← Quay lại trang sách

Ánh sáng ban ngày Khu Bushwick Broocklin

Điểm đến đầu tiên của Vasiliy Fet trong sáng hôm sau là một ngôi nhà ở khu Bushwick, không xa nơi anh đã lớn lên. Những cuộc gọi kiểm tra cứ liên tục tới từ khắp mọi noi, chắc thời gian chờ thông thường từ hai tới ba tuần phải tăng gấp đôi mới được. Vasiliy hãy còn đang phải giải quyết nốt số khách hàng tồn đọng từ tháng trước, vậy mà anh lại hứa với ông này là sẽ tới vào hôm nay.

Anh đỗ lại sau một chiếc Sable màu trắng bạc và lấy đồ nghề ra khỏi thùng xe, một thanh cốt thép và chiếc xe đẩy ảo thuật gia chứa bẫy và bả chuột. Thứ đầu tiên đập vào mắt anh là một lạch nước chảy dọc theo lối đi giữa hai dây nhà. Đó là một dòng nước trong, chảy rất chậm, giống như từ một ống nước bị vỡ. Không ngon lành như nước cống vàng đầy váng, nhưng quá đủ để cung cấp nước cho cả một binh đoàn chuột.

Một cửa sổ tầng hầm bị vỡ, được bít lại bằng giẻ rách và khăn tắm cũ. Đó có thể là do tác động của tình trạng bỏ bê đô thị, hoặc là sản phẩm thủ công của những "thợ ống nước làm đêm", một nòi trộm cắp mới chuyên vặt ống đồng để bán ở các bãi phế liệu.

Ngân hàng hiện là chủ của cả hai ngôi nhà, những bất động sản đầu tư liền kề, dưới tác động của cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp bất động sản dưới chuẩn, đã đành phải được bán lại cho chủ của chúng, rồi người này lại mất chúng do bị tịch thu tài sản thế chấp. Vasiliy sẽ gặp người quản lý bất động sản ở đó. Thấy cánh cửa vào ngôi nhà thứ nhất không khóa, Vasiliy gõ cửa chào to. Anh ngó đầu vào căn phòng đầu tiên có cầu thang, kiểm tra chân tường để tìm vết chân đi và chất thải của chuột. Một cái rèm hỏng che nửa cửa sổ, tạo nên một vệt bóng nghiêng trên mặt sàn gỗ trét mạch. Nhưng không thấy người quản lý xuất hiện.

Vasiliy quá vội chẳng thể ngồi chờ ở đây. Ngoài danh mục đon hàng tồn đọng, đêm trước anh đã không được ngủ ngon, và anh muốn quay trở lại chỗ Trung tâm Thương mại Thế giới sáng nay để gặp người chịu trách nhiệm. Tại bậc thang thứ ba, anh nhìn thấy một tập kẹp tài liệu bằng kim loại mắc ở giữa các cột tay vịn cầu thang. Tên công ty in trên các danh thiếp trên tập kẹp đó trùng với tên công ty trong kế hoạch làm việc hôm nay của anh.

"Xin chào!" anh lại gọi to, nhưng không có ai trả lời. Anh tìm thấy cánh cửa dẫn tới cầu thang xuống tầng hầm, và quyết định bắt tay ngay vào công việc. Dưới tầng hầm rất tối - do khung cửa sổ bị nhồi nhét các thứ như anh đã nhìn thấy lúc còn ở bên ngoài - và đèn điện thì đã tắt từ lâu. Anh cũng không tin còn bóng đèn điện nào trên trần. Bỏ lại đằng sau chiếc xe đẩy, Vasiliy mở toang cửa và bước xuống dưới, cầm trong tay thanh cốt thép.

Cầu thang lượn sang bên trái. Anh nhìn thấy một đôi giày da, rồi hai chân trong ống quần kaki: nhà quản lý bất động sản đang ngồi tựa lưng vào bức tường đá trong tư thế rũ ra như một kẻ phê cocaine, đầu nghiêng sang một bên, mắt mở trừng trừng, đờ đẫn.

Vasiliy đã có đủ kinh nghiệm với những ngôi nhà bỏ hoang trong những khu cư dân phức tạp để hiểu rằng tốt hơn hết là không nên vội vã với gã này. Đứng dưới chân cầu thang, anh nhìn xung quanh, mắt quen dần với bóng tối. Tầng hầm này không có gì khác biệt ngoài hai cái ống đồng dài bị cắt nằm dưới sàn nhà.

Ở phía bên phải cầu thang là bệ ống khói, với buồng đốt kế bên được thông khí với nó. Vasiliy nhìn thấy bốn ngón tay bẩn thỉu của ai đó đang thu mình ở góc kia của bệ ống khói.

Có ai đang núp ở đó, giấu mình, chờ đợi anh.

Anh quay người đi ngược lên cầu thang để gọi cảnh sát thì thấy ánh sáng trên các bậc ở chỗ ngoặt cầu thang biến mất. Cánh cửa đã đóng lại. Có ai đó ở phía trên cầu thang đã đóng nó.

Thôi thúc đầu tiên của Vasiliy là chạy, và anh chạy xuống cầu thang, thẳng tới chỗ ống khói nơi chủ nhân của bàn tay bẩn thỉu kia đang rình rập. Với một tiếng hét tấn công, anh vung thanh cốt thép đập xuống những đốt ngón tay đó, nghiến chúng vào mặt vữa vách ống khói.

Kẻ tấn công xông nhanh tới anh, không hề tỏ ra đau đớn. Hiệu ứng của ma túy, anh nghĩ. Đó là một đứa con gái, bẩn thỉu từ đầu đến chân, máu dây trên ngực và quanh miệng. Anh kịp thấp thoáng thấy những chi tiết đó dưới ánh sáng lờ mờ khi con bé lao bổ vào anh với tốc độ phi thường, và với một sức mạnh thậm chí còn phi thường hon, xô anh bắn vào bức tường đối diện, bất chấp hình thể của nó chỉ bằng một nửa anh. Con bé hét không ra hơi một âm thanh cuồng nộ, và khi nó há miệng, một cái lưỡi dài quái đản trườn ra ngoài. Vasiliy lập tức đạp thẳng chân giày của mình vào ngực con bé, làm nó ngã xuống sàn.

