nuôi Pap và Gertie trước cả khi anh gặp Ann-Marie, và tình yêu cô dành cho bọn chứng ít nhiều cũng ngang với tình yêu cô dành cho anh. Bọn chúng cũng yêu cô, vô điểu kiện. Ansel cũng vậy, và lũ trẻ cũng thế - mặc dù Benjy, đứa lớn hon, thỉnh thoảng đã bắt đầu thắc mắc về sự lập dị của cô. Đặc biệt là khi sự lập dị ấy xung đột với lịch tập và choi bóng chày của một thằng bé tám tuổi. Ansel có thể cảm nhận được Ann-Marie đã trở nên hơi xa cách thằng bé. Nhưng Pap và Gertie sẽ chẳng bao giờ chống đối cô, miễn là cô cho chúng ăn đến nứt cả bụng. Anh chỉ lo khi lũ trẻ lớn lên, sợ rằng chằng mấy mà chúng sẽ trưởng thành hơn mẹ mình, và sẽ chẳng bao giờ thực sự hiểu được tại sao cô có vẻ yêu lũ chó hơn chúng.

Bên trong chuồng chó cũ ngoài vườn, một cọc rào bằng kim loại gắn hai sợi xích được đóng vào những tấm ván sàn trung tâm. Đầu năm nay, Gertie đã bỏ đi và rồi quay về với chi chít vết gậy ở lưng và chân, hẳn đã bị ai đó dùng gậy đánh. Vì thế giờ cứ đến buổi tối, họ lại xích lũ chó lại để chúng được an toàn. Ansel - vẫn giữ thẳng cổ và đầu để giảm con đau - từ từ đặt thức ăn và nước uống cho chúng, rồi vuốt túm lông trên cái đầu khổng lồ của chúng trong lúc chúng ăn, cốt để cảm nhận rằng chúng có thật, cảm kích sự hiện diện của chúng vào cuối cái ngày may mắn này. Anh ra ngoài và đóng cửa chuồng sau khi đã xích chúng vào cọc, rồi đứng nhìn căn nhà của mình từ phía sau, cố tưởng tượng thế giới này nếu không có anh. Hôm nay Ansel đã thấy lũ trẻ khóc, và anh đã khóc cùng chúng. Gia đình anh cần anh hơn bất cứ điều gì.

Một cơn đau bất chợt nhói lên ở cổ khiến anh run rẩy. Anh bám lấy góc chuồng chó để khỏi ngã, và đứng sững như vậy một lúc, gập người nghiêng sang một bên, rùng mình chịu đựng cơn đau nhói như dao cắt này. Cuối cùng nó cũng qua, chỉ còn lại âm thanh ù ù như tiếng vỏ ốc ở một bên tai. Anh khẽ rờ ngón tay lên cổ, rón rén như đang chạm vào món đồ dễ vỡ. Anh cố rướn cổ, để cải thiện sự linh hoạt, ngửa đầu ra sau hết mức có thể, hướng mặt lên bầu trời đêm. Trên đó là ánh đèn máy bay, là ánh sao.

Mình đã sống sót, anh nghĩ. Chuyện tệ hại nhất âã chấm dứt. Cơn đau này chẳng mấy chốc cũng sẽ qua.

Đêm đó anh có một giấc mơ hãi hùng. Mấy đứa con anh bị rượt đuổi quanh nhà bởi một con quái vật dữ tợn, nhưng khi Ansel chạy tới để cứu chúng, anh nhận ra bàn tay mình là những móng vuốt quỷ. Anh choàng tỉnh, nửa giường chỗ anh nằm ướt đẫm mồ hôi, và anh vội trèo ra khỏi giường, nhưng rồi lại bị một con đau nữa giày vò.

RẤC

Tai, hàm và cổ họng anh cùng lúc hứng chịu một con đau tột độ, khiến anh đến nuốt nước bọt cũng không nổi.

KHựC

Con đau do co rút thực quản làm cho anh gần như tê liệt.

Rồi đến con khát. Con khát anh chưa từng cảm thấy - một nỗi thôi thúc không ngừng.

Khi có thể di chuyển trở lại, anh băng qua hành lang vào căn bếp tối. Anh mở tủ lạnh, rót cho mình một ly nước chanh lớn, một ly nữa, rồi lại một ly nữa... và chẳng mấy chốc anh uống thẳng từ bình. Nhưng chẳng cách nào dập tắt được con khát. Tại sao anh lại đổ mồ hôi nhiều như vậy?

Nhũng vết bẩn trên áo ngủ của anh bốc mùi nồng nặc - thoảng mùi xạ - còn mồ hôi thì có màu hổ phách. Ở đây nóng quá...

Khi đặt trả bình nước vào tủ lạnh, anh nhòm thấy một đĩa thịt ướp. Anh nhìn những vệt máu ngoằn ngoèo trộn lẫn dầu và giấm, và miệng tứa nước bọt. Không phải vì nghĩ đến cảnh nướng miếng thịt, mà vì muốn cắn nó - hoặc bập răng vào nó, xé nó, hút kiệt nó. Vì muốn uống máu.

