← Quay lại trang sách

- 3 -

Xã Minh làm cá xong thì trời vừa tối. Càng về chiều, gió càng thấm lạnh. Tiếng kẽo kẹt nơi bụi tre xơ xác càng đổ mau và ngân dài. Đêm mùa lạnh ở thôn quê Bắc Việt bao giờ là chẳng não nuột cô liêu. Bức vách mỏng, nền đất nện không sao chắn nổi gió bấc giá buốt. Đêm lạnh ở đô thành, dưới ánh điện, dù ở những ổ chuột nơi ngõ hẻm nữa, cũng còn ấm cúng vì hơi nóng của bao con người bốc tỏa, vì còn nghe tiếng người, tiếng xe nhắc nhở rằng con người đang sống. Chứ thôn quê bao la quá, im lìm quá, nên lòng người càng cảm thấy heo hút, chơ vơ.

Xã Minh đổ trấu vùi xong niêu cá, thì dì Mơ cũng đã khêu sáng ngọn đèn dầu lạc. Gần một năm nay rồi, thật khó mà kiếm nổi một giuộc dầu hỏa! Ánh sáng ngọn đèn không phá tan được bóng tối dày đặc. Dì Mơ cúi sát bên đống lửa cố vá chằng vá đụp chiếc áo nâu bạc thếch. Đôi mắt hiền từ đầy mệt nhọc dưới ánh sáng vàng khè đã không còn một chút sinh lực. Đau khổ và nghèo nàn đã sớm làm già khuôn mặt xinh tươi duyên dáng ấy. Dì mỏi mệt thõng tay, ngẩng lên:

- Minh à! Cứ thế này mãi rồi lấy gì mà ăn, mà mặc? Nhà mình may không phải trồng sào đay nào đấy, chứ như vụ vừa rồi phải ra đình cân thì thật chết. Hôm ấy, mấy thằng Nhật nó đánh anh Tư Lù mà chẳng khiếp à! Khốn nạn, đau thế chả biết đã khỏi chưa?

Xã Minh ngừng đọc cuốn truyện Thạch Sanh rách nát, vùng nhổm dậy:

- Khỏi đâu mà khỏi! Nó đánh cật lực, tưởng anh ấy còn đay giấu đi không chịu cân cho đủ. Chúng sục cả vào nhà. Khổ, nhà anh Tư Lù thì còn gì nữa, rỗng như đít bụt ấy! Đánh thừa sống thiếu chết, chắc gì còn sức mà làm vụ màu này... Mà lại còn sắp cân thóc nữa, chưa biết bổ bán ra sao. Tiếng là ruộng đồng làng ta hai mùa, nhưng giời làm khó khăn thế này, chiêm se mùa ỏng, được ít thùng thóc, bắt cân mãi rồi đến chết đói to.

- Thì chết đói rồi đấy thôi!

Một tiếng khóc thất thanh từ xóm bên, vượt tăm tối vọng lại. Dì Mơ nhớn nhác nghe. Xã Minh chau mày:

- Hẳn lại nhà xã Tèo. Thằng cu Nhớn ốm mấy ngày nay. Cơm còn chẳng có mà ăn, lấy đâu ra thuốc! Cơ sự này thằng bé hỏng mất.

Tiếng khóc rền rĩ, mệt nhọc, văng vẳng trong đêm tối.

- Minh à! Hay mày thử chạy sang xem. Tội nghiệp!

Xã Minh khoác vội chiếc áo đụp, nhanh nhẹn lách qua cánh liếp. Dân quê đi trong đêm tối bằng linh tính, bằng quen đường. Họ thuộc từng mô đất, từng khúc quẹo của mọi lối xóm nhỏ khúc khuỷu trong làng.

Xã Tèo giai ngồi bệt dưới đất, bên mấy gốc tre âm ỉ cháy dở; trên chiếu rách, cu Nhớn co dúm, cứng nhắc như con chó già ốm đói ; xã Tèo gái rền rĩ khóc con. Xã Minh vào, thêm dịp cho xã Tèo gái kể lể. Nào cháu nó sốt có mấy cơn mà đi đứt, tội nghiệp! Nào thằng bé sáng sủa thế, giời chứng sống ắt có phận nhờ. Xã Tèo giai lầm lũi, mệt nhọc ngắt lời vợ:

- Thôi, mẹ cu đưa nó đi cho xong. Khóc cũng chả lấy lại được nữa.

