← Quay lại trang sách

- 2 -

Con chép này, bác bán bao nhiêu?

Dì Mơ giật mình, ngẩng lên. Một bà trạc ba mươi, môi thoa son đỏ chót, đương cúi nhìn con chép nằm trên mẹt, mang còn phập phồng thở. Dì Mơ lưỡng lự. Nào đã bán cho các bà ở tỉnh bao giờ! Mà xưa nay dì có ra chợ bán cá đâu? Mọi khi đánh được cá, dù nhiều dù ít, là xã Minh kho nấu để nhà ăn; có nhiều thì đem biếu u Trà nó, chứ bán làm gì! Nay nhân người ở tỉnh về nhiều cũng có, phần vì cân thóc đổ thuế cũng có, nên mới phải bán để lấy đồng ra đồng vào thêm cặp, chứ mươi sào ruộng sao cho đủ ăn!

Dì Mơ ngập ngừng:

- Tùy bà, bà cứ trả cho.

- Ô hay nhà bác này, bác bán bao nhiêu thì nói chứ! Thôi trả cho một đồng đấy.

Con chép tươi ngon nằm ngang mẹt, giá xắt ra được tới năm khúc ấy.

- Bà trả thêm cho...

Bác xã Tèo ngồi bên cạnh, cũng chêm vào:

- Vâng, bà trả thêm cho. Bẩm, con cá tươi ngon lắm. Thôi, dì bán rẻ hầu bà phán đi. Ấy, bà phán trong cụ Chánh Bá nhà đấy mà... Bẩm bà, con cá này phi trong cụ, ai dám mua? Thôi thì bà trà thêm cho ít nhiều.

Bác nói rồi, hềnh hệch cười, như đắc ý cho là mình khéo lắm.

Dì Mơ thẫn thờ, lơ đãng cầm tàu lá sen phe phẩy xua mấy con ruồi vo ve sán lại gần.

- Thôi, trả thêm năm hào là đồng rưỡi, đắt rồi đấy!

Dì Mơ uể oải khẽ lắc dầu. Bà phán Thành cau mặt:

- Gớm, đồng rưỡi còn chả bán. Đòi bao nhiêu nữa? Chả bán, nhà bác đem về mà ăn!

Dì Mơ nghẹn ngào như tắc lấy cổ. Cái quá khứ đọa đầy, muốn quên mà quên sao được. Dì lặng lẽ cắp rổ cá mải miết đi về xuôi. Dì muốn đi nhanh, đi thật nhanh cho xa khuất cái chợ để không một ai nhìn thấy dì nữa. Bây giờ bà phán Thành có trả tới năm chục đồng, dì cũng chẳng bán... Cái gia sản ruộng sâu trầu nái của nhà cụ Chánh Bá, há chẳng đã chứa đựng bao nhiêu công lao mồ hôi nước mắt của dì trong những năm dì mang tiếng là mợ cả Thành, là nàng dâu ư? Để tới khi cậu cả Thành được cái danh ông phán Thành, thì mợ cả Thành cũng được ruồng bỏ ra khỏi cửa cụ Chánh Bá, mà chấm dứt cảnh ngộ con dâu là người ở, mà vợ là vú em! Nếu không nhờ mấy năm liều mình lưu lạc tha phương cầu thực, dành dụm được ít tiền, tậu được mươi sào ruộng, nếu không được người bạn gái cũ cho cu Minh làm con nuôi thì đời cô Mơ còn gì nữa? Lúc mới trở về dưới bóng tre xanh, Mơ còn lén lút sợ quyền thế cụ Chánh Bá, nhưng rồi ngày qua ngày, cuộc đời nghèo hèn ấy đâu còn vương lại chút âm thanh nào? Mẩu đời của cô Mơ cũng chỉ như viên gạch nhỏ ném xuống vũng ao tù khẽ gợn mặt nước trong khoảng khắc rồi chìm lỉm dưới làn nước xanh rờn và phẳng lặng. Nên chi cô Mơ cố trở về cần cù cùng dân làng Thụy, kéo dài cuộc đời vất vả, phải làm vì thấy như luật lệ cổ truyền là phải làm từ sớm chí tối, thì họ chỉ thêm thương mẩu đời bạc phúc. Rồi năm, tháng qua, cô Mơ luống tuổi đã thành Dì Mơ để cứ lặng lẽ cắm cúi trên mươi sào ruộng, chất phác và thuần chính như một sương phụ dưới bóng tre xanh rờn...

Quãng đời dĩ vãng thật khó mà tan hẳn trong tâm não người đàn bà. Bao nhiêu năm muốn sống mà phải nhẫn nhục với số mệnh, dưới áp bức đầy đọa nơi bùn lầy nước đọng, thật là vết thương khó lòng hàn gắn. Nên giờ đây, dì Mơ không muốn cho bọn họ nhờ có tiền của mà mua nốt cả công lao của con dì.