BỐP

Anh thơ thẩn ngoài hành lang chính rồi ngó nhìn lũ trẻ. Benjy đang cuộn tròn bên dưới tấm khăn trải giường Scooby- Doo; Haily thì đang ngáy khẽ, cánh tay buông thõng một bên nệm, với về phía những cuốn sách tranh đã roi bên dưới. Nhờ ngắm nhìn lũ trẻ, anh có thể thả lỏng vai và thở đều một chút. Anh bước ra sân sau cho hạ nhiệt, khí lạnh ban đêm thổi khô mồ hôi trên da anh. Được ở nhà, được ở bên gia đình, anh cảm thấy điều đó có thể giúp anh chữa lành mọi thứ. Họ sẽ giúp anh.

Họ sẽ lo cho anh.

Cơ quan pháp y, Manhattan

KHÔNG HỀ CÓ MÁU trên áo vị bác sĩ pháp y gặp Eph và Nora. Riêng điều đó thôi cũng đã thật lạ. Thường thì máu sẽ chảy trên chiếc áo chống thấm của họ và vấy bẩn tới tận khuỷu tay áo ni lông của họ. Nhưng hôm nay thì không. Vị bác sĩ pháp y này có khi cũng là một bác sĩ phụ khoa ở Beverly Hills không biết chừng.

Anh ta tự giới thiệu là Gossett Bennett, một người đàn ông da nâu mắt nâu sẫm, một khuôn mặt quả quyết đằng sau tấm mặt nạ bằng nhựa. "Chứng tối chỉ vừa mới bắt đầu ở đây," anh ta nói, phẩy tay về phía dãy bàn. Phòng khám nghiệm tử thi là nơi ồn ào. Trong khi phòng mổ vô trùng và yên tĩnh thì nhà xác lại hoàn toàn trái ngược: một không gian ồn ào ngập tiếng cưa rền rĩ, tiếng nước chảy và tiếng trò chuyện của các bác sĩ. "Chúng tôi có tám tử thi từ cái máy bay của các anh."

Các thi thể nằm trên tám bàn thép không gỉ lạnh tanh. Những nạn nhân tử vong trên chuyến bay đang ở trong các giai đoạn mổ xẻ khác nhau, hai trong số đó đã "lên xuồng" xong xuôi: nghĩa là, ngực họ đã bị moi hết nội tạng, các cơ quan bị loại bỏ được đặt trên một túi nhựa mở toang nằm trên cẳng chân họ, một bác sĩ nghiên cứu bệnh học đang cắt các mẫu vật trên một cái thớt, trông như một kẻ ăn thịt người đang sửa soạn một đĩa sashimi thịt người. Phần cổ bị thương đã được giải phẫu, lưỡi được kéo ra, và da mặt được gấp xuống một nửa, trông như những chiếc mặt nạ cao su, để lộ chỏm sọ đã bị phanh ra bằng cưa đĩa. Một bộ não đang trong quá trình được gỡ ra khỏi các tủy sống, để sau đó đặt vào trong dung dịch formol cho rắn lại, cũng là bước cuối cùng trong quá trình mổ xác. Một nhân viên nhà xác đang đứng bên cạnh, cầm bông nỉ và một chiếc kim cong lớn đã xỏ chỉ tẩm sáp để nhồi hộp sọ rỗng.

Một cái kéo cắt cành có tay cầm dài mua ở cửa hàng cơ khí được chuyển từ bàn này sang bàn khác, tại đó một trợ lý khác đứng trên cái ghế để chân bằng kim loại kê phía trên thi thể đã rạch ngực và bắt đầu cắt từng xương sườn một, như thế mới có thể nhấc toàn bộ lồng ngực và xương ức lên. Một mùi hỗn tạp của phô mai Parmesan lẫn với metan và trứng thối bốc lên.

"Sau khi anh gọi, tôi đã bắt đầu kiểm tra cổ họ," Bennett nói. "Cho đến nay các thi thể đều cho thấy cùng một vết rạch mà anh đã nhắc tói. Nhưng không có sẹo. Một vết thương hở, chuẩn xác và gọn ghẽ nhất tôi từng thấy."

Anh ta cho họ xem thi thể một phụ nữ chưa mổ đang nằm trên bàn. Một khối kim loại mười lăm phân đặt dưới cổ cô khiến đầu cô ngửa về sau, ngực ưỡn lên, cổ căng ra. Eph rờ ngón tay mang găng lên vùng da phía trên cổ họng người phụ nữ.

Anh sờ thấy đường kẻ mờ - mỏng như một vết cứa bằng cạnh giấy - và khẽ tách vết thương ra. Anh vô cùng ngạc nhiên trước độ gọn ghẽ cũng như độ sâu rõ rệt của nó. Eph thả tay ra và vết cứa từ từ đóng lại, như đôi hàng mi ngái ngủ hay một nụ cười bẽn lẽn.