Xã Tèo gái vội túm vạt áo lau nước mắt, loay hoay cuốn chặt xác con trong manh chiếu rách, manh chiếu cuối cùng còn lại, để trơ lượt ổ rơm nằm đã dí. Đâu đấy rồi, bác đặt xác con vào trong chiếc thúng cũ, tay cầm mai, tay cắp thúng, âm thầm bước vào đêm tối. Không một giọt nước mắt; chẳng còn một tiếng khóc. Người mẹ quá bị giầy vò trong muôn vàn khổ đau khác, lo hiện tại và kinh hoảng ngày mai, nên cũng như mọi con vật mẹ khi bỏ con, đau khổ chỉ vụt thoáng qua, bâng khuâng rồi quên ngay được... Và như muôn ngàn người mẹ nghèo nàn nơi thôn quê Bắc Việt, đau khổ đấy, xã Tèo gái sẽ vẫn như cái máy hì hục nhấn mạnh thép mai, đào lấy cái huyệt nhỏ vùi xác con. Rét như cắt ruột. Đất ruộng cuối mùa hanh, khô màu, tơi tả tan dưới thép mai, như đời người nông dân Việt năm này qua năm khác bị đào lên trộn xuống, hoà lẫn mồ hôi, nước mắt, rồi cả xương thịt nữa, với đất, với phân màu... để làm nẩy bông lúa óng vàng, hạt gạo trắng, nuôi sống bao con người vô tâm khác, mà riêng họ thì chẳng hề no đủ.

Xã Tèo không ngoái mắt nhìn vợ đem xác con đi. Xã Minh ái ngại, bâng quơ nhìn xã Tèo gái cắp thúng biến vào đêm tối; nó chẳng biết nói gì đây! Chán rồi, nó vụng về lại ngồi xuống bên đống lửa, vơ chiếc điếu cày rít một mồi thuốc. Sau rốt cũng đưa đẩy được một câu:

- Thôi anh Xã ạ. Số kiếp nó thế, chả nên nghĩ ngợi làm gì. Tôi nghe tiếng chị xã khóc, vội đâm quàng đâm quáng chạy sang.

Xã Tèo chép miệng:

- Số kiếp chúng tôi sao khổ thế. Chú tính, cả nhà còn được mỗi thùng ngô để dành xay độn ăn đập đất. Cháu nó ốm, bấm bụng bán đắt bán rẻ bốc lấy mươi chén thuốc của ông thầy khách. Ai ngờ cháu vẫn hỏng, mà trong nhà một hột nay chả còn. Biết lấy gì mà ăn mà làm cho tới vụ chiêm!

Một tiếng nấc khẽ nghẹn ngào trong cổ.

- Thằng cháu Nhớn bỏ, nghĩ tội nghiệp. Nhưng giá có sống thì nó cũng đến khổ.

Mắt xã Tèo bỗng vụt sáng, hắn hằn học dúi mạnh gốc tre đương cháy dở vào giữa đống lửa:

- Cùng quá, hồi chiều vào hỏi nhờ cụ Chánh Bá hai thùng ngô tưởng cũng liều đến mùa trả bao nhiêu thì trả, thế mà cũng không cho vay. Độc thật!

- Anh vẫn ra vào trong cụ ăn đỡ làm giúp xưa nay cơ mà?

- Thì vẫn! Vay thì trả, có bao giờ lần khân đâu? Của đáng tội, có vụ tháng mười này vì thóc xấu quá nên thiếu lại một thùng về chỗ lãi, cũng tính rồi ra làm công trừ dần. Thế mà không cho vay nữa. Mẹ kiếp!

- Cụ ấy bảo khéo: ‘‘Tiếng thế tôi cũng chẳng có. Năm nay các ông các bà ấy ở tỉnh chạy về cũng là chỗ quen thuộc, sang trọng, nên tôi phải lo chu tất, thành ra chả có đâu mà dư dật. Giá như mọi khi, chả tiếc anh đâu’’.

