- 7 -
Thế rồi qua vụ mùa tháng mười, phủ bộ có chỉ thị về là tình hình gay go trở lại do thực dân Pháp kiếm chuyện gây hấn, nên nhân dân cần vận dụng toàn lực chống lại, và triệt để đề phòng Việt gian. Các ủy ban xã phải xét hỏi chứng minh thư cho ráo riết, và tổ chức liên lạc cho nhanh chống, ủy viên quân sự Khước vội vã triệu tập thanh niên, võ trang bằng giáo mác, và cắt đặt canh gác tại hai trạm trên đường đê. ủy viên liên lạc Minh cũng tíu tít bận chạy đi chạy lại. Song nói cho cùng, đều vẫn mơ hồ vì chẳng có tin tức gì. Có gặp anh ủy viên liên lạc xã thì cũng như Minh, chỉ hay rằng thực dân Pháp ngoan cố, và chính phủ cách mạng quyết đập tan, nên toàn dân càng phải tích cực chuẩn bị chiến tranh, và phòng ngừa Việt gian. Nào ai có thể tưởng tượng được Việt gian như thế nào? Chỉ biết là ghê gớm lắm, như một thứ quái vật dò la để phá hoại; hễ có bóng Việt gian tới chỗ nào là chỗ đó tan nát ngay, tưởng chừng như ‘‘giặc phạm nhan’’ thời xửa thời xưa các cụ vẫn kể, cho tới khi bị đức thánh Trần giết đi còn hóa làm ruồi làm muỗi hại người ta mãi mãi.
Trong không khí hoang mang nghi ngại ấy, đột nhiên lại thấy người Hà Nội lục tục về làng. Nhưng lần này thì không hẳn là những người hồi trước nữa. Mặt quen cũ có, mà còn có nhiều người mới. Họ giản dị hơn trước nhiều, song dân làng thấy họ vẫn phong lưu chán, tuy không nhởn nhơ kiêu hãnh vung tiền như hồi năm nào ; họ dè dặt và lo âu hơn. Tuy nhiên vẫn không có gì khác lạ, tuần này rồi tuần khác vẫn trôi qua trong êm tịnh...
Cho đến cái đêm mười chín tháng chạp (1) cả làng Thụy sửng sốt vì tiếng nổ dữ dội. Họ chạy vội lên mặt đê, hướng về phía Hà Nội thấy sáng rực cả một góc chân trời. Ai nấy nhớn nhác, không còn lòng dạ nào mà nằm ngủ được nữa. Tiếng nổ liên tiếp, màu đỏ của ánh lửa ửng lên trời như đẫm máu. Thôi, thế là chiến tranh thật sự rồi! Trời vần vụ những mây. Về khuya, tiếng nổ có bớt phần nào, song có lẽ lửa vẫn bừng bừng cháy. Vành trăng đỏ kệch như nhuộm máu, hình vòng cung in trên nền trời đục ; gần đấy, một ngôi sao lớn, đỏ rực không kém, như hệt một viên đạn lửa mà vùng cung trăng vừa mới bắn ra lơ lửng giữa trời. Cái màu đỏ như lửa và máu sao mà lạ thế! Đích thị là triệu chứng đại loạn rồi. Dân làng túm năm tụm ba trên mặt đê bàn tán xôn xao. Gần về sáng, đã có người từ miệt Hà nội chạy về xuôi qua làng Thụy. Ai nấy túm lấy hỏi. Quả thật đã tác chiến tại thủ đô! Tự vệ thành và dân quân du kích đương tấn công; chủ lực quân thì rút khỏi ra ngoài để bao vây và yểm trợ.
Mấy Ủy viên liên lạc xã chỉ còn biết tất tưởi chạy từ xã trên xuống xã dưới, và từ xã dưới lên xã trên... và họ đành ngơ ngác nhìn nhau xem từ phủ bộ có lệnh gì về không, chứ biến cố thì rõ ràng là thủ đô đương tác chiến rồi! Ủy viên quân sự cũng lo âu ra mặt. Nhớ lại chi thị của phủ bộ là đề phòng Việt gian, song từ lúc tiếng súng nổ vọng về, ai nấy nóng lòng chờ, mong gặp được người nào từ miền trên về xuôi qua mặt đê để túm lại hỏi tin tức, thì còn nghĩ gì đến chuyện khám xét?