"Thứ gì có thể gây nên vết thương này nhỉ?" anh hỏi.

"Như tôi thấy thì không phải thứ gì trong tự nhiên," Bennett nói. "Hãy để ý tới độ chính xác như dao mổ. Gần như được định chuẩn, cả về vị trí và độ dài. Tuy nhiên, các cạnh vát tròn, có thể nói dường như có nguồn gốc hữu cơ."

"Sâu bao nhiêu?" Nora hỏi.

"Một vết rạch gọn, thẳng, đâm thủng vách động mạch cảnh chủ, nhưng chỉ dừng ở đó. Không đâm qua bên kia, không làm vỡ động mạch."

"Mọi trường họp đều vậy à?" Nora há hốc.

"Mọi trường họp tôi đã xem qua cho đến giờ. Mọi thi thể đều có vết rạch đó, mặc dù phải thừa nhận là nếu anh không báo trước thì chắc tôi đã không phát hiện ra. Nhất là khi còn có những thứ khác xảy ra với các thi thể này."

"Gì nữa?"

"Chúng ta sẽ nói đến việc đó ngay thôi. Các vết cứa đều nằm trên cổ, hoặc phía trước hoặc phía bên. Ngoại trừ một phụ nữ bị trên ngực, phía trên tim. Và một người đàn ông chúng tôi phải tìm mãi mới phát hiện ra vết cứa ở phía trên bắp đùi trong, trên động mạch đùi. Mọi vết thương đều đâm qua da và cơ, rồi kết thúc chính xác bên trong một động mạch chủ."

"Một mũi kim ư?" Eph đoán.

"Nhưng mảnh hơn thế. Tôi... tôi cần nghiên cứu thêm, ta mới chỉ đang trong giai đoạn khỏi đầu. Và vẫn còn rất nhiều thứ chết tiệt khác. Tôi nghĩ hai người đã biết điều này rồi chứ?" Bennett dẫn họ tới cánh cửa của một nhà lạnh. Không gian bên trong rộng hơn cả một cái gara hai xe. Có khoảng năm chục băng ca, hầu hết đều đặt một túi xác được mở xuống tới ngực người chết. Một số ít được mở khóa kéo hết cỡ, những thi thể này đều trần truồng - đều đã được cân, đo đạc, chụp ảnh - và sẵn sàng lên bàn mổ. Cũng có khoảng tám xác chết không liên quan tới chuyến bay 753 đang nằm trên những băng ca tron không có túi xác, đeo thẻ chân loại tiêu chuẩn màu vàng.

Việc ướp lạnh đã làm chậm quá trình phân hủy, y như trong bảo quản hoa quả, rau củ và đế giữ cho thịt nguội khỏi hỏng. Nhưng, những thi thể từ trên máy bay này không hề bị ươn. Đã ba mươi sáu tiếng đồng hồ, vậy mà những thi thể này trông chẳng khác gì vừa mới chết, gần như giống y lúc Eph đặt chân lên máy bay lần đầu tiên. Trái ngược hẳn với những xác chết đeo thẻ vàng đang trương phình, bốc mùi thối từ mọi chỗ hở trên cơ thể, thịt chuyển thành màu xanh lục thẫm và trông như da thuộc do quá trình bay hoi.

"Đây quả là những xác chết đẹp đẽ," Bennett nói.

Eph cảm thấy một cơn rùng mình chẳng hề liên quan đến nhiệt độ trong phòng lạnh. Cả anh và Nora cùng tiến vào, qua ba hàng dài. Các thi thể - không có vẻ khỏe mạnh, bởi chúng đều teo tóp và xanh xao do thiếu máu - nhưng trông như mới chết. Họ mang vẻ mặt đặc trưng của người chết, nhưng như thể chỉ vừa mới qua đòi, chưa đầy ba mươi phút trước.

Họ theo Bennett quay về phòng khám nghiệm tử thi, trở lại với xác chết của người phụ nữ - một phụ nữ trạc bốn mươi tuổi, không có bất cứ dấu vết đặc biệt nào ngoài một vết sẹo mổ đẻ hắn đã từ chục năm trước phía dưới thắt lưng - đang chuẩn bị được mố. Nhưng thay vì dùng dao mố, Bennett với lấy một dụng cụ chưa từng được sử dựng trong nhà xác. ông nghe.

"Lúc trước tôi đã đế ý thấy chuyện này rồi," anh ta nói, đưa ống nghe cho Eph. Eph đeo tai nghe, và Bennett gọi mọi người trong phòng dừng hết mọi việc, giữ im lặng. Người trợ lý bệnh học vội tắt vòi nước máy.

