- 8 -
Từ phủ bộ có chỉ thị về làng Thụy phải đắp ụ trên đê giữa làng, gần ngay văn chỉ. Hai xã trên dưới cùng tổng phải cắt dân công góp sức. Công tác khẩn cấp hẹn nội trong tuần lễ phải xong. Dân làng nhộn nhịp đốn tre cắm nọc, chuyển đất, lớp này qua lớp khác làm việc thâu đêm. Con đường cái quan số một dọc theo xe lửa đã đào hầm chữ chi từng chặng, còn đi làm sao được! Chỉ có mặt đê trải đá này, vì còn lo mùa nước lớn, ai dám đào? Nên rất có thể là quân Pháp sẽ do theo đó mà liên lạc thủ đô với Nam Định. Nghĩa là địch không sợ bị bao vây, địch còn muốn mở rộng mặt trận tiến thêm về phía Nam. Và như vậy làng Thụy sẽ là chiến trường mất! Rặng tre xao xác đã rung động. Những nhà khá giả đã vội vã chôn giấu ít nhiều đồ đồng, đồ sứ quí giá. Tay nải, quang gánh đã sẵn sàng chờ lệnh để tản cư...
Nhưng ụ đã đắp xong, địch vẫn không thấy tới. Mối hãi hùng cũng lặng lẽ tan ngay. Vả lại còn mươi ngày nữa đã Tết rồi, làm gì mà chẳng quên!
Cái Tết đầu tiên của miền Bắc sau khi tác chiến, nhưng là cái Tết thứ hai kể từ ngày khói lửa lan tràn từ miền Nam nước Việt. Chỉ còn ít ngày nữa là qua năm Đinh Hợi. Nói gì thì nói chứ kể ra làng Thụy còn thái bình. Nên không ai bảo ai, dân làng đã sửa soạn ăn Tết. Có tiếng lợn kêu eng éc từ sớm, có những xấp lá dong xanh mướt đã tước cuộng, bó lấy cột nhà cho thẳng thắn ; và trong xóm, khói đã phơ phất tỏa từ các mái tranh lẻ tẻ, đem lại không khí ấm cúng cho vài ngày cuối năm còn giá lạnh và lo âu.
Hai mươi tám tết. Văn vẫn mải miết giảng bài cho bầy trẻ. Tết hay không Tết, với một thanh niên lang bạt tản cư như Văn thì còn có gì mà phải nghĩ đến nữa? Chàng cố giảng bữa nay, rồi mai bọn trẻ nhỏ có tạm nghỉ Tết cũng không sao.
Trời hừng nắng nên quang đãng. Có tiếng máy bay. Thì thỉnh thoảng vẫn có tiếng máy bay; chúng bay cao tít, mà nào có chuyện gì đâu? Nên cũng chẳng mấy ai để ý đến.
Nhưng lạ, bữa nay tiếng máy bay nghe có như mạnh và nhanh hơn? Và không là tiếng ù ù đều đặn nổi lên rồi dần dần tan biến nữa. Tiếng kêu gần rồi xa, rồi lại gần, mỗi lần thêm to hơn. Văn ngừng giảng bài,lắng tai nghe. Rõ ràng là máy bay lượn vòng thúng trên đầu, song cao lắm... Văn vội vàng bảo bầy trẻ mau mau chui vào nấp dưới mấy bệ gạch bàn thờ. Một tiếng kêu như xé lụa vụt xuống làng, tiếp theo là một tràng đạn liên thanh, Rồi lại tiếng kêu nhức óc ấy với những tiếng nổ đều như pháo. Có tới mười phút. Mười phút mà Văn thấy lâu quá đỗi, có lẽ từ ngày tác chiến chưa bao giờ chàng thấy thời gian trôi quá chậm như vậy, vì mối lo âu đè nặng lên người trai từng trải này. Không phải là Văn sợ riêng cho bản thân, mà chàng lo cho bầy trẻ run cầm cập nằm nép dưới gầm bệ gạch.
Tiếng máy bay đã tắt. Dân làng nhốn nháo. Những nét mặt kinh hoàng tái nhợt, ngơ ngác nhìn nhau. Máy bay địch tới bắn phá ụ đất. May vào buổi trưa, trên đê làng vắng vẻ, nên không có ai bị nạn ; chỉ có một con trâu của lão Chánh Bá thả ăn cỏ ở chân đê bị trúng đạn nằm chết ngay đơ.