Xã Minh hậm hực, vội ngắt lời:

- Lạ gì! không muốn cho vay thì nói thế, chứ ở tỉnh ai ăn gì đến ngô. Mới lại, một hai thùng họ thấm thía vào đâu. Thôi anh xã ạ, dì tôi cũng chả biết có còn đủ ăn tới mùa không; để tôi về xem, nếu có bớt được thì anh vay ăn đỡ ít bữa. Tôi xoay xỏa sau vậy.

Xã Tèo không đáp, lầm lũi nhìn ngọn lửa thoi thóp. Lúc này đây có lẽ xã Tèo gái đã cho thúng xác con xuống huyệt và đương lấp đất cho nó mồ yên mả đẹp.

Có tiếng mõ đổ hồi từ đầu xóm đưa lại. Xã Minh chậc lưỡi:

- Lại thúc!

Xã Tèo nhăn nhó:

- Đằng chú phải cân bao nhiêu? Thật từ thưở cha sinh mẹ đẻ chả bao giờ tôi thấy thế này. Xưa kia mỗi năm một lần thuế đinh, thuế điền đã đủ chết bỏ cha; song sau vụ ngô, thu vén bán đi nộp thuế còn đỡ. Nay thuế gì mà thu tới hai ba lần, hết cân đay lại cân thóc!

Tiếng mõ dồn dập đổ lại gần.

Ba ngày nay rồi, tiếng mõ lẩn quất trong không gian. Từ xóm đồng qua xóm bãi, từ xóm thượng đến xóm hạ, tiếng mõ hết hồi này qua hồi khác khi gần kế bên, khi từ xa vẳng lại cứ đè nặng lên dân làng. Tiếng mõ đã thúc bách, mà ban ngày lát lát lại còn thêm những hồi trống ngũ liên trên điếm thôi thúc. Trống ngũ liên đổ hồi là báo động, phi cháy thì có cướp hoặc đê làng bị núng về mùa nước lụt. Song trống ngũ liên cũng còn để đốc thuế. Dân làng nháo nhác; thuế đinh thuế điền đã nộp từ tháng năm, tháng sáu ta rồi! Đây lại là một thuế mới: cân thóc nộp cho nhà nước!

Tiếng mõ ‘‘cốc, cốc...’’ lan qua các ngõ xóm khúc khuỷu; tiếng trống đổ hồi như từng đợt sóng biểri ào ào xô đến... đã rung động lũy tre và gieo lo âu hãi hùng lên đồng ruộng. Phải ở thôn quê miền Bắc Việt mới cảm được hết thế nào là tiếng mõ. Có tiếng mõ từ tốn, ôn hòa, nhàn nhã mời dân làng ra họp về những dịp hội hè, đình đám; có tiếng mõ đĩnh đạc, rắn rỏi khi rao lệnh cho làng theo; mà cũng có tiếng mõ gay gắt thúc giục đầy de dọa khi đòi dân mau ra nộp thuế. Anh mõ làng thúc thuế thì không cần rao, cứ giong ruổi hết ngõ này qua ngõ khác, dùi mõ khua rộn trên mõ tre. Tiếng ‘‘cốc, cốc...’’ như bàng bạc trong khí giời, lọt qua hàng rào thưa, suốt qua tấm vách mỏng, lọt vào tận căn nhà tối tăm, chẳng kể ngày đêm, không để cho người dân quê kia được nhãng chút nào rằng bổn phận là mau mau nạp thuế. Kể gì trưa, chiều, sớm, tối, mõ cứ rộn vang, gay gắt khó chịu, đến những người kiên gan nhất cũng phải nóng lòng, những người liều lĩnh nhất cũng phải lo lắng. Thiếu ăn, được. Rách rưới, được. Công nợ nghe rủa chửi, được. Bán vợ đợ con, được. Nhưng người dân Việt không thể không đóng thuế. Thiếu thuế là một tội ghê gớm, không một ai dám tưởng đến. Dân quê khổ sở vì thuế, điêu linh vì thuế, mà vẩn nhẫn nhục chịu nạp thuế. Nên khi tiếng mõ thúc thuế đã nổi lên là dân làng bắt đầu nháo nhác.