Anh nghe thấy tiếng bước chân chạy xuống cầu thang và hiểu mình không thể chiến thắng cuộc chiến này trong bóng tối. Anh chọc thanh cốt thép của mình vào mớ giẻ rách đang bít kín cửa sổ, xoáy và kéo nó roi xuống giống như tháo nắp bít của một cái máng làm tràn ra ánh sáng thay vì nước.

Anh quay lại vừa kịp để nhìn thấy ánh mắt hoảng loạn của con bé. Nó nằm trọn vẹn trong vùng ánh sáng mặt trời, phát ra một tiếng tru đau đớn, thân thể nó ngay lập tức vỡ vụn ra và bốc hoi. Cảnh tượng đó giống như trong tưởng tượng của anh về tác động của bức xạ nguyên tử tới con người, thiêu đốt và làm biến mất cùng lúc.

Việc đó xảy ra gần như tức thì. Cô bé - hay là bất cứ thứ gì trước đó - nằm thành một đám xỉ khô trên mặt sàn tầng hầm bẩn thỉu.

Vasiliy kinh hoảng. Đó là nỗi khiếp sợ không thể tả bằng lời. Anh hoàn toàn quên mất kẻ thứ hai đang chạy ra khỏi cầu thang cho tới lúc hắn rên lên một tiếng khi tiếp xúc với ánh sáng. Hắn ta chạy ngược lại, vấp phải nhà quản lý bất động sản, loạng choạng lấy lại thăng bằng và chạy lên cầu thang.

Vasiliy sực tỉnh kịp thời và chạy tới chân cầu thang. Anh thọc thanh cốt thép của mình qua khe giữa hai bậc thang, ngáng vào chân hắn làm hắn ngã lộn ngược trở lại mặt sàn. Vasiliy tiến lại gần hắn, giương cao thanh sắt ngay khi hắn vừa kịp đứng dậy. Nước da nguyên màu nâu của hắn giờ vàng vọt bệnh hoạn kiểu người bị bệnh vàng da. Mồm hắn há ra, và Vasiliy thấy một thứ không phải lưỡi mà là cái gì đó kinh hơn nhiều.

Vasiliy vung thanh cốt thép đập thẳng vào cái mồm của hắn. Cú vụt làm hắn xoay một vòng và khuỵu gối xuống. Vasiliy sấn lại và túm gáy hắn, giữ cho mình tránh xa khỏi cái miệng của hắn, trong khi kẻ kia phát ra tiếng phì phì như rắn và đóp đóp như chuột. Anh nhìn về phía ô nắng hình chữ nhật đang cuộn bụi từ thi thể bị tiêu hủy của cô bé. Anh cảm thấy tên này đang chồm người cố thoát ra. Anh vụt mạnh cây gậy sắt xuống dưới đầu gối của cái thứ quái quỷ này và đẩy hắn tới vùng ánh sáng.

Vasiliy Fet dù sợ hãi đến phát điên nhung vẫn muốn nhìn cảnh tượng đó một lần nữa. Đó là một trò tàn sát của ánh sáng. Bằng một cú đạp chân giày vào mông hắn, anh làm hắn loạng choạng roi vào dưới vùng ánh nắng - và anh quan sát hắn lập tức vỡ vụn ra rồi sụm xuống dưới ánh sáng thiêu đốt, biến thành tro và khói.

Nam Ozone Park, Queens

CHIẾC LIMOUSINE của Eldritch Palmer từ từ đỗ lại trước một nhà kho trong một khu công nghiệp cỏ mọc um tùm, cách trường đua ngựa Aqueduct khoảng một cây số rưỡi. Palmer đi với một đoàn tháp tùng khiêm tốn, phía sau xe của ông ta là chiếc limousine thứ hai, trống không, cốt để phòng trường họp xe của ông ta gặp trục trặc, tiếp nữa là chiếc thứ ba, một chiếc xe tải đen sản xuất theo đon đặt hàng, được dùng như một xe cấp cứu cá nhân có trang bị máy thẩm tách máu.

Một cánh cổng ngách của nhà kho mở ra để đón đoàn xe vào rồi lại đóng lại phía sau họ. Đứng đón ông ta là bốn thành viên của Hiệp hội Stoneheart, một nhánh nhỏ trong tổ họp đầu tư quốc tế hùng mạnh của ông ta, Tập đoàn Stoneheart.

Người mở cửa xe cho Palmer là Fitzwilliam, và ông ta bước ra ngoài trong sự sợ hãi của mọi người. Một sự hội kiến với ngài chủ tịch là cả một đặc ân hiếm hoi.

Bộ com lê màu đen làm tôn vẻ trang nghiêm của ông ta. Palmer đã quen với không khí sợ hãi khi ông ta có mặt. Các nhà đầu tư trong tập đoàn coi ông ta như một đấng cứu thế, người đã làm họ trở nên giàu có nhờ tài đoán trước được những thăng trầm của thị trường. Nhưng còn các môn đồ của ông ta, họ sẵn sàng theo ông ta xuống cả địa ngục.

Hôm nay Palmer cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh, và ông ta đứng chỉ với một sự trợ giúp duy nhất là cây gậy bằng gỗ gụ. Nhà kho công ty đóng thùng cũ này hầu như trống tron. Tập đoàn Stoneheart chỉ đôi khi sử dụng nó để chứa xe cộ, nhưng giá trị thực sự của nó ngày nay nằm ở cái lò đốt cổ lỗ dưới lòng đất đã có từ trước đó, với cửa lò lớn trên tường.

Bên cạnh các thành viên Hiệp hội Stoneheart là một cái khoang cách ly Kurt nằm trên một băng ca di động bằng bánh xe. Bên cạnh ông ta là Fitzwilliam.

"Có vấn đề gì không?" Palmer hỏi.

"Không, thưa Chủ tịch," họ trả lời. Có hai người trông giống bác sĩ Goodweather và bác sĩ Martinez đưa cho Fitzwilliam giấy chứng nhận giả của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh.

Palmer quan sát hình dạng hom hem của Jim Kent qua vách trong suốt của khoang cách ly. Cơ thể đói máu của một con ma cà rồng quắt queo lại trông giống một tượng quỷ được đẽo gọt từ thân gỗ bạch dương bị bệnh. Những đặc điểm hệ cơ và hệ tuần hoàn của anh ta có thể nhìn thấy rõ qua lóp da thịt bị phân rã, trừ cái cổ họng thâm đen sưng vù. Từ hai cái lỗ sâu trên khuôn mặt hốc hác, đôi mắt anh ta mở to, nhìn trừng trừng.