Văn xua bầy trẻ đi khỏi, là chạy vội về nhà. Bà giáo và Thọ còn run lẩy bẩy. Trong bếp, nồi bánh đã xếp xong, nhưng lửa chưa nhóm. Còn ai dám nghĩ tới nhóm bếp nữa? Bà giáo nói chưa ra tiếng:
- Có ai làm sao không, hả cậu? Làm thế nào bây giờ?
Bà ngồi bệt xuống đầu hè, dơm dớm nước mắt:
- Khổ quá. Có lẽ mai sớm vào quá trong đồng chiêm, tối hãy về nhà vậy.
Văn cũng không còn biết nói sao. Nào chàng biết làm gì hơn người đàn bà yếu hèn này được? Nhưng may cho tới tối, máy bay địch không trở lại nữa...
Bếp vẫn cháy đều. Nước trong nồi bánh sôi ùng ục. Những tảng củi gốc lần lần biến thành súc than hồng, gieo khắp căn nhà hơi lửa ấm. Văn ngồi lơ đãng nhìn ngọn lửa, chốc chốc dúm nắm trấu ném vào lòng bếp, nghe nổ lép bép... Góc đối diện, Thọ thẫn thờ soạn gấp quần áo để xếp vào tay nải.
Có tiếng Minh gọi cổng. Văn lẳng lặng đứng dậy. Một lát sau hai người đã bó gối nhìn ngọn lửa nhấp nhô reo cùng tiếng nước sôi trong nồi. Thọ cũng đã xong việc. Trong không khí êm tịnh mà ấm cúng ấy, mỗi người một tâm tư. Họ cùng đăm chiêu nhìn ngọn lửa. Minh khẽ hỏi:
- Thế nào, anh Văn? Chúng nó bắn ụ làng ta, chắc sao chúng cũng sửa soạn tấn công đấy.
Thọ ngước nhìn, thấy Văn vẫn trầm ngâm làm thinh, nàng khẽ nhắc như sợ tiếng mình vang trong đêm tối:
- Làm thế nào, anh Văn? Nếu quân Pháp kéo về phá ụ, liệu dân mình có đánh nổi không?
Đôi mắt đen láy của Thọ trong giây phút ngơ ngác như mường tượng trước bao cảnh đốt phá, giết chóc. Thọ nhìn sang phía Minh; Minh chỉ nhìn Văn như chờ đợi ở khuôn mặt sáng sủa kia một sức mạnh nhiệm mầu; chỉ một lời nói của Văn sẽ có thể làm hoảng hốt hoặc yên lòng hai tâm hồn chất phác chưa hề trải qua cơn khói lửa. Văn không ngửng nhìn những nét mặt non nớt hoang mang kia, song có lẽ tự thâm tâm chàng đã dự đoán được. Biết nói sao đây? Chàng không có gan nói dối để tạo cho họ chút tin tưởng mong manh mà sớm muộn thực tế sẽ làm tan nát. Chàng cũng không có thể nói rõ sự thật đương giày xé tâm hồn chàng. Làm thế nào nói cho họ hiểu được rằng con người, cũng như dân tộc, chỉ có thể trưởng thành trong đau khổ? Chàng tin tưởng mãnh liệt ở tương lai, song chàng dám đo trước khổ cực. Nhưng không thể và chưa thể cho những tâm hôn chất phác kia thông cảm được. Văn chậm rải trả lời:
- Chúng sẽ qua làng ta... tất nhiên là sẽ cướp bóc đốt phá nếu gặp kháng cự. Nhưng chúng ở lại đây làm gì? Thì hãy tạm tản cư lùi vào trong đồng chiêm xem sao đã.
Máu thanh niên bồng bột như vụt nổi dậy, Minh hùng hổ:
- Thế nghĩa là chúng ta bỏ chạy, mặc cho địch tiến, không kháng cự?
Văn mỉm cười chua chát:
- Với chú nên anh nói thật, đừng có nói lại với ai kẻo bị kết tội là phản động đấy... Chú bảo ta phải kháng cự? Ủy ban kháng chiến làng ta có bao nhiêu tay súng? Chú không thấy hồi trưa súng địch bắn như thế nào ư? Không, tôi nói thế không phải là sợ địch mà bảo rằng chúng sẽ được mãi đâu. Không, rồi quân Pháp sẽ thua; nhưng còn lâu, và còn phải khổ nhiều...