Bennett đặt đầu nghe của ống nghe vào ngực xác chết, ngay dưới vùng xương ức. Eph hồi hộp lắng nghe, lo sợ những gì anh có thể nghe thấy. Nhưng anh chắng nghe thấy gì. Anh lại nhìn sang Bennett, nhưng anh ta vẫn không bộc lộ cảm xúc gì, chỉ chờ đợi. Eph nhắm mắt và tập trung.

Yếu. Rất yếu. Một âm thanh trườn bò, gần giống một thứ gì đó đang len lỏi trong bùn. Một âm thanh chậm chạp, nhỏ đến phát điên, tới mức anh không chắc liệu có phải mình đang tưởng tưọng ra không.

Anh đưa ống nghe cho Nora đế cô nghe thử.

"Dòi ư?" cô nói, đứng thẳng dậy.

Bennett lắc đầu. "Thực ra không hề có chuyện nhiễm ký sinh, một phần bằng chứng là xác không phân hủy. Nhưng còn vài điều bất thường thú vị khác nữa..."

Bennett vẫy tay ra hiệu cho những người khác quay trở lại cồng việc, rồi lựa từ chiếc khay bên cạnh một lưỡi dao mổ số 6 lớn. Nhưng thay vì bắt đầu từ ngực bằng một đường rạch hình chữ Y như thường lệ, anh ta lấy một cái lọ miệng rộng từ bàn tráng men và đặt nó bên dưới bàn tay trái của xác chết. Anh ta rọc nhanh lưỡi dao mổ dọc theo mặt dưới cổ tay, xẻ nó ra như thể gọt vỏ cam.

Ban đầu, một chất lỏng trắng đục, nhọt màu phun ra, bắn một ít vào găng tay và hông của anh ta sau vết cắt đầu tiên, rồi nó chảy ra đều đều từ cánh tay, nhỏ xuống đáy lọ. Thứ chất lỏng này chảy nhanh, nhưng rồi, do thiếu áp lực lưu thông từ quả tim đã ngừng đập, nó bắt đầu chảy yếu dần sau khi được khoảng 90 mi li lít. Bennett hạ thấp cánh tay thi thể để lấy thêm.

Sự sửng sốt của Eph trước nhát cắt lạnh lùng kia nhanh chóng bị thay thế bởi nỗi kinh ngạc khi nhìn thấy thứ chất lỏng đang chảy. Thứ này không thể là máu. Máu sẽ đông lại sau khi chết. Nó không chảy ra như dầu máy như vậy.

Và nó cũng không chuyển thành màu trắng. Bennett đặt cánh tay trở lại bên sườn xác chết và giơ lọ lên cho Eph xem.

Thưa trung úy, các xác chết, chúng...

"Thoạt đầu tôi nghĩ có lẽ protein đang phân tách, như kiểu dầu nổi trên nước vậy," Bennett nói. "Nhung cũng không phải."

Thứ dung dịch này có màu trắng sền sệt, gần như thể sữa chua lẫn trong máu.

Thưa trung úy... ôi, Chúa cá...

Eph không tin nổi những gì anh đang thấy.

Nora nói, "Tất cả bọn họ đều như thế này ư?"

Bennett gật đầu. "Bị hút sạch máu. Họ không có máu."

Eph quan sát thứ vật chất trắng trong lọ, và sở thích uống sữa tươi nguyên chất khiến anh thấy buồn nôn.

Bennett nói, "Tôi còn vài thứ khác nữa. Thân nhiệt trung tâm tăng. Không biết vì lý do gì, những thi thể này vẫn còn sinh nhiệt. Ngoài ra, chúng tôi cũng đã phát hiện những đốm đen trên một số cơ quan. Không phải do hoại tử, mà gần giống như... thâm tím."

Bennett đặt lọ dung dịch trắng đục trở lại bàn và gọi một trợ lý bệnh học. Cô ta mang theo một cốc nhựa giống loại chứa xúp cho khách mua mang về. Cô ta bóc nắp và Bennett thò tay vào, rút ra một bộ phận cơ thể, đặt nó lên thót như thể đặt một miếng thịt nướng nhỏ, tươi như vừa mua từ lò mổ. Đó là một quả tim người chưa mổ xẻ. Anh ta chỉ một ngón tay đeo găng vào vị trí nối quả tim với động mạch. "Thấy những van này chứ? Như thể chúng đã hở toác ra. Này nhé, chúng không thể hoạt động như vậy khi còn sống. Không đóng, mở và bơm máu. Vì thế thứ này không thể là bẩm sinh được."

Eph kinh ngạc. Sự dị thường này là một khiếm khuyết chí tử. Như mọi bác sĩ giải phẫu đều biết, sự khác biệt bên trong cơ thể con người cũng nhiều như sự khác biệt ở vẻ ngoài. Nhưng không thể hình dung nổi một người nào có thể sống sót tới độ tuổi trưởng thành với quả tim như thế này.