Palmer thấy tội nghiệp thay cho con ma cà rồng bị đói đến hóa đá này. ông ta hiểu cái cảm giác khi cơ thể khẩn nài một sự cấp dưỡng đơn giản, còn linh hồn thì vật vã trong đau đớn và tâm trí thì cứ đợi chờ.

Ông ta cũng biết cảm giác của một người khi bị chính chủ nhân của mình phản bội.

Giờ thì Eldritch Palmer thấy mình đang ở vị thế của người phán quyết. Không giống như tên đáng thương này, Palmer đang ở ranh giới của sự giải phóng, của sự bất tử.

"Tiêu hủy hắn," ông ta nói và quay lưng đi khi hộp cách ly được đẩy tới cửa lò thiêu đang mở, và cơ thể kia được làm mồi cho ngọn lửa.

Nhà ga Pennsylvania

CHUYẾN ĐI CỦA HỌ TỚI WESTCHESTER để tìm Joan Luss, người thứ ba sống sót trong chuyến bay 753, bị hủy bỏ bởi một bản tin buổi sáng. Thị trấn Bronxville đã bị phong tỏa bởi các đội cảnh sát bang New York và lực lượng HAZMAT do một vụ "rò rỉ khí ga". Những cảnh quay từ trực thăng cho thấy thị trấn trông lặng như tờ lúc tảng sáng, chỉ có những chiếc xe cảnh sát bang lưu thông trên đường. Sự kiện tiếp theo trên bản tin diễn ra ở tòa nhà Văn phòng Cơ quan Pháp y trên góc phố 30 và đại lộ 1, nơi đang có rất đông người tập trung, dường như có những báo cáo về số người mất tích đang gia tăng trong khu vực, cùng sự hoảng loạn trong dân chúng địa phương.

Nhà ga Pennsylvania dường như là nơi duy nhất họ có thể nghĩ tới chuyện sử dụng điện thoại trả tiền kiểu cổ. Eph đứng vào một buồng điện thoại cùng Nora và Setrakian, tách hẳn ra khỏi dòng người đi vé tháng đang đi trong sân ga.

Eph nhấn phím điện thoại di động của Jim, chọn danh mục NHỮNG cuộc GỌI GẦN NHẤT để tìm số máy trực tiếp của Giám đốc Bames. Jim đã gọi cả trăm cuộc mỗi ngày, và Eph phải tìm lướt toàn bộ các số đó, cuối cùng, Barnes trả lời cuộc gọi của anh qua đường cáp viễn thông.

Eph nói, "Có phải ông thực sự nghĩ rằng mình sẽ qua mặt được thiên hạ với cái trò 'rò rỉ khí ga' này, Everett? Ông có thể giữ kín được trong bao lâu nữa?"

Barnes nhận ra giọng Eph. "Ephraim, anh đang ở đâu?"

"Ông đã tới Bronxville chưa? Ông có vừa xem ti vi không?"

"Tôi đã tới đó... Chứng tôi không biết đang gặp phải cái gì..."

"Không biết ư? Đủ rồi, ông làm tôi phát chán, Everett."

"Sáng nay họ phát hiện đồn cảnh sát vắng hoe. Toàn bộ cư dân thành phố dường như đã rời đi."

"Không rời đi. Họ vẫn còn ở đó, chỉ là lẩn trốn. Hây đến quận Westchester vào lúc trời tối, chả khác nào Transylvania11*. Thứ ông cần là đội lính chiến, Everett. Lính chiến. Vào từng nhà một trong thị trấn đó, như là Baghdad ấy. Đó là cách duy nhất."

"Thứ chúng ta cần là không tạo ra hoảng loạn..."

"Hoảng loạn đã bắt đầu diễn ra. Hoảng loạn là câu trả lời thích họp đối với thứ này, còn hơn là chối bỏ nó."

"Hệ thống giám sát hội chứng của Cục An toàn Sức khỏe New York chưa phát hiện bất cứ bất thường nào."

"Họ theo dõi các dấu hiệu dịch bệnh bằng cách thống kê số lượng bệnh nhân nằm ở khoa cấp cứu, số lần chạy xe cứu thương, lượng thuốc bán ra. Không một số liệu nào như vậy phù họp với chuyện này. Cả thành phố này cũng sẽ giống như Bronxville thôi nếu như ông còn không mau hành động."

Giám đốc Bames nói, "Tôi muốn biết anh đã làm gì với Jim Kent."

"Tôi tới thăm anh ta thì anh ta đã đi rồi." [1]

"Tôi nghe nói anh có liên quan gì đó tới sự biến mất của anh ta."

"Tôi làm sao, Everett - một bóng ma? Tôi cùng lúc ở khắp mọi noi. Tôi là thiên tài xấu xa. Đúng, tôi đấy."

"Ephraim, hãy nghe..."

"Ông hãy nghe đây. Tôi là một bác sĩ - một bác sĩ ông thuê để làm việc. Để phát hiện và ngăn chặn dịch bệnh xuất hiện ở nước Mỹ. Tôi gọi cho ông để báo rằng hãy còn chưa muộn. Đây đã là ngày thứ tư kể từ lúc cái máy bay đó hạ cánh và bắt đầu sự lan truyền - nhưng vẫn còn một cơ hội, Everett. Chúng ta có thể khoanh vùng chúng tại thành phố New York. Nghe đây, ma cà rồng không thể đi qua vùng nước. Vậy thì chúng ta cách ly đảo, khóa mọi cây cầu..."

"Tôi không có thẩm quyền đó ở đây, anh biết vậy mà."

Loa phóng thanh phía trên đầu phát thông báo lịch tàu chạy. "Nhân tiện, tôi đang ở ga Pennsylvania, Everett. Hãy cử FBI tới đây, nếu ông muốn. Tôi sẽ rời khỏi đây trước khi họ tới."

"Ephraim... hãy quay trở lại. Tôi hứa sẽ cho anh một cơ hội để thuyết phục tôi, thuyết phục mọi người. Hãy cùng nhau xử lý chuyện này."