Dì Mơ mải miết về như người đi trốn không cần để ý đến những người làng nhìn theo thương hại.

Dì đặt rổ cá xuống hè đất, thẫn thờ ngồi bệt lên cần cối giã gạo vừa lúc xã Minh về.

- Dì không bán được cá ư? Con nói để nhà ăn, dì cứ chả nghe.

- Thì cũng muốn bán cho có đồng ra đồng vào, dành dụm lo công việc hàng phe hàng giáp cho anh chứ!

Xã Minh chặc lưỡi:

- Phận dì con mình nghèo, tiền đâu mà vọng quan viên. Mới lại vọng mà chả có tiền, cũng chả ai coi vào mùi gì!

Dì Mơ đâu có để ý đến câu chuyện đương nói. Dì còn thẫn thờ vụt thấy trước mắt dáng điệu hợm hĩnh, nét mặt kiêu hãnh của bà phán Thành. Tâm hồn chất phác của dì không thể phân tách thấu triệt tình cảm ra sao, mà chỉ thấy bực tức. Trước mặt người đàn bà đã vì họ mà chồng dì - dù chẳng gọi là chồng nữa - đã khi dể phụ bạc dì, vì họ mà gia đình cụ Chánh đã phũ phàng bêu xấu làm hại cả một đời dì (1), mà nay cũng là người đàn bà ấy lại ngang nhiên kiêu hãnh trước mặt dì, thì làm sao khỏi tủi hờn? thì làm sao khỏi tủi hờn? Cái tức giận thù ghét phán Thành cùng cụ Chánh Bá, mọi uất ức xa xăm xưa... hết thảy nay như chung đúc vào bà phán Thành, con người tân thời, đài các, giầu có, khinh người ấy. Rồi dì ghét lây cả cái bọn người nơi đô thị, nay vì bom đạn mới thèm về di trú nơi thôn quê cô tịch hủ lậu này. Tình ý căm hờn ấy bỗng buột ra trong câu nói bâng quơ:

- Ừ, bán làm gì cho bọn họ ăn! Bọn họ chỉ quen cậy của!

Xã Minh ngơ ngác không hiểu. Anh đâu thấy được những hình ảnh vừa dồn dập trong trí não dì Mơ, nên ngập ngừng hỏi lại:

- Dì bảo đừng bán cho ai? Những người ở tỉnh ấy à? Họ thì mới có tiền chớ; họ chẳng mua, ai mua?

Dì Mơ chợt nhận thấy câu mình nói là bâng quơ, vội gượng cười:

- Tại ban nãy bà phán Thành trong cụ Chánh trả có đồng rưỡi nên tao không muốn bán.

Xã Minh nín thinh, cúi nhặt rổ cá đem ra bên vại nước đánh vảy.

Minh thương dì Mơ lắm, tuy dì chẳng hề kể lể chuyện của dì. Minh chỉ nhớ hồi còn bé được dì yêu lắm. Bẵng đi một dạo, không thấy dì đâu nữa. Khi dì Mơ về, thấy lại chơi với u Trà nó luôn. Một bữa u bảo: ‘‘Minh ơi, tao cho mày làm con dì Mơ nhé? Dì yêu lắm cơ, tha hồ mà ăn quà’’. Nào Minh có biết thế nào là con nuôi đâu, nên thích ý vỗ tay cười vang. Thế rồi Minh theo dì Mơ về. Nhà dì cũng lợp lá, cũng chõng tre, mà còn nhỏ hơn nhà u Trà nó nữa. Nhưng Minh vẫn thích.

Cuộc đời bình thản của dân quê đầu tắt mặt tối như truyền kiếp sống chết với đồng ruộng, cứ lặng lẽ tiếp tục. Cu Minh theo thời gian cũng như trăm ngàn dân quê khác, đã học lấy cái nghề nuôi sống họ, dù cho vất vả, cực nhọc. Nếu không, còn làm cách nào hơn được? Minh lớn lên, làm đủ công việc của người nông phu mẫn cán thì dì Mơ cũng luống tuổi. Nhưng cái gia đình heo hút ấy đã sống những ngày ấm cúng mà chính họ không hay.

Minh càng lớn, càng thường dì Mơ như thương u Trà nó, mà coi chừng còn quyến luyến hơn. Minh cũng thắc mắc muốn biết tại sao dì Mơ lại ở một mình với Minh như vậy. Hình ảnh thuở nhỏ hỗn độn, lờ mờ: cụ Chánh, cậu phán Thành, v.v... hết thảy đều mơ hồ không giúp Minh hiểu được chút nào. Vẫn biết chuyện dì Mơ thì làng Thụy ai chẳng biết; nhưng Minh không muốn tin, cứ yên trí chính dì Mơ hay u Trà nói mới đúng được. Minh đã hỏi u Trà, nhưng u nó chỉ cười: ‘‘Rồi lớn lên mày biết!’’.