Nora hỏi, "Anh có bệnh án của bệnh nhân này không? Bất cứ gì ta có thể đối chiếu với thứ này?"

"Chưa có gì. Có lẽ phải tới sáng mai. Nhưng chuyện này làm tôi bị chậm tiến độ. Rất chậm. Tôi định dừng công việc lại, đóng cửa buổi đêm để có thể có thêm người hỗ trợ tại đây ngày mai. Tôi muốn kiểm tra từng chút một. Ví dụ như... thứ này."

Bennett đưa họ tới một thi thể đã giải phẫu hoàn toàn, của một người đàn ông trưỏng thành có cân nặng trung bình, cổ anh ta đã được mổ tới họng, để lộ thanh quản và khí quản, sao cho nếp thanh âm, hay dây thanh âm, có thể được nhìn thấy rõ trên thanh quản.

Bennett nói, "Thấy nếp tiền đình chứ?"

Chúng còn được gọi là "nếp thanh âm giả": những màng nhầy dày chỉ có một chức năng duy nhất là nằm trên để bảo vệ nếp thanh âm thật. Chúng quả thực là một thứ dị thường về mặt giải phẫu bởi chúng có thể tự tái tạo hoàn toàn, ngay cả sau khi mổ tách ròi.

Eph và Nora cúi gần hon. Cả hai đều thấy được sự phát triển nhanh bất thường của nếp tiền đình, một cục lồi lên màu hồng nhạt, đầy thịt - không vô tổ chức hay dị dạng như một khối u, mà nó chĩa ra từ bên trong cuống họng, phần dưới lưỡi. Một dạng phát triển lạ thường, có vẻ tự phát của phần mềm hàm dưới.

***

Họ kỳ cọ, làm sạch ở bên ngoài, kỹ lưỡng hơn mọi khi. Cả hai đều hết sức choáng váng bởi những gì đã thấy bên trong nhà xác.

Eph nói trước tiên. "Anh đang tự hỏi khi nào thì mọi thứ mới bắt đầu trở nên có thể hiểu được." Anh sấy khô cong hai bàn tay, cảm nhận luồng không khí táp vào hai bàn tay trần của mình. Sau đó anh sờ lên cổ, phía trên họng, ước chừng vị trí vết rạch. "Một vết thương do bị đâm, thẳng và sâu trên cổ. Và một loại vi rút, một mặt làm chậm quá trình phân hủy, mặt khác lại kích thích mô phát triển tự phát sau khi chết?"

Nora nói, "Đây là một thứ gì đó mới."

"Hoặc... một thứ gì đó rất, rất cũ."

***

Họ bước ra từ cửa chuyển hàng, tiến về phía chiếc Explorer đang đậu sai luật của Eph, tấm biển VẬN CHUYỂN MÁU KHẤN CÂP để trên bảng điều khiển. Những tia nắng ấm cuối cùng của ngày đang tắt dần trên bầu trời. Nora nói, "Ta cần kiểm tra các nhà xác khác, xem liệu họ có phát hiện những bất thường tương tự không."

Tiếng chuông báo vang lên từ điện thoại di động của Eph. Một tin nhắn từ Zack:

bố ở đâu???? z

"Chết tiệt," Eph nói. "Anh quên béng mất... buổi phân xử quyền nuôi con..."

"Ngay bây giờ ư?" Nora buột miệng, trước khi kịp kìm lại.

"Được rồi. Anh đi đi. Em sẽ gặp lại anh sau khi..."

"Không, anh sẽ gọi cho họ... sẽ ổn thôi." Anh nhìn quanh, cảm giác như bị chia làm hai nửa. "Ta cần kiểm tra viên phi công một lần nữa. Tại sao vết rạch của anh ta lại khép miệng, còn những người khác thì không? Ta cần nắm rõ sinh lý bệnh học của thứ này."

"Và những người sống sót khác nữa."

Eph cau mày, nhớ ra họ đã đi mất. "Sai sót như vậy thật không giống Jim chút nào."

Nora muốn bảo vệ Jim. "Nếu phát bệnh, họ sẽ trở lại thôi." "Chỉ có điều... có lẽ sẽ quá muộn. Cho họ, và cho chúng ta."

"Cho chúng ta ư, ý anh là sao?"

"Để tìm hiểu nguyên nhân thực sự của chuyện này. Phải có một câu trả lời ở đâu đó, một lời giải thích. Một cơ sở họp lý. Một chuyện phi lý nào đó đang diễn ra, ta cần tìm hiểu nguyên nhân và ngăn chặn nó."

Trên vỉa hè tại cổng chính ở phố 1, đoàn phóng viên đã chờ sẵn để lên sóng trực tiếp từ cơ quan pháp y. Sự việc này thu hút một đám đông khán giả, bầu không khí ngập tràn lo âu.