Tiếng máy bay rít như xé trời... Tiếng liên thanh từng tràng nổ như pháo tết ; chỉ một phát đạn mà con trâu kềnh còn chết ngay đơ... Minh ngao ngán chưa biết nói sao, thì tiếng Thọ yếu ớt còn làm não lòng hơn nữa:
- Làm thế nào bây giờ, hả các anh?
Văn nhắc lại:
- Thì hãy tạm tản cư lùi vào trong đồng chiêm xem sao đã.
Minh và Thọ im lặng. Phải, còn làm thế nào hơn được nữa?... Họ lại đăm chiêu nhìn ngọn lửa nhấp nhô ; và như cái máy, chế thêm nước vào nồi bánh cho tiếng nước sôi ùng ục réo đều. Họ lo lắng quá nghĩ về hiện tại, để rồi miên man dần quên hết, chẳng còn bận lòng vì thực tại nữa. Cô tịch và lo lắng dễ làm cho người ta mơ hồ tưởng nghĩ tới đâu đâu...
Ngày mai? Chưa biết ngày mai sẽ tới đâu... Văn chỉ thương hại cho hai người trẻ tuổi đáng mến kia, như đã thương cho cả thế hệ mình, lao đầu vào một cuộc phiêu lưu hào hùng, trong phản bội và đầy dẫy mưu đồ lợi dụng. Văn há đã chẳng bước vào cuộc phiêu lưu này từ ngày có tiếng súng đêm mùng chín tháng ba của người Nhật?
Văn đã quên hết, quên cả cái làng nhỏ ven sông Hồng mà chẳng biết vì sao chàng đã tạm náu tới hai tháng nay. Đời người trai trẻ trong buổi đại loạn chỉ còn là chuỗi biến chuyển bất ngờ thôi ư? Không, không hẳn thế. Văn đã nán ở lại, vì Văn cảm mến những người trai trẻ đầy nhiệt tinh kia như cây hoa dại thơm ngát; vì Văn chợt cảm thấy trong cuộc du hành từ Nam ra Bắc trên khắp ngả đường của đồng ruộng đất nước, cả một lớp người đương vươn dậy mà Văn cũng như các bạn chàng tự nhận là trí thức đã không hề biết đến. Văn đã xấu hổ vì lầm tưởng rằng một dúm người đã là tất cả, và hiểu tất cả. Thôn xóm làng Thụy cũng như những rạch nước chằng chịt nơi đồng ruộng bao la Nam Bộ đã làm Văn nghĩ khác...
Tiếng nước ùng ục sôi đều... Văn thấy lại tiếng gõ cửa đêm nào ở thủ phủ miền Tiền Giang. Cái thời Văn mê man làm việc, lao đầu vào cuộc phiêu lưu với nhiều bạn trai trẻ khác. Sàigòn đã bị quân Anh tái chiếm, giao lại cho Pháp từ ngày tháng chín. Cuộc phong tỏa Sàigòn vẫn nói là chặt chẽ, nên nhiều cơ quan đặt ở Tiền Giang vẫn yên trí hoạt động. Có ngày nào là Văn ngừng làm việc trước nửa đêm? Cho nên khi Văn trở về căn nhà hẻo lánh trên con đường về Sàigòn là chỉ còn kịp để ngả lưng đánh một giấc đến sáng. Cả ngôi nhà rộng lớn chỉ có mình Văn và người gác già. Văn nhớ đương lúc mơ màng chợt nghe có tiếng cạch cạch nơi cửa. Người bõ già thân tín vẫn cẩn thận, khi Văn đã vào buồng nghỉ, là để tấm ghế bố trước cửa buồng Văn mà nằm ngủ. Tiếng ‘‘cạch, cạch’’ lát lát lại nổi. Văn bực mình lẩm bẩm: ‘‘Ông già này đến lạ! Để tấm ghế bố sát cửa buồng làm chi, hễ trở mình là động vào cửa!’’. Nhưng im, rồi tiếng ‘‘cạch, cạch’’ lại dồn dập. Văn vùng trở dậy, có tiếng gọi khẽ:
- ‘‘Ông! ông trở dậy! và chớ có bật đèn!’’
Văn khẽ mở cửa. Người bõ già thì thầm:
- Tụi Nhật nó gác cả ngoài mặt lộ, phía trước nhà. Ông phải trốn đi, mau lên. Có lẽ chúng định tìm bắt ông đấy.