"Không," Eph nói. "Ông vừa m(5i nói rằng ông không có thẩm quyền đó. Những con ma cà rồng này - chúng đúng là ma cà rồng, Everett - chúng là vi rút bằng xương bằng thịt, và chúng sẽ tiêu diệt toàn bộ thành phô này cho đến khi không một ai trong chúng ta sống sót. Cách ly kiểm dịch là câu trả lời duy nhất. Nếu tôi nghe được tin ông đang đi theo hướng này, có thể tôi sẽ cân nhắc quay lại hỗ trợ. Cho tới lúc đó, Everett..."

Eph treo ống nghe vào giá. Nora và Setrakian chờ anh nói tiếp gì đó, nhưng một số máy trên điện thoại Jim đã gọi sự chú ý của Eph. Mỗi một số máy trong danh bạ của Jim đều kèm theo tên người, tất cả, trừ một số. Một tổng đài địa phương, và Jim đã thực hiện rất nhiều cuộc gọi tới đó trong mấy ngày vừa qua. Eph lại nhấc điện thoại cáp viễn thông và nhấn số 0, nghe tiếng chuông tự động ở đầu bên kia, cho tới khi điện thoại viên của nhà mạng Verizon trả lời.

"Vâng, tôi có một số điện thoại trong máy của mình mà không nhớ là của ai, và tôi muốn tránh gây phiền hà trước khi thực hiện cuộc gọi. Mã vùng 212, và tôi nghĩ đó là số điện thoại cố định. Cô có thể kiểm tra ngược giúp tôi không?"

Anh đọc số đó và nghe thấy tiếng gõ bàn phím vọng ra từ đầu dây bên kia.

"Số đó được đăng ký cho tầng bảy mươi bảy của Tập đoàn Stoneheart. Anh có muốn có địa chỉ của tòa nhà đó không?"

"Vâng, có chứ."

Anh bịt tay vào miệng ống nói và nói với Nora, "Vì sao Jim lại gọi cho ai đó ở Tập đoàn Stoneheart?"

"Stoneheart ư?" Nora nói. "Anh muốn nói tới công ty đầu tư của ông già đó?"

"Một bậc thầy về đầu tư," Eph nói. "Giàu thứ hai ở đất nước này, anh nghĩ vậy. Ông Palmer gì đó."

Setrakian nói, "Eldritch Palmer."

Eph nhìn sang ông. Anh thấy vẻ khiếp đảm hiện trên gương mặt vị giáo sư. "Ông ta làm sao?"

"Người đàn ông này, Jim Kent," Setrakian nói. "Đó không phải là bạn anh."

Nora nói, "Ý ông là gì? Tất nhiên anh ấy là..."

Eph treo ống nghe sau khi đã lấy được địa chỉ. Anh nhấn nút gọi vào số đó từ điện thoại của Jim.

Chuông reo ở đầu kia. Không có trả lời, không có tin nhắn thoại đáp lại.

Eph ngắt cuộc gọi, vẫn trân trối nhìn điện thoại.

Nora nói, "Anh còn nhớ bà quản lý khu cách ly, sau khi mấy người sống sót bỏ đi chứ? Bà ấy nói đã gọi cho Jim, còn anh ấy bảo không - sau đó anh ấy lại nói là đã lỡ vài cuộc gọi?"

Eph gật đầu. Chẳng hiểu gì cả. Anh nhìn Setrakian. "Ông biết gì về ông Palmer này?"

"Nhiều năm trước ông ta đến gặp tôi nhờ tìm kiếm một người. Một kẻ mà tôi cũng rất quan tâm tìm kiếm."

"Sardu," Nora đoán.

"Ông ta có tài chính. Tôi có hiểu biết. Nhưng thỏa thuận kết thúc chỉ sau vài tháng. Tôi đi tới kết luận rằng chúng tôi tìm kiếm Sardu vì những lý do hoàn toàn khác nhau."

Nora nói, "Có phải chính ông ta đã phá hỏng sự nghiệp của ông ở trường đại học?"

Setrakian nói, "Tôi luôn nghĩ là vậy."

Điện thoại của Jim rung lên trong tay Eph. Một số điện thoại lạ, nhưng thuộc tổng đài New York địa phương. Rất có thể ai đó từ Stoneheart gọi lại. Eph trả lời.

"A lô," người kia nói, "có phải cơ quan CDC không?"

"Ai đang gọi vậy?"

Giọng nói đó thô và trầm. "Tôi đang tìm cái người chuyên về bệnh dịch của dự án Canary, cái người đang gặp rắc rối ấy. Anh có cách nào kết nối tôi với anh ấy không?"

Eph nghi đó là một cái bẫy. "Anh muốn gì từ anh ấy?"

"Tôi gọi từ bên ngoài một ngôi nhà ở Bush wick, Brooklyn. Tôi có hai người cuồng nhật thực chết dưới tầng hầm. Những người sợ ánh mặt trời. Điều này có gọi ý gì cho anh không?"

Eph bỗng phấn khích hẳn lên. "Tôi đang nói chuyện với ai đây?"

"Tôi là Fet. Vasiliy Fet. Tôi làm ở Cơ quan Kiểm soát Ký sinh Gây Bệnh, một người diệt chuột, cũng đồng thời tiến hành các thử nghiệm thuộc chương trình quản lý dịch hại tổng họp ở trung tâm Manhattan. Chương trình này được CDC tài trợ bảy trăm năm mươi ngàn đô la. Vì vậy tôi có được số này. Có phải tôi đang nói chuyện với Goodweather?"

Eph do dự trong một thoáng. "Đúng vậy."

"Có lẽ anh có thể coi tôi như một người làm việc cho anh. Tôi không thể đặt vấn đề này ra với ai khác ngoài anh. Nhưng tôi đã nhìn thấy các dấu hiệu ở khắp thành phố."

Eph nói, "Đó không phải do nhật thực."

"Tôi nghĩ là tôi biếtthế. Có lẽ anh nên tới đây. Vì tôi có thứ muốn cho anh xem."

Tập đoàn Stoneheart, Manhattan

EPH CÓ HAI NƠI cần tạt qua trên đường đi. Một nơi tới một mình, và nơi còn lại cùng Nora và Setrakian.

Thẻ hành nghề CDC giúp anh qua trạm bảo vệ ở sảnh chính tòa nhà Stoneheart, nhưng không giúp qua được trạm thứ hai trên tầng bảy mươi bảy, nơi anh phải chuyển thang máy thì mới lên được mười tầng trên cùng của tòa nhà ở Midtown.