Nhưng một người đàn ông bứt ra khỏi đám đông, một người Eph đã để ý ngay từ lúc đến đây. Một ông lão tóc bạc màu bạch dương, chống một cây gậy, như một cây quyền trượng, quá cao so với thân người, siết chặt phần dưới tay nắm bằng bạc. Trông như người đóng vai nhà tiên tri Moses trên sân khấu ở nhà hàng, ngoại trừ việc ông ta ăn mặc không chê vào đâu được, lịch sự và theo mốt xưa, với chiếc áo khoác đen óng bên ngoài bộ com lê bằng vải gabardine, cùng một dây xích móc đồng hồ bằng vàng thòng xuống trên chiếc áo vest. Và - thật không ăn nhập với bộ quần áo đặc biệt kia - một đôi găng len màu ghi hở ngón.

"Bác sĩ Goodweather?"

Ông lão biết tên anh. Eph nhìn ông ta một lần nữa, rồi nói, "Tôi có biết ông không?"

Ông lão nói thổ âm, có lẽ là giọng Slav. "Tôi đã nhìn thấy anh trên ti vi. Tôi biết anh sẽ tới đây."

"Ông ở đây để đợi tôi à?"

"Điều tôi cần nói đây, thưa bác sĩ, vô cùng quan trọng. Nghiêm trọng."

Eph bị phân tâm bởi tay cầm trên đầu cây gậy của ông lão: một hình đầu sói bằng bạc. "ừm, giờ không phải lúc... hãy gọi điện tới văn phòng của tôi, và đặt lịch hẹn..." Anh bỏ đi, tay nhoay nhoáy nhấn nút điện thoại.

Ông lão có vẻ lo lắng, như một người đang kích động cố gắng nói chuyện một cách bình tĩnh. Ông cố mỉm cười lịch sự hết mức, rồi giới thiệu bản thân với cả Nora. "Tên tôi là Abraham Setrakian. Mà có lẽ nó cũng chẳng có ý nghĩa gì đối với các vị." Ông giơ gậy chỉ về phía nhà xác. "Các vị đã thấy họ trong đó. Những hành khách trên máy bay."

Nora hỏi, "Ông biết gì về chuyện đó à?"

"Thật vậy," ông lão nói, mỉm cười cảm kích với,cô. Setrakian liếc nhìn nhà xác lần nữa, như một người đã chờ đợi quá lâu để được lên tiếng nên giờ không chắc phải bắt đầu từ đâu. "Hai người không thấy bọn họ biến đổi gì nhiều, đúng không?"

Eph tắt điện thoại trước khi nó kịp đổ chuông. Lời của ông lão đã nhắc lại nỗi sợ hãi khó hiểu của anh. "Không biến đổi như thế nào?" anh nói.

"Người chết ấy. Các thi thể không phân hủy."

Eph nói, cảm thấy lo lắng nhiều hơn là tò mò, "Vậy ra đó là thông tin mọi người ngoài này nghe ngóng được hả?"

"Chẳng cần ai nói gì cho tôi hết, bác sĩ à. Tôi biết chứ."

"Ông 'biết' ư," Eph nói.

"Nói chúng tôi nghe xem nào," Nora nói. "Ông còn biết những gì nữa?"

Ông lão hắng giọng. "Các vị có tìm thấy một chiếc... quan tài chứ?"

Eph cảm giác như Nora nẩy lên khỏi vỉa hè phải gần chục phân. Eph nói, "Ông nói gì?"

"Một chiếc quan tài. Nếu các vị giữ nó, vậy thì các vị vẫn giữ hắn."

Nora nói, "Hắn nào?"

"Tiêu hủy nó đi. Ngay lập tức. Đừng giữ nó để nghiên cứu.

Các vị phải tiêu hủy cái quan tài, không được chậm trễ."

Nora lắc đầu. "Nó biến mất rồi," cô nói. "Chúng tôi không biết nó ở đâu."

Setrakian nuốt khan với nỗi thất vọng cay đắng. "Đúng như tôi đã lo sợ."

"Tại sao phải tiêu hủy nó?" Nora hỏi.

Eph cắt ngang, nói với Nora, "Nếu cuộc nói chuyện kiểu này mà lọt ra ngoài, mọi người sẽ hoảng loạn đấy." Anh nhìn ông lão. "Ông là ai? Ông nghe được những điều này bằng cách nào?"

"Tôi là chủ một tiệm cầm đồ. Tôi chẳng nghe gì hết. Tôi biết những điều này."

"Ông biết?" Nora hỏi. "Làm sao ông biết?"

"Xin các vị." Giờ đây ông tập trung vào Nora, người tỏ ra dễ nói chuyện hon. "Điều tôi sắp nói đây không phải chuyện đùa. Tôi nói nó với thái độ tuyệt vọng và sự trung thực tuyệt đối. Các thi thể ở trong đó chứ?" Ông chỉ vào nhà xác. "Để tôi nói cho các vị biết, trước khi màn đêm buông xuống, chúng phải bị tiêu hủy."