Văn lặng lẽ thu xếp vội vàng ít quần áo vào một chiếc cặp da, lẻn ra phía vườn sau. Sau nhà là con sông bao quanh châu thành về phía đông. Băng được sông là khỏi châu thành. Văn men bờ sông ngược lên. Kế bên là lò gạch, có chiếc tam bản neo ở gốc cây. Văn lặng lẽ trèo lên ghe, cởi dây vừa xong, thì có ánh đèn dầu rọi xuống. Trên nhà sàn có tiếng hỏi:
- Ai lấy ghe đấy?
Văn lật đật giựt vội cây đèn tắt phụt đi, trả lời:
- Chớ nói lớn. Quân Nhật ở mặt lộ kia. Cho tụi tôi qua bên kia bờ.
Một lát sau, chiếc tam bản đã nhẹ nhàng lướt trên mặt nước. Được quãng sông nơi đầu châu thành khuất và vắng. Nhìn về xuôi, không đầy năm trăm thước, có tiếng nổ và một chiếc tam bản chơi vơi giữa dòng đã chìm lỉm trong khoảnh khắc. Văn nhìn về phía châu thành: Ánh điện yếu ớt vàng khè, và tiếng súng lẻ tẻ nổ... Thuyền cặp bờ, Văn lật đật lên thì vừa mờ sáng. Nước triều vừa rút, nên bờ đất dưới hàng dừa còn lầy lội. Văn cắm cúi đi như người mê ngủ. Tại sao như vậy được nhỉ? Địch bị bao vây trong Sàigòn, làm sao xuống đây mau chóng như vậy được? Tới phút chót, nếu không có người bõ già, làm sao Văn thoát hiểm?... Sáng rõ, tới con lộ về phía quận lỵ, dân chúng tụ tập đông đảo hướng về châu thành. Quân Anh, Pháp được Nhật mở đường, đã theo đường nước lẻn tới lúc đêm khuya nên không ai hay biết chi hết. Sáng dậy thì các ngả đường từ châu thành ra ngoài đã bị bít hết. Hết thảy hoang mang chưa rõ biến chuyển ra sao.
Văn thất thểu theo đường lộ tới nơi liên lạc chàng đặt trước đây để lấy tin tức. Một số bạn hoạt động còn mắc kẹt trong châu thành. Và thế là Văn bắt đầu những ngày sống lưu động, bắt đầu với biết bao nghi ngờ và bất bình, nhưng hăng hái và tin tưởng chưa mất...
Văn đã qua nhiều thị trấn và xê dịch mãi. Tiêu thổ kháng chiến từ thị trấn này qua thị trấn kia ; rồi đồng Tháp Mười với những kinh nước phèn trong veo và chát xít, rồi Hậu Giang... Bao nhiêu ngả đường của đất nước miền Thủy Chân Lạp xưa, Văn đều đặt chân tới. Hay nói cho đúng ra, đã cả mấy tháng nay bọn Văn sống trôi nổi trên mặt nước với chiếc thuyền làm căn nhà lưu động...
Rồi cũng một buổi chiều. Mặt trời vừa lặn, là bóng tối đổ mau. Ở miền Nam, vào mùa nắng, hoàng hôn đâu có mấy chốc? Bọn Văn mải miết chèo, đẩy chiếc cà - dom nặng nề lướt trên dòng nước xám đục của cánh đồng vùng Cà Mau. Khúc ca của bầy giặc muỗi chỗi dậy là trời đã tối hẳn. Cái tối ở nơi đồng ruộng bao la chỉ là cái tối của thứ ánh sáng đục mờ, bàng bạc như hơi sương. Tới mỏm đất cùng này của đất nước, là vì bọn Văn đã dấn bước trong hăng hái cùng với cả thế hệ đương phiêu lưu định vận mạng cho dân tộc. Ngừng lại một đêm giữa chốn đồng không, hay ghé vào được một xóm nhà, thì cũng vậy thôi! Nên thấy có kinh nước chạy ngang, là bọn họ rẽ vào nghỉ đỡ. Ưa may là con kinh cụt, một trong muôn vàn kinh cụt của cánh đồng trùng trùng điệp điệp mới khai phá, chưa thành thuộc hẳn, đất còn phèn, mà nước còn mặn.
Nước triều đã lơn. Đất với nước chỉ còn ngăn cách bằng con bờ kinh nhỏ bé. Sau lùm cây, Văn thấy lờ mờ có bóng mái nhà. Nơi đây, tìm được một mái nhà không phải là chuyện dễ dàng. Nào có cần gì đâu, song ít ra thì cũng đở cô quạnh cho mấy con người nhỏ bé chìm đắm trong cảnh bao la khi đất trời không phân biệt. Thuyền neo chắc; các bạn đồng hành đã chui vào nớp, chỉ còn mình Văn thức giấc canh chừng.