Hai gã bảo vệ to con đứng trước logo lớn bằng đồng của Tập đoàn Stoneheart đắp nổi trên mặt sàn đá mã não. Phía sau họ, đi qua đi lại trong khu sảnh, là những người mặc đồng phục đang đẩy các xe lăn chất những thiết bị y tế lớn.

Eph xin được gặp Eldritch Palmer.

Gã vệ sĩ to con hơn gần như mỉm cười. Hình bao đeo súng giắt vai nổi cộm đầy khả nghi phía dưới áo vest của gã. "Ngài Palmer không tiếp khách nếu không có hẹn trước."

Eph nhận ra một trong số các máy móc đang được dỡ ra để cho vào thùng. Đó là một máy thẩm tách Fresenius. Một thứ rất đắt dùng trong bệnh viện.

"Các anh đang dọn đồ," Eph nói. "Chuyển đi. rời khỏi New York trong khi tình hình kinh doanh đang tốt. Nhưng chẳng lẽ ngài Palmer không cần máy chạy thận?"

Hai gã bảo vệ không trả lời, cũng chả thèm ngoái đầu nhìn lại.

Eph chợt hiểu. Hoặc anh nghĩ là mình hiểu.

Họ gặp lại nhau ở ngoài nhà của Jim vầ Sylvia, một cao ốc ở phía Đông Thượng Manhattan.

Setrakian nói, "Chính Palmer đã đem Chúa Tể tới nước Mỹ. Lý do khiến ông ta liều hy sinh tất cả - thậm chí cả tương lai của loài người - là để kéo dài cái kết của chính mình."

"Cái kết gì chứ?" Nora nói.

Setrakian nói, "Tôi tin rằng Eldritch Palmer muốn trở nên bất tử."

Eph nói, "Không đâu, nếu chúng ta bằng mọi giá ngăn chặn điều này."

"Tôi hoan nghênh quyết tâm của anh," Setrakian nói. "Nhưng với sự giàu có và tầm ảnh hưỏng của mình, ông bạn cũ của tôi có mọi lọi thế. Đây là cuộc choi cuối cùng của ông ta, anh biết đấy. Ông ta không còn đường quay lại. Ông ta sẽ làm mọi cách để đạt mục đích."

Eph không cho phép mình suy nghĩ một cách bao quát, bằng không anh có lẽ sẽ phát hiện ra anh đang tham dự một cuộc chiến nắm chắc phần thua. Anh tập trung vào những nhiệm vụ trước mắt. "Ông đã phát hiện ra điều gì?"

Setrakian nói, "Chuyến thăm ngắn ngủi của tôi tới Bảo tàng Lịch sử Xã hội New York đã gặt hái được kết quả tốt. Cái cơ ngoi mà chúng ta đề cập tới được xây dựng lại hoàn toàn bởi một kẻ buôn bán rưọu lậu đã gây dựng nên tài sản của mình trong thời kỳ cấm rưọu. Nhà ông ta bị khám xét vô số lần, nhưng họ không bao giờ tóm được quá nửa lít bia ủ bất họp pháp, bởi vì, nghe nói, ông ta có cả một mạng lưới đường hầm và kho rượu ngầm dưới lòng đất - một số đường hầm sau này đã được mở rộng để làm thành các tuyến tàu điện ngầm."

Eph nhìn Nora. "Em thì thế nào?"

"Cũng vậy. Và rằng Bolivar đã mua cơ ngoi này chỉ vì nó từng thuộc về một kẻ buôn rượu, và vì nghe nói chủ trước đó nữa là một kẻ thờ quỷ Satan, từng tổ chức những buổi tế quỷ trong điện thờ trên gác mái vào đầu thế kỷ 20. Bolivar đã cải tạo lại tòa nhà và năm ngoái đã nối nó với tòa nhà bên cạnh, để cấu trúc thành một trong những tư dinh lớn nhất New York."

"Tốt," Eph nói. "Em đã đi đâu, tới thư viện à?"

"Không," cô nói, chìa ra một tập giấy in sao lại những bức ảnh chụp nội thất của tòa nhà cũ và những bức ảnh chụp mới bên trong tòa nhà của Bolivar trong giai đoạn cải tạo. "Đây là từ trang điện tử của tạp chí People."

Có tín hiệu thông báo họ được phép vào và họ đi lên căn hộ nhỏ của Jim và Sylvia trên tầng chín. Sylvia mở cửa đón họ. Cô mặc váy vải lanh trang nhã trông họp với vai trò phụ trách chuyên mục tử vi, tóc buộc ra sau bằng một băng buộc đầu màu trắng. Cô ngạc nhiên khi nhìn thấy Nora, và còn sửng sốt gấp đôi khi thấy Eph.

"Mấy người đang làm gì...?"

Eph bước vào nhà. "Sylvia, chúng tôi có một số câu hỏi quan trọng, và chúng tôi chỉ có ít thời gian. Cô biết gì về Jim và Tập đoàn Stoneheart?"

Sylvia đưa một tay lên ngực tỏ ý không hiểu. "Tập đoàn gì cơ?"

Eph nhìn thấy một cái bàn trong góc, một con mèo mướp đang ngủ trên một chiếc laptop đóng nắp. Anh bước tới và bắt đầu mở các ngăn kéo. "Cô không phiền nếu chúng tôi xem qua những thứ này chứ?"

"Không," cô nói, "nếu việc đó giúp gì được. Cứ xem đi."

Setrakian vẫn đứng gần cửa trong khi Eph và Nora tìm kiếm ở bàn của Jim. Sylvia rõ ràng thấy choáng trước sự hiện diện của ông lão. "Có ai muốn uống gì không?"

"Không," Nora nói, mỉm cười vội vã và lại quay về với công việc tìm kiếm.

"Tôi sẽ quay trở lại ngay." Sylvia đi vào bếp.

Eph lùi ra khỏi cái bàn chất đầy đồ đạc, trầm ngâm. Anh thậm chí vẫn chưa biết mình phải tìm thứ gì. Jim làm việc cho Palmer ư? Làm từ khi nào? Và vì động cơ gì? Tiền? Liệu anh ta có thể trở mặt với họ như vậy sao?