U Trà nói đúng. Mỗi năm lớn lên, truyện dì Mơ, Minh lại rõ thêm một ít. Minh càng thêm thương dì, càng thấy ghét gia đình cụ Chánh Bá tệ. Khối ốc bình dị của Minh đã cho Minh quan niệm rằng người giầu chẳng có thương kẻ nghèo mà chỉ lấn hiếp, và những người ra tỉnh theo tây học, ông tham, ông phán, đều lố lăng bất nhân bạc nghĩa làm gì có nổi được cái nghĩa khí nho phong mà u Trà nó thường nhắc nhở một cách kính phục mến tiếc. Càng lớn, quan niệm ấy càng ăn sâu vào tâm não Minh, nên Minh càng khó chịu về thái độ kiêu kỳ khinh người của ông phán Thành đôi khi về quê thăm cụ Chánh Bá, và Minh lại càng bực tức về cái lối tự do hách dịch của bà phán. Minh thấy ghét họ quá, ghét vì họ đã phụ bạc dì Mơ, ghét vì họ ăn trên ngồi trốc hưởng mọi quyền lợi ở làng, mà nào cho làng xã nhờ vả được gì? Hay động một chút là cụ Chánh đe sẽ bảo ông Phán làm tận chỗ ông Thống Sứ trị tội cho... Minh hậm hực, chỉ mong sao trời làm biến cố cho họ phải khổ sở mới thật là chí công. Minh tin ở phúc đức con người, và ao ước như vậy. Nhưng nhà cụ Chánh Bá cứ giầu thêm. Ruộng cụ cho cấy thuê, cứ chẻ hoe mỗi năm gạt đủ thùng cụ thu. Hết thảy như trời thật khéo chiều, và địa vị ấy tương chừng như bất di bất dịch. Cụ Chánh Bá vẫn cứ ung dung hách dịch. Cho đến cả cái năm xã Minh rẽ lúa về cho ông giáo, thấy nói

chuyện rằng xem báo các nước họ đánh nhau to lắm, rồi quan phủ về tận làng hiểu dụ dân, phát cả tranh một ông tướng già có cờ tam tài sáu lưng, bảo là quốc trưởng nước Đại Pháp, dạy đem dán ở nhà, Minh được một tấm thấy xanh đỏ cũng đem dán ở cánh cửa như tranh các ông tướng dán ở cổng vào ngày Tết. Nhưng đời sống ở làng Thụy tuy vẫn êm ả song đã khác. Khác vì thuế má cứ thấy bổ thêm, hết thuế đinh, thuế điền, lại còn phải cân thóc nạp cho chánh phủ. Dì Mơ và u Trà nó cũng phải làm thuê làm mướn. Dì Mơ và xã Minh, có hai người cùng làm được, lại có mấy sào ruộng nhà mà cũng chỉ loanh quanh vắt mũi bỏ mồm, áo quần rách rưới cũng chẳng xoay đâu ra mua được nữa. Sang đến năm Thân này thì quá lắm, làng trên tổng dưới đã dục dịch nhộn nhạo cướp trộm luôn.

Bẵng đi một giạo, lại ầm ầm đồn đại quân Nhật tới. Rồi có lệnh phá ruộng trồng đay. Thóc cứ cao, gạo càng kém. Người trên tỉnh kéo về tản cư tránh bom đạn thêm đông. Xã Minh biết rằng đó là thời loạn. Nhưng làng Thụy dưới bóng tre xanh mát vẫn êm tĩnh, và thật còn xa cảnh đốt nhà giết người như các cụ thường kể khi nhắc chuyện Tây sang hạ thành và giặc Cờ đen cướp bóc... Biết có ‘‘thái bình’’ mãi như vậy không? Và bao giờ mới ra khỏi vòng túng thiếu đói rách này?

Xã Minh vừa làm cá, vừa miên man nghĩ. Những ý tưởng lộn xộn ấy đã nhiều lần đến với xã Minh, nhưng hắn thoảng vụt quên ngay để chúi đầu vào công việc hàng ngày. Dì con xã Minh tuy có đôi chút chữ nghĩa, đọc và viết thông chữ quốc ngữ, song có lúc nào bộ óc giản dị của dì Mơ hay của xã Minh bị giam cầm sau lũy tre, lại có thể tìm nghĩ xem ý nghĩa cuộc đời họ ra sao? Đã biết bao thế hệ rồi? Người dân quê Việt nhẫn nhục chịu để lo lắng cho đời sống thực tế. Họ chìm lẫn trong biết bao tập thể, nào tiểu gia đình, đại gia đình, nào phe, giáp, xóm,làng...; sống trong thiếu thốn, họ vẫn đình đám, đóng góp, rồi thuế má chồng chất. Nếp sống truyền tử lưu tôn ấy cứ xuôi dòng chảy mãi.

Chú thích:

(1) Xem Bóng Tre Xanh, cùng một tác giả, Nguyễn-Đỗ tái bản (1957)