Văn thao thức... Tiền Giang đã thất thủ. Tây đô cũng không còn. Biết bao tâm hồn trai trẻ bị ném vào lò lửa hy sinh, nay trôi giạt khắp các ngả đường... Văn bâng khuâng không biết mai đây còn đi mãi tới đâu? Bọn Văn mới qua quận lỵ Cà Mau mấy ngày trước đây, và đã chứng kiến thêm một cuộc tiêu thổ. Nghĩa là còn phải đi sâu vào vùng đồng lầy này nhiều, nhiều nữa... Đem tối và u tịch của đồng ruộng bao la khiến Văn chợt cảm thấy lòng mình mang mang đầy u hoài. Cùng con thuyền neo bên dòng nước, tâm hồn Văn cũng chơ vơ ngừng lại giữa dòng thời gian. Có những tan rã bất thần và vô lý; có những bạn đã bỏ mình trên bao ngả đường vô danh... Giờ đây, Văn mới thấm thía, và cảm thấy lạc lõng làm sao!
Bỗng thân thuyền giao động, làm gợn mặt nước mặn thành những vệt sáng dài. Có tiếng chân nhảy lên bờ đất, và tiếng Tân trầm trầm:
- Văn canh chừng nhé! Tôi lên bờ coi có chi lạ? Kỳ quá, làm sao mà mình thấy bực rọc hoài, không ngủ được.
Bóng Tân vừa nhô lên bờ, đã lẩn biến vào trong bóng ô rô ven rạch. Trôi nổi mấy tháng đủ cho người trai trẻ nơi đô thị thừa quen thuộc với những con đường hẻm mấp mô, và nhẹn bước trong ánh sáng mờ đục của đêm sao.
Một lát sau, có tiếng chân người dậm dịch. Nằm dưới thuyền nghe rõ mồn một. Văn nhổm dậy.
Bóng Tân và bóng một người to lớn đứng trên bờ.
- Anh em quen cả đây mà! Lên bờ ngủ đi, ở dưới đó muỗi cắn chết!
Tiếng Tân lại tiếp:
- Anh Hai à! Cứ cột ghe bỏ đây có được không?
- Được chớ. Trong sở đất mà! Ở đây thái bình, có chi đâu mà ngại. Mời tất cả lên nhà cho vui; xin mời!
Con đường mòn, vào giữa mùa khô, như một vệt trắng dài giữa mầu đất xám đen. Hết con đường là thấy căn nhà có ánh lửa sáng.
Dưới ánh đèn dầu lửa, bảy tám thanh niên xúm quanh chiếc bàn lớn và đương cười nói tưng bừng. Người đi với Tân hồi nãy, có tầm vốc cao lớn, dáng điệu cục mịch, với gương mặt thật chất phác của người đồng ruộng! Bảy tám người kia có phong thái lớp thanh niên mà Văn mường tượng đã gặp nơi đâu rồi.
Tân cười phá lên khi bước vào:
- Đúng không! Toàn là người quen cả!
Thấy Văn còn bỡ ngỡ. Tần đập vào vai, chỉ mấy thanh niên đã ngừng đũa quay ra:
- Quên hồi gặp nhau ở kinh Mười Hai rồi ư?
Đều là bạn sinh viên cũ, đã từng gặp nhau trên biết mấy ngả đường. Tân khẽ dỉ tai Văn. Người to lớn là anh Hai, quản lý sở đất này của một công ty mễ cốc Pháp. Dĩ nhiên, bây giờ anh vẫn thâu góp lúa, không phải để trả Pháp mà là để nạp cho kháng chiến. Bọn thanh niên sinh viên kia thì sau khi thất thủ Tiền Giang cũng như bọn Văn đã trôi giạt, tới đây vì trong bọn họ có em trai anh Hai. Anh chàng này, cục mịch và vui vẻ như ông anh, tiếng oang oang như lệnh vỡ:
- Vẫn gặp nhau, kể là tài thật. Thế nào trại chủ? Chư anh hùng đã tụ tập, mai sớm phải thưởng xuân ra sao chớ?
Anh Hai ha hả cười:
- Con heo giết thịt bữa nay, các chú ăn đây để kết toán năm cũ, còn phân nữa để ngày mai vui xuân chứ sao! Có các chú thiệt là vui. Nếu không, Tết năm nay chỉ có hai vợ chồng tôi với thằng nhỏ thì thiệt là ngán. Chiến tranh này đâu có về mừng tuổi ông già, bà già vợ tôi được? Ở Cầu Kè kia lận.