Anh quyết định vào bếp hỏi Sylvia một câu khá tế nhị về tình hình tài chính của họ. Vừa bước vào thì Eph bắt gặp Sylvia đang gác máy điện thoại treo tường. Cô lùi lại một bước, vẻ mặt kỳ lạ.

Eph thoáng bối rối. "Cô gọi cho ai vậy, Sylvia?"

Những người khác bước tới phía sau lung anh. Sylvia qườ tay chạm vào bức tường phía sau, rồi cô ngồi xuống một chiếc ghế.

Eph nói, "Sylvia, chuyện gì thế?"

Cô nói, không nhúc nhích, và với một vẻ bình tĩnh đáng sợ ẩn sau đôi mắt mở to, đầy oán hận, "Các người sẽ thất bại thôi."

PS 69, Jackson Heights

KELLY THƯỜNG KHÔNG bật điện thoại di động trong lớp học, nhưng giờ nó được đặt ngay bên trái tập lịch, đặt chế độ rung. Matt đã ở ngoài cả đêm, không phải điều gì bất thường đối với công việc kiểm kê buổi đêm; anh ta còn hay đưa nhóm của mình đi ăn sáng cùng sau ca trực. Nhưng Matt luôn gọi điện báo cho cô. Trường học là nơi cấm sử dụng điện thoại di động, nhưng cô đã trộm gọi vài cuộc cho anh ta, và lần nào cũng chỉ nhận đưọc tin nhắn thoại. Có thể anh ta ở ngoài vùng phủ sóng. Cô cố không lo lắng, nhưng không được. Hôm nay người tới trường ít hẳn.

Cô thấy hối hận là đã nghe theo Matt và đầu hàng trước sự ngạo mạn của anh ta về chuyện không rời khỏi thành phố. Nếu như anh ta bằng cách nào đó đặt Zack vào tình thế nguy hiểm...

Rồi màn hình điện thoại của cô sáng lên, xuất hiện biểu tượng phong bì. Một tin nhắn từ di động của anh ta.

Tin nhắn viết: VỀ NHÀ.

Chỉ thế. Hai từ, viết thường, không chấm câu. Cô thử gọi lại ngay cho Matt. Có tiếng chuông reo và sau đó ngưng lại giống như anh ta có nghe máy, nhưng chẳng nói lấy một tiếng.

"Matt? Matt?"

Đám trẻ lóp bốn nhìn cô ngạc nhiên. Chúng chưa từng thấy cô Goodweather nói chuyện điện thoại trong lóp học.

Kelly thử gọi về máy ở nhà, và nghe thấy tín hiệu báo bận. Chẳng lẽ tin nhắn thoại bị hỏng? Lần cuối cùng cô nghe thấy tiếng tín hiệu máy bận là khi nào chứ?

Cô quyết định bỏ về. Kelly có thể nhờ Charlotte lóp kế bên mở cánh cửa thông sang lóp học của cô và để mắt tới đám học sinh của mình. Cô đã định kết thúc luôn ngày làm việc và đến trường đón Zack, nhưng rồi lại thôi. Cô sẽ đi thẳng về nhà, tìm

hiểu xem chuyện gì đã xảy ra, đánh giá tình hình và rồi sẽ tính tiếp từ đó.

Bushwick, Brooklyn

NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐÓN HỌ tại ngôi nhà trống đứng choán gần như toàn bộ khung cửa ra vào. Bộ râu quên không cạo phủ bóng xuống cái cằm dô làm nó trông như được quét bởi một lóp muội đen. Anh ta mang một cái túi to màu trắng bên hông, một tay túm miệng túi. Chiếc túi trông giống một áo gối ngoại cỡ đựng cái gì đó rất nặng ở bên trong.

Sau màn chào hỏi, người đàn ông to lớn này thò tay vào túi áo lấy ra một bản sao giấy chứng nhận nhàu nhĩ mang con dấu CDC. Anh cho Eph xem giấy chứng nhận.

"Anh bảo có thứ gì đó cho chúng tôi xem?" Eph nói.

"Có hai thứ. Đây là thứ đầu tiên."

Fet nói dây rút chiếc túi và dốc những thứ ở bên trong ra mặt sàn. Bốn con chuột lông lá nằm thành một đống, tất cả đều đã chết.

Eph nhảy lùi lại một bước, còn Nora há hốc miệng hổn hển.

"Tôi luôn nói rằng, nếu muốn gây sự chú ý của mọi người, hãy đem cho họ một túi chuột." Fet cầm cái đuôi dài của một con chuột và nhấc nó lên, thân hình nó lúc lắc qua lại chầm chậm dưới tay anh ta. "Chúng chạy ra khỏi hang ổ trên khắp thành phố này. Thậm chí cả giữa ban ngày. Có gì đó đã làm chúng phải chạy đi. Nghĩa là, có gì đó bất thường. Tôi biết chuyện như vậy đã xảy ra vào thời kỳ Cái chết đen[2], chuột chạy ra ngoài và gục chết trên đường phố. Những con chuột này chạy ra không phải để chết. Chúng chạy ra rất nhiều, còn sống, liều lĩnh và đói khát. Tin tôi đi, khi anh nhìn thấy những biến động sinh thái của loài chuột, điều đó có nghĩa là một tin xấu đang đến gần.

Khi lũ chuột hốt hoảng, có nghĩa là đã đến lúc bán tháo mọi thứ. Đến lúc rời đi. Anh có hiểu ý tôi không?"

Setrakian nói, "Tôi hiểu."

Eph nói, "Có gì đó khiến tôi chưa hiểu hết ý anh ở đây. Chuột thì có liên quan gì với...?"

"Chúng chính là dấu hiệu," Setrakian nói, "như anh Fet đã nói rất rõ. Một dấu hiệu sinh thái. Bram Stoker đã truyền bá truyền thuyết rằng một con ma cà rồng có thể thay đổi hình dạng nó, biến nó thành một sinh vật hoạt động về đêm như doi hay chó sói. Quan điểm sai lầm này có nguồn gốc từ một sự thật. Trước khi các ngôi nhà có tầng hầm và hầm rượu, ma cà rồng ẩn náu trong các hang, hốc ở rìa các ngôi làng. Sự xuất hiện đầy tội lỗi của ma cà rồng thế chỗ cho doi và chó sói, xua chúng tràn vào các ngôi làng - sự xuất hiện của chúng bao giờ cũng trùng với bệnh tật lan truyền và hoảng loạn tinh thần."