"Tiêu hủy?" Nora hỏi, lần đầu tiên phản ứng một cách tiêu cực với ông lão. "Tại sao?"

"Tôi đề nghị hỏa táng. Hỏa thiêu. Đon giản và chắc chắn."

“Chính là lão ta," một giọng nói vang lên từ phía cửa bên, một nhân viên nhà xác đang dẫn một cảnh sát tuần tra New York mặc đồng phục tiến về phía họ. về phía Setrakian.

Ông lão lờ họ đi, giờ nói nhanh hon. "Xin các vị. sắp quá trễ rồi."

"Ngay kia kìa," nhân viên nhà xác nói, phăm phăm tiến tói, chỉ Setrakian cho viên cảnh sát. "Là lão ta đấy."

Viên cảnh sát, nhã nhặn và chán nản, nói với Setrakian, "Thưa ông?"

Setrakian phớt lờ anh ta, nài nỉ Nora và Eph. "Một thỏa thuận đã bị phá vỡ. Một hòa ước cổ, linh thiêng. Bởi một người giờ đây đã không còn là người nữa, mà là một thứ ghê tỏm. Một sinh vật ghê tởm, hung tàn."

"Thưa ông," viên cảnh sát nói. "Cho tôi nói vài lời với ông được không?"

Setrakian rướn tới trước và nắm chặt cổ tay Eph, buộc anh phải chú ý. "Hắn đang ở đây, ngay tại Tân Thế giới, trong thành phố này, chính hôm nay. Đêm nay. Anh hiểu chứ? Phải ngăn chặn hắn."

Những ngón tay đeo găng len của ông lão xương xẩu, như những móng vuốt. Eph giằng ra, không quá thô bạo nhưng đủ để đẩy ông lão ra sau. Cây gậy của ông lão đập mạnh vào vai viên cảnh sát, suýt chút nữa trúng mặt, và thái độ chán nản của viên cảnh sát đột ngột chuyển thành giận dữ.

"Được thôi, đủ rồi," viên cảnh sát nói, vặn cây gậy ra khỏi tay ông lão và kẹp lấy cánh tay ông. "Đi thôi."

"Các vị phải chặn hắn ta lại ngay," Setrakian vẫn cố nói trong khi bị dẫn đi.

Nora quay về phía nhân viên nhà xác. "Thế này là thế nào? Anh đang làm gì thế?"

Nhân viên này liếc nhìn hai tấm thẻ tên trên cổ họ - dòng chữ đỏ ghi rõ CDC - trước khi trả lời. "Lúc trước ông ta đã cô gắng vào trong, tự nhận là một người thân của nạn nhân. Nhất định đòi xem các thi thể." Người nhân viên nhìn theo ông lão đang bị đưa đi. "Cứ như một kẻ trộm xác."

Ông lão vẫn tiếp tục khẩn nài. "Ánh sáng tử ngoại," ông gọi với ra sau. "Rọi ánh sáng tử ngoại lên các thi thể..."

Eph sững người. Có phải anh vừa nghe thấy điều đó?

"Rồi anh sẽ thấy tôi nói đúng," ông lão gào lên, lúc bị dúi vào ghế sau một chiếc xe cảnh sát. "Tiêu hủy chúng đi. Ngay lập tức. Trước khi quá muộn..."

Eph nhìn theo trong lúc họ đóng sầm cánh cửa trước mặt ông lão, rồi viên cảnh sát trèo vào ghế lái và đi khỏi.

Hành lý quá cân

EPH GỌI ĐIỆN ĐẾN TRỄ bốn mươi phút so với buổi gặp mặt kéo dài năm mươi phút của anh, Kelly và Zack với bác sĩ Inga Kempner, chuyên gia tư vấn hôn nhân gia đình do tòa án chỉ định. Anh.cảm thấy nhẹ nhõm vì không phải ngồi trong văn phòng tầng một của căn nhà gạch nâu được xây từ trước chiến tranh tại Astoria, là nơi mà quyết định cuối cùng cho vấn đề quyền nuôi con sẽ được đưa ra.

Eph nài nỉ qua điện thoại để bàn của bác sĩ. "Hãy để tôi giải thích... cả kỳ nghỉ cuối tuần này tôi phải giải quyết một vụ vô cùng nghiêm trọng. Vụ máy bay chết ở tận Kennedy. Tôi không thể làm khác được."

Bác sĩ Kempner nói, "Đây không phải lần đầu tiên anh lỡ hẹn."

"Zack đang ở đâu?" anh hỏi.

"Bên ngoài khu chờ," bác sĩ Kempner nói.

Bà ta và Kelly đã nói chuyện mà không có anh. Mọi thứ đã được định đoạt. Nó đã kết thúc trước cả khi kịp bắt đầu.

"Bác sĩ Kempner này, tôi chỉ có duy nhất một đề nghị là bà hãy lên lại lịch hẹn cho chúng tôi..."