Tiếng báo động ấy từ ba ngày nay đã cuồn cuộn nổi lên như giông tố, và đến cái giây phút này cũng không buông tha cho xã Tèo. Cu Nhớn đã chết; thùng ngô cuối cùng đã bán. Song thuế thóc, xã Tèo vẫn chưa nạp được! Nét mặt hốc hác thiếu ăn, thiếu ngủ như đã trút hết khí lực, xã Tèo rền rĩ:

- Còn gì nữa. Thôi thì cũng liều cho làng trăng trói. Cái nghèo là cái nhục.

Xã Minh rùng mình. Thân hình gầy guộc, xạm nắng trong manh áo rách tả tơi kia như xác ma sống lại, không biết còn phải là xã Tèo không nữa?...

Một luồng gió bạo tàn vụt tràn ngập miền quê đất Bắc. Con vật nặng nề đần độn đã rùng mình. Còn hoang mang, song chỉ một tiếng gọi là đủ cho nó vùng dậy, điên cuồng tàn phá...

Xã Minh không đi tắt về nhà, mà lại vòng ra phía ngõ xóm. Hắn cũng chẳng biết tại sao nữa, âu cũng là thói quen khi chẳng có việc gì, đi mua đường la cà chơi vậy.

Hắn lủi thủi đi. Xã Tèo không còn lấy một hạt ngô, hạt thóc... Cu Nhớn đã chết có độc một manh chiếu rách... Thóc thuế chưa cân... Hắn lởn vởn nghĩ, mà cũng chẳng hiểu nghĩ làm gì. Từ hai bờ rào, chó thấy bóng người cứ giồ ra sủa tíu tít. Tới đầu ngõ, tiếng cười nói rộn vang vượt qua bức tường gạch cắm đầy mảnh chai, cao hơn đầu người một với. Tiếng người vui vẻ quá! Ánh đèn sáng ngoài sân hừng đỏ lên cao, trông thật ấm áp. Hắn tò mò vòng ra phía trước, nhòm qua khe cổng.

Ngôi nhà ngói năm gian sáng choang dưới ánh đèn ‘‘măng sông’’. Hai bàn tổ tôm có lẽ gần tan hội. Cụ Chánh Bá coi bộ được to, vuốt râu đắc ý ra mặt. Tiếng xướng, tiếng phỗng nghe đến ròn rã. Một lát, người nhà bưng lên hai mâm khói bay nghi ngút, đặt ở bàn lớn ngay gian giữa. Rồi tiếng bà phán Thành lanh lảnh ra tận ngõ: -‘‘Mời các cụ, các ông, các bà hết hội này nghỉ tay, xơi cháo gà đã. Rồi xin họp tiếp’’. Tiếng cụ Chánh bà the thé nói theo:

- Mời các Cụ thoang thoáng hết hội cho. Chín giờ rồi. Quê mùa cơm chiều từ sớm chắc cũng đói rồi còn gì. Cụ Hường nhỉ, mỗi lần ra chơi tỉnh, tám chín giờ tối mới ăn cơm, có bữa tôi bị đói mê tơi.

Dứt lời, cụ khanh khách cười. Tiếng mọi người nhao nhao trả lời. Cụ Hường bà nheo cặp mắt, nói nịnh chị dâu:

- Gớm, bác cứ lo! Hai bác nhồi cho như nhồi vịt ấy, còn bụng nào mà đói.

Nhưng cụ vội xòe bài, hạ xuống chiếu:

- Kìa tam văn! Tôi xin ù vét hội đây này. Trình làng: có thông tôm lèo! Xuyên một tiếng tam văn... thế mà lên, may thật.

Như để tự thưởng cho ván bài vét hội, cụ hà hà cười:

- Chị phán này! Ăn mãi gà vịt rồi. Mùa cá quả đấy, mai chị làm bữa cháo ám các cụ xơi nhé!

Tiếng cười nói lại nổi dậy, bàn tán xôn xao- ‘‘Ấy, tại cụ đấy; tự nhiên đi đánh tam văn, còn quân nữa lật nọc, đánh lành chẳng đánh! ”, - ‘‘Cuối nọc tam vạn, có phải tôi ù vét nọc rồi không!’’...

Mọi người uể oải, vuôn vai đứng lên quây quần bên bàn cháo. Tiếng thìa đũa khua động bát chén. Tiếng gọi, tiếng thưa...