Fet chăm chú nghe ông lão. "Ông biết không?" anh nói. "Hai lần tôi nghe thấy từ 'ma cà rồng' trong khi ông nói."

Setrakian bình thản nhìn anh ta. "Đúng thế."

Sau một lúc ngập ngừng suy tư và nhìn từ người này qua người khác, Fet nói, "Thôi được." Và tỏ ra hơi bối rối như chực làm gì đó. "Giờ thì tôi sẽ cho mọi người xem thứ còn lại."

Anh dẫn mọi người xuống tầng hầm. Từ đó xộc ra một mùi hôi hám, giống như thể từ một thứ gì đó mang bệnh vừa bị thiêu cháy. Anh chỉ cho họ thấy thịt và xương bị tán nhuyễn, giờ chỉ là một đống xỉ nằm trên mặt sàn tầng hầm. Bóng nắng hình chữ nhật thuôn dài chiếu qua cửa sổ đã di chuyển, in hình trên bức tường đối diện. "Nhưng nó đã chiếu xuống đây, và chúng đi vào đó, rồi bị đốt cháy ngay tức khắc. Nhưng trước đó chúng xông vào tôi với cái này... cái thứ bắn ra từ dựói lưỡi của chúng."

Setrakian kể vắn tắt cho anh ta nghe câu chuyện mới xảy ra. Về Chúa Tể ranh mãnh trú ngụ trên chuyến bay số 753. về cỗ quan tài mất tích, về những thi thể trong nhà xác sống dậy và trở về với người thân, về những nơi trú ẩn tại gia. về Tập đoàn Stoneheart, về bạc và ánh nắng, về vòi chích.

Fet nói, "Đầu của chúng ngửa ra sau và chúng há miệng ra... và thứ đó giống như một cái kẹo, kẹo của trẻ con - cái thứ thường đi kèm với đầu của các nhân vật trong Chiến tranh giữa các vì sao ấy.''

Nora tiếp lời sau một thoáng suy nghĩ, "Một ống kẹo Pez." "Chính nó. Ta hất hàm, chiếc kẹo thò ra khỏi cổ."

Eph gật đầu. "Ngoại trừ phần cái kẹo, thì mô tả còn lại hoàn toàn họp lý."

Fet nhìn Eph. "Vậy thì tại sao anh lại là kẻ thù số một của cồng chúng?"

"Bởi im lặng là vũ khí của họ."

"Chết tiệt. Ai đó cần phải lên tiếng."

"Đúng thế," Eph nói.

Setrakian nhìn chiếc đèn gắn trên thắt lưng, bên hông của Fet. "Cho phép tôi hỏi anh điều này. Nghề của anh sử dựng đèn cực tím, nếu như tôi không nhầm."

"Đúng vậy. Để phát hiện dấu vết nước tiểu chuột."

Setrakian liếc sang Eph và Nora.

Fet nhìn ông già mặc com lê. "Ông biết về nghề diệt chuột ư?"

Setrakian nói, "Tôi từng có một số kinh nghiệm." ông bước tới chỗ nhà quản lý bất động sản bị biến đổi, kẻ đã bò hoặc lết mình ra khỏi ánh mặt trời, và giờ đang nằm cuộn tròn trong một góc xa. Setrakian xem xét ông ta bằng chiếc gương mạ bạc, và cho Fet xem kết quả. Người diệt chuột nhìn qua lại giữa nhà quản lý bất động sản dưới con mắt thường và hình ảnh nhòe rung của ông ta phản chiếu trong gương. "Nhưng ông khiến tôi có ấn tượng như một chuyên gia về những thứ đào hang và giấu mình dưới lòng đất. Những sinh vật ẩn núp. Những thứ sử dụng con người làm nguồn thức ăn. Nghề của Ông là săn đuổi những thứ độc hại này ư?"

Fet nhìn Setrakian và hai người kia, trông như một người đàn ông đang đứng trên một chuyến tàu tốc hành đang tăng tốc rời khỏi nhà ga thì bỗng nhận ra mình đã lên nhầm chuyến. "Mọi người định đưa tôi vào chuyện gì vậy?"

"Vậy thì hãy nói cho chúng tôi biết. Nếu ma cà rồng là loài gặm nhấm gây hại - một sự truyền nhiễm ký sinh lan tỏa khắp thành phố - anh sẽ làm gì để ngăn chặn chứng?"

"Tôi có thể nói với ông rằng, từ quan điểm của người kiểm soát loài truyền nhiễm ký sinh gây dịch bệnh, việc đầu độc và đánh bẫy chúng chỉ là giải pháp ngắn hạn mà không có tác dựng dài lâu. Xử lý từng con vật xinh xắn này không dẫn ta đến đâu cả. Những con chuột mà các ông nhìn thấy chỉ là những con yếu nhất. Những con đói. Những con thông minh biết làm thế nào để sống sót. Kiểm soát là công việc cần làm. Quản lý môi trường sống của chúng, phá vỡ hệ sinh thái của chúng, cắt nguồn thức ăn và làm chúng chết đói. Khi đó ta sẽ tới được tận gốc của sự lây nhiễm, và dọn sạch nó."

Setrakian gật đầu chầm chậm, rồi nhìn sang Eph. "Chúa Tể. Nguồn gốc của tội ác này. Ngay lúc này nó đang ở đâu đó tại Manhattan." Ông lão nhìn lại người đàn ông không may mắn đang nằm cuộn tròn trên sàn, kẻ sẽ trở nên hoạt bát trở lại khi đêm xuống, trở thành ma cà rồng, một thứ gây hại. "Mọi người hãy lùi lại," ông nói, tuốt kiếm ra. Cùng lời tuyên bố, và với cú chém xuống bằng cả hai tay, ông cắt đứt đầu người đàn ông đó ngay tại chỗ ông ta nằm. Trong khi máu hồng nhạt chảy ra - vật chủ hãy còn chưa bị biến đổi hoàn toàn - Setrakian lau lưỡi kiếm vào áo ông ta và đút nó lại vào cây gậy của mình. "Chỉ cần chúng ta có được chỉ dẫn về nơi Chúa Tể trú ngụ. Đó có thể là nơi hắn lựa chọn và chuẩn bị từ trước. Một hang ổ phù họp với tầm vóc của hắn. Một nơi tối tăm che chở hắn, nhưng lại dễ dàng tiếp cận với thế giới con người trên bề mặt." Ông quay sang Fet. "Anh có biết nơi nào mà từ đó chuột có thể chạy lên mặt đất không? Tâm điểm của sự di dòi này?"