Càng gần sáng, dòng người từ ngược kéo về xuôi càng nhiều. Đã có những mảnh bè trôi giạt vào làng Thụy và vương lại. Nét hãi hùng và lo âu còn in trên mặt họ. Ngày mai vô định như đe dọa những con người bồng bế nhau tản cư trong vội vã và túng thiếu.
Cái đêm lịch sử ấy đã làm cho cả làng Thụy nhỏ bé, xưa nay êm ả sống, phải thức sáng đêm trong hoang mang hãi hùng...
Thọ lúi húi giặt quần áo ở cầu ao. Thọ cũng thao thức suốt cái đêm vang rền tiếng nổ từ phương Bắc vọng về, và chẳng hiểu sao cứ nao nao sợ khi nghe tiếng dân làng xao xác trên bờ đê. Con chim nhỏ bé như linh cảm được giông tố đã nổi lên, mà hãi hùng vì yếu ớt. Sớm mai, nước ao lạnh buốt. Lòng Thọ cũng tẻ lạnh và u tịch như làn nước im lìm chết dưới rặng tre xanh. Thọ chỉ còn biết chờ đợi. Chờ đợi những biến chuyển bất ngờ của số mệnh. Người dân quê Việt đâu có nghĩ đến tạo ra cuộc đời cho họ? Thời thế và số mạng cứ việc mà xô đẩy, họ kiên nhẫn sẵn sàng chịu đựng.
Có tiếng người dừng bên hàng rào tre hóp thưa thớt. Thọ giật mình vì tiếng Minh gọi vọng qua:
- Cô Thọ ơi! Có người quen ở thủ đô chạy về hỏi thăm đằng nhà đây này!
Thọ chạy vội ra mở cổng, và bỡ ngỡ chào người khách lạ.
Minh cười, nói như giao hẹn:
- Sớm tinh sương, tôi vừa từ nhà lên trạm gác thì gặp ông đây vào trình giấy, và hỏi thăm đằng nhà. Thấy sớm quá, nên chờ tới bây giờ tôi mới đưa lại. Thôi, cô vào bẩm bà; tôi về nhé!
Thọ nào có biết họ hàng ra sao, nên ngượng ngập, và e ngại. Thấy Minh quay đi, Thọ cuống quít gọi lại:
- Anh vào chơi đã. Thế nào mẹ tôi chẳng hỏi; đi, anh Minh.
Vào chơi, gặp bà giáo? Mấy tháng rồi, Minh đâu có dám đến! Minh ngập ngừng, nhưng đôi mắt đen láy của Thọ với bao nhiêu lo ngại, như cầu khẩn. Tự nhiên không biết sao Minh lẳng lặng theo chân người khách lạ cùng Thọ vào nhà.
Bà giáo vẫn niềm nở với Minh như không hề biết tới những tin đồn đại về Thọ và Minh từ khi có cái ngày cách mạng. Bà còn tươi cười trách khéo Minh làm sao có tới nửa năm nay bán xới mất mặt không năng lui tới cho thân mật như hồi nào. Có lẽ vì lâu nay giữ được Thọ ở nhà không cho ‘‘tham gia hoạt động cách mạng’’ triệt để như trước, nên bà đã yên trí. Hay vì có người lạ? Rồi bà lại nói qua chuyện khác, hỏi thăm tin tức thủ đô, và thân mật kể họ hàng người khách mới tới cho chị em Thọ biết.
Ông giáo vẫn có người họ à Hà nội. Còn sinh thời, mỗi khi lên tỉnh lỵ Hà đông lãnh lương, ông giáo đều có ghé thăm. Bà giáo thường nghe nói đến, song cũng chẳng có dịp nào được gặp. Dù sao thì tao loạn được gặp nhau là quí rồi, nhất là khi người họ đây lại là một thanh niên trạc độ hai mươi bốn, hai mươi lăm tuổi. Kể họ ra thì Thọ phải gọi bằng anh. Ý bà giáo cũng mừng thầm, vào buổi nhộn nhạo này như thế nhà cũng đỡ vắng vẻ. Bà mừng hơn nữa là từ nay có thể nhờ người cháu họ này rèn cặp cho Sơn, con trai bà. Chỉ có Thọ là cảm thấy phiền phức. Là con gái lớn trong nhà, Thọ phải trông nom cơm nước, và còn phải giữ gìn ý tứ.