Giố từ đồng nội không ngớt thổi vào, làm lay động ngọn đèn thêm bốc khói. Trên chiếc mâm để giữa bàn, một đống thịt heo luộc thái nhỏ, mấy chén nước chấm, chai rượu đế ngâm hồi... Những con người quen sống nơi đô thị trong phong lưu phiền toái, bỗng cảm được cái thú mới lạ của lối sống hồn nhiên xô bồ. Họ đã đùa mà bầu anh Hai làm trại chủ. Nhưng bọn họ đâu có được làm chúng anh hùng thảo khấu? Mà chốn đồng lầy Cà Mau lững lờ như mảng bè neo trên làn nước mặn cũng chưa hẳn là chốn thủy bạc hoang dại.
Từ mấy tháng nay, bọn Văn đâu để ý tới ngày giờ? Cứ sống trôi nổi và quay cuồng trong cơn lốc như cỏ cây cố gắng vươn lên cho khỏi ngộp dưới làn nước dâng cao. Tối nay không ngừng nơi đầy thì đâu có biết bữa nay là ngày cuối năm? Thật chẳng hẹn mà được hưởng phong vị một đêm trừ tịch.
Tiếng cười, tiếng nói không ngớt, mà chai rượu đế hăng hăng với đống thịt cũng chẳng vơi được bao nhiêu. Văn cảm thấy vị béo ngậy của miếng thịt như quyện nơi cổ họng, khó nuốt trôi. Và Văn thấy xa quá... Xa quá, những cây nêu lay động trong gió bấc giá lạnh ; và xa quá, bông đào mảnh mai lẫn trong khối trầm thơm ngát. Men rượu ngấm, Văn thêm thấm thía, và tưởng chừng như các bạn cũng dấu sau nụ cười biết bao u hoài. Chiến tranh xô đẩy họ từ những phương trời cách biệt của xứ sở đến tập họp nơi cô quạnh này. Giờ đây, trong cái không khí chan chứa ước vọng của giây phút giả tạo mà vụt cảm thấy thiêng liêng, có biết bao nhiêu quê hương đã chỗi dậy. Một cặp bánh chưng, một ổ bánh ú, một khoanh bánh tét... bỗng lởn vởn trong óc của mấy chàng trai có lẽ xưa nay hằng coi rẻ cái Tết ở gia đình và chẳng hề có cần biết đến giao thừa hay trừ tịch.
Văn tỉnh dậy; hé nớp nhìn ra ngoài, trời đã sáng rõ. Nước lớn, chiếc cà dom nổi cao hơn bờ kinh. Văn thấy rõ ngôi nhà lầu cất bằng cây, trơ lần gỗ bạc phếch dưới ánh mặt trời ban mai. Văn gọi đồng bọn trở dậy. Đêm qua, ai nấy đều say? Hay vì thao thức quá? Nên không hẹn mà đều dậy trễ. Tỉnh dậy, họ cũng chẳng biết tại sao đã không ngủ lại trên nhà anh Hai mà kéo nhau trở xuống thuyền.
Mặt trời chói lòa rọi lên cánh đồng lầy lội, lác đác những gốc rạ tàn lụi. Mùi tanh nồng của nước mặn pha lẫn mùi hăng hăng của cây cỏ ải mục, vương vấn trong làn gió mát ban mai, làm Văn khỏe khoắn và tỉnh táo.
Có tiếng anh Hai từ xa vang lên:
- Thế nào, chư anh hùng dậy chưa? Năm mới, hãy vui một buổi đã, rồi muốn sao thì sao!
Tân phá lên cười, như đôi bạn thiết thưở nào:
- Trại chủ đã truyền, xin tuân lệnh.
Anh Hai đã tới bờ kinh. Ánh sáng rọi nghiêng vào khuôn mặt đen xạm, hồn nhiên và trung hậu.
- Năm mới, tới mừng anh em sớm thành công! Còn ngày hôm nay, xin mời nghỉ lại ăn Tết với tụi tôi cho vui đã.
Văn cười trả lời:
- Ngoài Bắc, như thế là sớm nay anh đã xuất hành, mà thế là bọn tôi sẽ xông đất nhà anh đấy! Song chúc anh năm nay chớ có phải sống lưu động như chúng tôi trên chiếc cà dom này.