"Bác sĩ Goodweather, tôỉ e là..."

"Không, chờ đã, xin bà, chờ chút." Anh cắt ngang. "Nghe này, tôi có phải một người cha hoàn hảo không? Không, không hề. Tôi thừa nhận điều đó. Điểm cộng cho tính trung thực, phải không? Thực ra, tôi thậm chí còn không chắc mình có muốn thành người cha 'hoàn hảo' và nuôi dạy một đứa trẻ bình thường sẽ chẳng thể thay đổi thế giới hay không. Nhung tôi biết mình muốn trở thành người cha tốt nhất có thể. Bởi đó là những gì Zack xứng đáng được nhận. Và đó là mục tiêu duy nhất của tôi lúc này."

"Mọi thứ có vẻ ngược lại đấy," bác sĩ Kempner nói.

Eph giơ ngón tay thối với chiếc điện thoại. Nora chỉ đứng cách đó vài bước. Anh thấy giận dữ, nhưng đồng thời cũng yếu đuối và tổn thương đến lạ.

"Hãy nghe tôi," Eph nói, gắng gượng hết sức để giữ bình tĩnh. "Tôi biết là bà biết tôi đã điều chỉnh cuộc sống của mình vì hoàn cảnh này, vì Zack. Tôi đặc biệt mở văn phòng ở thành phố New York để có thể ở đây, gần mẹ thằng bé, để nó có thể nhận được những điều tốt nhất từ cả hai chúng tôi. Tôi thường dành ra vài giờ cố định trong tuần, một lịch trình không đổi, không nhận điện thoại. Tôi làm việc gấp đôi vào những ngày cuối tuần để có thể có được hai ngày nghỉ trọn vẹn với con."

"Anh đã tham dự buổi họp của hội cai rượu cuối tuần này chứ?"

Eph im bặt. Như một lốp xe bị xì sạch khí. "Bà có nghe tôi nói không vậy?"

"Anh vẫn thấy thèm uống chứ?"

"Không," anh càu nhàu, cố hết sức giữ bình tĩnh. "Tôi đã không say rượu hai mươi ba tháng nay rồi, bà biết mà."

Bác sĩ Kempner nói, "Bác sĩ Goodweather, đây không phải là vấn đề ai yêu con anh hon. Trong những trường họp thế này thì vấn đề không bao giờ nằm ở đó. Thật tuyệt vì cả hai anh chị đều quan tâm đến nó nhiều đến vậy, sâụ đậm đến vậy. Sự hy sinh của anh dành cho Zack hiển nhiên rất rõ ràng. Nhung, và vẫn thường là vậy, dường như chẳng có cách nào ngăn việc này trở thành một cuộc ganh đua. Bang New York có những nguyên tắc mà tôi cần tuân theo khi đưa ra lời tiến cử cho quan tòa."

Eph chua chát nuốt nước bọt. Anh cố ngắt lời, nhưng bà ta vẫn tiếp tục nói. "Anh đã chống lại quyết định ban đầu của tòa án trong vấn đề nuôi con, anh đã từng bước chiến đấu trong suốt cả quá- trình. Và tôi coi đó là thước đo tình yêu của anh dành cho Zachary. Anh cũng đã tiến bộ rất nhiều, và điều đó vừa rõ ràng vừa đáng ngưỡng mộ. Nhưng giờ đây có thể thấy rằng anh chỉ còn một phương án cuối cùng là đưa vụ này ra tòa, nếu anh muốn làm thế. Theo cách thức chúng tôi thường dùng để phân xử quyền nuôi con. Quyền thăm con, hiển nhiên không cần phải bàn cãi..."

"Không, không, không," Eph lầm bầm, như một người sắp bị đâm bởi một chiếc ô tô đang lao tói. Đúng hệt cái cảm giác nôn nao anh cảm thấy suốt dịp cuối tuần. Anh cố nhớ lại - anh và Zack ngồi trong căn hộ của anh, ăn đồ ăn Trung Quốc và choi điện tử. Cả kỳ nghỉ cuối tuần trải dài trước mắt họ. Một cảm giác mới vui sướng làm sao.

"Ý của tôi, bác sĩ Goodweather à," bác sĩ Kempner nói, "tôi chẳng thấy có ích gì khi phải tiếp tục vụ này nữa."

Eph quay sang Nora, lúc này đang ngước nhìn anh, và cồ lập tức hiểu anh đang phải trải qua chuyện gì.

"Bà có thể bảo tôi vụ này đã chấm dứt," Eph thì thào qua điện thoại. "Nhưng nó chưa chấm dứt đâu, bác sĩ Kempner. Không bao giờ." Và nói xong câu này, anh tắt máy.

Anh quay đi, biết rằng lúc này Nora sẽ tôn trọng anh và không cố tới gần. Và anh biết on cô vì điều đó, bởi anh không muốn cô nhìn thấy những giọt lệ đang đong đầy trên mắt mình.