Fet gật đầu tức thì, mắt nhìn xa xăm. "Có lẽ tôi biết đấy."

Phố Church và phố Fulton

DƯỚI ÁNH MẶT TRỜI CHIỀU TÀ, hai bác sĩ dịch tễ, ông chủ hiệu cầm đồ và người diệt chuột đứng trên đài quan sát ở phần nhô cao của công trường xây dựng Trung tâm Thương mại Thế giới, một cái hố lớn có chiều rộng bằng cả một khu phố và sâu hơn hai mươi mét.

Giấy chứng nhận thành phố cấp cho Fet, cùng một câu phỉnh phờ nhỏ - rằng Setrakian là một chuyên gia nổi tiếng thế giới về loài gặm nhấm tới từ Omaha - giúp họ được tự do di chuyển vào đường tàu điện ngầm mà không cần phải có người đi kèm. Fet dẫn họ đi dọc theo chính đường hầm bỏ không mà anh đã lần theo trước đó, rọi đèn pin vào những đường ray đã không còn bóng một con chuột. Setrakian cẩn thận bước qua những thanh giằng ray, chống cây gậy dài quá cỡ của mình xuống lóp nền đá dăm. Eph và Nora cầm đèn Luma.

"Anh không phải đến từ Nga," Setrakian nói với Fet.

"Chỉ có bố mẹ tôi cùng cái tên của tôi là đến từ nước Nga thôi."

"Ở Nga người ta gọi chúng là vourdalak. Họ lan truyền một truyền thuyết rằng người ta sẽ miễn nhiễm với ma cà rồng nếu trộn máu của chúng với bột mì để làm bánh ăn."

"Có tác dụng không?"

"Cũng như mọi bài thuốc dân gian. Người ta nói vậy, nhưng chẳng mấy tác dựng." Setrakian đứng cách xa về bên phải thanh ray thứ ba dẫn điện. "Thanh thép này trông có vẻ tiện dụng."

Fet nhìn thanh cốt thép dài của mình. "Nó là thép thô. Tôi nghĩ là nó giống như tôi. Nhưng nó cũng rất được việc. Cũng giống như tôi."

Setrakian hạ thấp giọng để giảm tiếng vọng dưới đường hầm. "Tôi có vài dụng cụ khác mà có lẽ anh sẽ thấy chúng cũng hiệu quả chẳng kém gì."

Fet nhìn thấy ống xả nước mà những thợ làm công trình dưới hầm trước đây đã sử dụng. Xa hơn phía trước, đường hầm rẽ hướng mở rộng ra, và Fet ngay lập tức nhận ra điểm nút tăm tối này. "Ở đây," anh nói, rọi thấp đèn pin xưng quanh.

Họ dừng lại và lắng nghe tiếng nước nhỏ giọt. Fet quét ánh đèn pin lên mặt đất. "Tôi đã rắc bả bột lần dấu tại đây. Thấy chưa?"

Những dấu chân người in trên lóp bột. Giày da, giày thể thao, và cả chân trần.

Fet nói, "Ai có thể đi chân ứần trong đường hầm tàu điện ngầm chứ?"

Setrakian giơ bàn tay đeo găng len lên. Đường hầm như một cái ống âm học truyền tới tai họ những tiếng rên rỉ từ xa.

Nora thốt lên, "Lạy Chúa..."

Setrakian thì thào, "Đèn của hai người, nào. Bật lên đi."

Eph và Nora làm theo, chùm ánh sáng cực tím công suất cao của họ rọi sáng đường hầm, làm lộ ra chuyển động xoáy hỗn loạn của màu sắc. Vô số những vệt bẩn bắn tung tóe trên nền, trên các vách, các cột thép... khắp noi.

Fet lùi lại vì kinh tỏm. "Tất cả những thứ này là...?"

"Đỏ là chất thải," Setrakian nói. "Những sinh vật này ỉa đái trong khi ăn."

Fet nhìn xung quanh kinh ngạc. "Tôi cho rằng ma cà rồng không có nhu cầu giữ gìn vệ sinh."

Setrakian lùi bước. Ông cầm chiếc gậy theo tư thế khác, nửa phía trên đã được rút ra khoảng mười phân làm lộ lưỡi kiếm sắc sáng loáng. "Chúng ta phải ra khỏi đây. Ngay lập tức."

Fet lắng nghe những tiếng động trong đường hầm. "Tôi không phản đối."

Chân Eph đá phải cái gì đó, và anh bật lùi lại, tưỏng đó là chuột. Anh chiếu đèn cực tím của mình xuống dưới và thấy một mớ những vật gì đó trong góc.

Đó là những chiếc điện thoại di động. Khoảng một trăm chiếc hoặc hơn, chồng thành một đống giống như bị ném vào góc đó.

"ô," Fet nói. "Ai đó đã quăng đi cả một đống điện thoại di động dưới này."

Eph cầm lên vài chiếc nằm phía trên đống đó. Hai chiếc đầu đã chết pin. Chiếc thứ ba đang nhấp nháy báo pin sắp hết. Một biểu tưọng chữ X phía trên màn hình cho thấy không có sóng.

"Đó là lý do cảnh sát không thể tìm ra bất cứ ai mất tích bằng cách gọi vào máy của họ," Nora nói. "Tất cả bọn họ ở dưới đường hầm."

"Căn cứ tình hình này," Eph nói, ném nó trở lại núi điện thoại, "thì hầu hết bọn họ đang ở đây."

Eph và Nora nhìn những chiếc điện thoại, rồi vội vã bước đi.

"Nhanh lên," Setrakian nói, "trước khi chúng ta bị phát hiện." Ông dẫn đầu cuộc rút lui khỏi đường hầm. "Chúng ta phải sẵn sàng."

chú thích

[1] Một địa danh ở Romania nổi tiếng.với những truyền thuyết về ma cà rồng.

[2] Cái chết đen: chỉ trận đại dịch hạch xảy ra ở châu Âu thế kỷ 14.