Mấy bạn trẻ đã kéo đến. Tiếng cười nói vang rân. Tuổi trẻ lúc nào là không yêu đời? Nhất là được người nhắc cho biết là Tết và cho hương Tết ở nơi heo hút này.
Chị Hai đang lúi húi trong bếp, cắt khoai và đánh bột. Thấy mọi người, chị hớn hở:
- Các chú giúp tôi cho lẹ! Mần một bữa bánh khoai ăn Tết chơi cho khoái. Chú Ba, đánh bột giúp chị đây nè!
Cả bọn áp tới... Làn nước bột khoai mì nhuộm nghệ sánh đặc và óng vàng quện lấy chiếc đũa cả quấy tròn trong chậu. Những củ khoai lang cạo sạch vỏ ngâm trong bồn nước trắng nõn, chị Hai thoăn thoắt thái thành sợi. Chảo mỡ sôi trên bếp, nổ lép bép, rộn ràng như lòng người ngày xuân. Họ đã quên hết; quên hết mọi lo âu, quên cả ngày mai. Chỉ còn những sợi khoai quện lấy nước bột để kết thành từng bánh chín vàng trong chảo mỡ sôi...
Có lẽ vui nhất không phải là bọn trẻ tạm thời vô gia cư này, mà phải là gia đình anh Hai. Anh lui tới lăng xăng, nói cười oang oang. Nhỏ Hùng, đứa con duy nhất của anh, trạc sáu bẩy tuổi cũng cứ mầng quớ lên thôi. Cái gia đình nhỏ bé, xưa nay heo hút giữa cánh đồng bát ngát, ẩm ướt, với muỗi, với đỉa, với cá lóc, với giọt nước ngọt nhiều tháng quý hơn gạo thịt... được đông vui như vậy, làm sao khỏi mầng cho được?
Miếng bánh khoai cuối cùng đã hết thì không khí Tết cũng tàn. Bọn thanh niên bắt đầu sôi nổi thảo luận về ngày mai. Họ có dịp kiểm điểm lại quãng đường vừa vượt qua, thành vô tình vỡ lẽ nhiều sự kiện tưởng là phi lý mà trước đây họ không ngờ. Đã có những lừa dối lợi dụng, và phản bội thế hệ họ, song họ chưa ngã lòng. Văn được biết rằng, trong ít ngày nữa, bọn sáu người kia quyết dùng ghe bàu vượt biển ngược lên miền đông. Họ cả quyết, vì trong bọn họ em anh Hai tốt nghiệp trường hàng hải trước những ngày biến chính, đã thông thuộc nghề đi biển.
Sớm hôm sau, tiễn bọn Văn nhổ neo đẩy chiếc cà dom trở lại dòng nước vẩn đục phù sa, anh Hai không giấu nổi cảm động:
- Nếu vùng này mà không yên nữa, tôi sẽ về Cầu Kè, nơi quê vợ tôi. Có dịp nào qua đó, các chú nhớ ghé chơi.
Năm tháng sau, bọn Văn đổi chiếc cà dom lấy chiếc tam bản nhẹ nhàng để lật đật ngược đường lên trở về.
Qua Cầu Kè, chợt nhớ lời người bạn một đêm, họ kín đáo dọ hỏi. Hồi tháng hai năm đó, gia đình anh Hai có trở về Cầu Kè ở nhờ nơi ông bà già vợ. Tây đã nhiều lần bắt bớ anh để tra hỏi về số lúa thâu hoạch dưới đó. Rồi một đêm, có bọn người vận toàn đồ đen về bắt anh Hai dẫn đi, kết tội anh là phản bội, bỏ ruộng theo Tây, và nhất là Tết năm đó đã dụ dỗ thanh niên phản động dời bỏ hàng ngũ. Chị Hai khóc lóc, van xin thế nào cũng không được. Tội nghiệp cho nhỏ Hùng cứ lăn ra níu lấy ba nó, nên bọn chúng tức giận xô thằng nhỏ té làm sao không rõ, mà thằng nhỏ bị gãy tay thành tật. Còn anh Hai không thấy trở lại; nghe nói anh đã bị thủ tiêu.
Bọn Văn không ghé thăm chị Hai nữa, mà vội vã ngược thuyền đi luôn. Không ai nói một lời, mà tưởng chừng như còn thấy rõ bóng anh Hai cao lớn với nét mặt chất phác hiền hậu của con người vô tâm nơi đồng ruộng, đương hớn hở dang tay đón bọn thanh niên không quen biết để cùng vui với gia đình mình một ngày Tết ấm cúng.