Sống ở thôn quê, thì trong nhà rau cháo với nhau thế nào cũng xong; và đời sống hầu như ngày nào cũng bình thản trôi đều như nhau. Nay có thêm một người, nhất là lại từ nơi tỉnh thành khác lạ, thì dù cho thân tình đi nữa, lẽ tất nhiên nếp sống trong nhà không thể không xáo trộn hết cả dòng đời buồn lẻ.
Nhưng Văn, người trai trẻ mới đến, chỉ ít ngày sau đã hòa mình được vào nếp sống giản dị của dân làng, và bà giáo thêm cảm mến, ngỏ ý lưu lại không muốn để cho đi.
Chiến tranh ở miền đất Việt Nam này cũng kỳ lạ. Nó chỉ thực sự khởi đầu khi đâu đó đều loan tin hòa bình đã trở lại trên thế giới. Đành là một vài khu phố vẫn cầm cự chiến đấu song, thực tế ra, thủ đô Hà nội đã thất thủ. Người ta chỉ còn nói đến việc phong tỏa Hà nội để chuẩn bị tổng phản công, mà người ta không còn nói đến làm chủ tình thế ở Hà nội nữa.
Lệnh vẫn tới tấp về; nào tăng cường canh phòng Việt gian, nào hô hào chuẩn bị trường kỳ kháng chiến. Song làng Thụy còn có thể làm gì được hơn? Vả lại sau những ngày nhộn nhịp vì những người tản cư từ thủ đô kéo qua đê làng chảy về xuôi, để rớt lại đôi ba người tạm trú trong xóm, nếp sống của làng Thụy dần tạm trở lại bình thường. Cái làng nhỏ bé cách thủ đô không ngoài bốn chục cây số ngàn về phía Nam, mà sao thấy như chiến sự còn xa lắm? Sốt ruột chăng chỉ có một vài nét mặt mới lạ tản cư khỏi thủ đô khi từng loạt súng đã bùng nổ. Họ đem theo biết bao nhiêu niềm u ẩn. Nhưng rồi họ cũng ngày lại ngày lặng lẽ đợi chờ và đành chịu kiên nhẫn sống như dân làng. Thật là giản dị! Một mai kháng chiến thành công, rồi ai lại về nhà nấy như hồi nào tản cư trước đây. Ít ra thì ủy ban kháng chiến xã nghĩ vậy.
Nhưng tỉnh bộ họ không nghĩ thế. Đã có mật lệnh về phải lưu ý đến bọn tản cư, không thể để họ lặng lẽ sống ở bên lề đời sống của dân làng. Hai Ủy viên Khước và Minh phải kiểm tra lại từng nhà. Âu đó cũng là một dịp để Minh lui tới nhà bà giáo, Minh nóng lòng muốn đến, không những vì Thọ, mà cũng cần phải biết rõ cái người cháu mới tản cư từ thành về. Minh không dám đi một mình; nó phải rủ Khước cùng đi.
Một hai lần Minh còn ngượng ngập, song may gặp Văn vui vẻ giúp cho Minh đưa từ câu chuyện này qua chuyện khác. Và chỉ ít lần gặp gỡ là Minh đã cảm mến người thanh niên hiền hậu hòa nhã, thật khác với những con người tỉnh thành chạy giặc về làng trước đây.
Văn cũng hiểu rõ công tác của Minh, nên chàng không cần đợi Minh hay Khước kiếm cách nói khéo để che đậy việc kiểm soát những người tản cư, mà làm ra vẻ tự nhiên nói hết ý định của mình. Sau một đêm ở thủ đô, bị đứt liên lạc, chàng tạm về đây trú chân ít lâu, chờ liên lạc với các cơ quan trên khu rồi sẽ lại lãnh công tác mới. Bây giờ thì Văn sẵn sàng tình nguyện giúp đỡ việc dậy học cho con em ở địa phương nhà.
Thế là mấy ngày sau gian tiền đường văn chỉ làng Thụy lại có tiếng trẻ học. Xưa nay đất làng là đất văn học khoa hoạn, thì dù cho là thời buổi cách mạng cũng vẫn phải rèn cặp để hiển đạt trong chính quyền cách mạng chứ? Ủy ban kháng chiến xã, trụ sở của phụ nữ... đều dọn hết qua bên đình và hai bên nhà giảng vũ, để nhường chỗ cho lớp học.