Tân lầm lũi đẩy mạnh mái chèo, như nói một mình:
- Giá Tết vừa rồi, bọn mình không ghé nhà anh Hai.
Văn thở ra:
- Anh Hai mà phản bội ư? Vậy những ai mới không phản bội?
Dòng nước đục ngầu đổ mau như giận hờn. Đột nhiên nước sông nơi đó phảng phất vương lên một mùi tanh nồng như mùi máu tươi mới đổ...
Văn thẫn thờ nhắc lại, như nói một mình trong giấc mơ:
- Anh Hai mà phản bội ư? Vậy những ai mới không phản bội? Thế nào là phản bội?
Tiếng Văn buông rơi chậm chạp trong im lặng làm cho cả ba người choàng tỉnh dậy. Nào đâu có Tân? Nào đâu những người bạn? Rạch nước, đầm lầy, nào dừa, nào ô rô... đã vụt tan biến trong bếp lửa. Chỉ thấy Thọ và Minh ngơ ngác nhìn. Văn gượng cười khi thấy Minh gặng hỏi:
- Anh Hai nào thế? Sao lại phản bội, hả anh?
Biết nói gì đây cho hai tâm hồn trong trắng đương vươn lên cao vì lý tưởng mơ hồ mà họ chưa mường tượng được. Người dân Việt đương cố gắng bước lên, song đâu là người dìu dắt họ? Đâu là lớp người dìu dắt họ? Hay vẫn chỉ hai nhốm người gọi là ‘‘đạt’’ dưới thời bị trị, và ‘‘ bất đắc chí’’ dưới thời bị trị, đương lần lượt thay nhau, để gieo căm thù hằn học vào những tâm hồn trong trắng này? Để rồi phản bội lẫn nhau, và phản bội cả dân tộc? Rồi ở cái làng nhỏ này đây, những ai sẽ bị kết tội là phản động, là phản bội? Văn rùng mình, tưởng chừng như cái mùi hăng hăng tanh nồng ở dòng sông Câu Kè kia đã phảng phất vương lên vũng nước ao tù dươi bóng tre xanh...
Văn nhìn Minh thương hại:
- Tôi nhớ lại hồi còn trong Nam Bộ, trong buổi tác chiến. Đã có những người chết oan; và sợ rằng còn nhiều, nhiều nữa.
Văn dằn giọng xuống:
- Không phải là chết oan vì đạn lạc, vì địch khủng bố đâu! Mà chết oan chì vì người ta thích giết, và dụng tâm cố giết.
Thấy Minh vẫn ngơ ngác không hiểu, Văn cố cười để giấu tiếng thở dài:
- Chú là Ủy viên liên lạc xã. Thế từ trưa đã có liên lạc với phủ bộ chưa? Có tin gì mới không, để còn toan tính chứ?
- Đã báo cáo rồi. Và được lệnh phải tăng cường đề phòng Việt gian. Đồng chí Ủy viên phủ nhắc đi nhắc lại phải lưu y đến những người tản cư về xã, vì địch đã cho người của chúng trà trộn vào. Nhưng em nghĩ ở xã nhà cũng chẳng có bao lăm người, và lần này cũng đều là chỗ bà con quen biết với dân làng ta cả.
Thọ vẫn chưa hết băn khoăn vì việc máy bay bắn phá hồi trưa, nên ngắt lời Minh:
- Nhưng có nói gì đến việc phòng thủ không? Liệu địch có phá được vòng vây mà tràn về làng ta không?
Minh lắc đầu. Ba người lại lặng thinh.
Ánh lửa chiếu lên khuôn mặt bầu bĩnh của Thọ. Đôi mắt đen láy như đầy lo âu, sợ sệt. Thọ không còn biết chờ đợi gì? Cuốn tiểu thuyết của đời Thọ, hồi nào Thọ tưởng mới bắt đầu thì nay Thọ tưởng chừng như đã chấm dứt; và chỉ còn mối lo âu của người thôn nữ bừng tỉnh giữa thời tao loạn.
Có tiếng gọi ngoài ngõ:
- Chú Minh có trong nhà không? Lên trụ sở họp nhé!
Minh uể oải đứng dậy. Thọ ái ngại nhìn theo:
- Mai sớm có về anh tạt qua nhé. Em gởi cặp bánh biếu dì. Anh Văn cố thức chờ vớt bánh hộ em mấy!