Văn thích thú trong công việc này lắm thì phải. Ngoài buổi học, người trai tuấn tú, điềm đạm và nhanh nhẹn ấy còn soạn cả một vài kịch ngắn dạy trẻ tập dượt với nhau. Mới ít ngày mà lũ trẻ trong làng đã mến Văn, nghe theo răm rắp. Còn Minh thì tự nhiên cũng thấy gần Văn hơn, quên cả công tác là kiểm soát mọi hoạt động của Văn. Hai tâm hồn trai trẻ và thẳng thắn nên chẳng hẹn mà sớm thông cảm với nhau. Kể cũng dễ hiểu. Minh thì nhận thấy ở người thanh niên học thức này một cái gì mới lạ có sức thu hút Minh, và tưởng chừng như sẽ đem lại những điều nó hằng mơ ước muốn hiểu mà cho tới nay vẫn không làm sao biết được là muốn gì. Văn như thể một ánh lửa sáng trong đêm tối mờ mịt vậy. Ngược lại, Văn tìm thấy ở Minh một cảm tình hồn nhiên chân thật, một sức mạnh mới mẻ như lắng xuống gần với những gì là trong sạch và bền bỉ đầy sinh lực, một niềm an ủi không ngờ. Minh hướng về Văn với tấm lòng mến chuộng đầy cảm phục. Văn lại gần Minh với tấm lòng cởi mở như đón lấy luồng sinh khí mới cho vững lòng tin tưởng.
Một tháng sau họ đã trở thành đôi bạn thân. Bây giờ thì Minh không ngại ngùng nữa, mà lui tới nhà bà giáo luôn. Hắn đâu có quên được Thọ? Song vẫn là chỉ để thấy cặp mắt đen láy, và đành rụt rè chờ đợi; chờ đợi một biến đổi mà chẳng biết có bao giờ đến hay không. Nhưng việc Minh ra vào đằng bà giáo không phải hoàn toàn chỉ vì Thọ. Hắn còn muốn luôn luôn gặp được Văn nữa; cũng như Văn nhiều khi qua bên dì Mơ, lắm bận ngủ lại cùng Minh để chuyện trò không nghĩ đến về đằng bà giáo. Dì Mơ chỉ cười:
- Gớm! Làm gì mà hai anh em lắm chuyện thế?
Có nhiều chuyện thật. Minh đã nghe Văn kể cho biết những biến chuyển của đất nước từ mấy năm gần đây, cả những ngày Văn bôn ba tranh đấu trong Nam Bộ, cho đến những giờ phút trước khi thủ đô tác chiến. Minh đã chăm chú nghe, đã gặng hỏi nhiều điều, và lần lần đã cảm thấy trút bỏ được phần nào lớp vỏ cứng nhắc mà lột xác.
Tuy nhiên có điều Minh băn khoăn là hễ hỏi kỹ về Văn thì Văn chỉ cười mà trở qua chuyện khác. Có nhắc nhở lắm thì Văn chỉ bảo:
- Chuyện anh thì có gì! Vả lại hơi đâu mà chú hỏi. Chúng ta hãy nói chuyện hiện tại đã.
Đôi khi dì Mơ cũng phải phì cười vì nhiều lời nói ngộ nghĩnh và tính tình vui vẻ của Văn. Văn cũng quen mồm gọi dì Mơ là dì, mà coi Minh như em trai vậy. Và cũng không thấy nói Văn đi lãnh công tác mới nữa.
Người ta đã chán nói tới chuyện thủ đô tác chiến. Cuộc chiến đấu của tự vệ thành có lẽ đã chấm dứt. Cũng không thấy nói chuẩn bị phản công, mà chỉ lo trường kỳ kháng chiến. Tin tức vẫn không có chi mới lạ, ít ra nữa là cho dân làng Thụy. Kể từ cái đêm mặt trăng vòng cung đỏ như máu, có cả hai tháng rồi! Nếp sống của dân làng Thụy vẫn đều hòa, nếu không có những bộ mặt ưu tư của những người tản cư. Cho đến cả những người lạ mặt qua đê làng chảy về xuôi cũng hầu như ngừng hẳn không có nữa.
Êm ả và buồn tẻ ấy như có vương vấn chút lo âu, ngột ngạt. Không khí bao giờ là chẳng nặng nề trước cơn giông tố?
Chú thích:
(1) 19 tháng 12-1946, dêm thủ-đô Hà-nội tác chiến.