← Quay lại trang sách

Chương 1

Chị gái là người phát hiện ra tình trạng của tôi lúc tôi ba tuổi. Mẹ nuôi của chúng tôi bước vào, trên tay cầm cây kéo, trong khi tôi đang đứng đó, hai cánh tay trần ngoan ngoãn chìa ra, máu từ hai cổ tay tôi chảy xuống tấm thảm sợi lông màu xanh ô liu.

Chị gái sáu tuổi của tôi nói: “Mẹ xem kìa, nó còn chẳng thèm bận tâm.” Rồi chị vớ lấy cái kéo, rạch một đường trên cẳng tay tôi. Máu tuôn xối xả.

Mẹ nuôi tôi thét lên, rồi ngất lịm.

Tôi nhìn xuống bà chằm chằm, tự hỏi chuyện gì đã xảy ra.

Sau đó, chị tôi bỏ đi. Còn tôi được đưa đến bệnh viện. Ở đấy, các bác sĩ dành mấy tuần liền tiến hành hàng loạt các xét nghiệm khác nhau, gây đau đớn hơn cả kiểu chăm sóc sắc bén của chị tôi, ngoại trừ những xét nghiệm này cho ra kết quả: Do đột biến cực hiếm của gen SCN9A trong người mà tôi không cảm nhận được đau đớn. Tôi có thể cảm thấy sức ép. Lưỡi kéo đang đè xuống làn da tôi. Tôi có thể cảm thấy kết cấu. Bề mặt phẳng mịn của những lưỡi dao sắc lẹm mới tinh.

Nhưng cảm giác thực tế là làn da tôi đang nứt ra, máu kết tụ thành dòng...

Tôi không cảm thấy những gì người khác cảm thấy. Chưa bao giờ cảm thấy. Và sẽ chẳng bao giờ cảm thấy được.

Sau khi Shana rạch cánh tay tôi bằng cây kéo may, tôi không còn gặp chị ấy trong hai mươi năm tiếp theo. Phần lớn thời gian ấy chị tôi ở rất nhiều cơ sở khác nhau, nhận danh hiệu là một trong những thiếu nhi nhỏ tuổi nhất tại Massachusetts được đưa vào điều trị chống loạn thần. Chị ấy đã toan giết người lần đầu tiên năm mười một tuổi, và thành công năm mười bốn tuổi. Di sản dị biệt của gia đình chúng tôi.

Tuy nhiên, nếu chị ấy là một đứa trẻ gây tổn thất theo quy tắc xã hội thông thường, thì tôi lại trở thành đứa con nuôi thành công của bang.

Căn cứ kết quả chẩn đoán, các bác sĩ không tin rằng cha mẹ nuôi tạm thời có thể đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của tôi. Xét cho cùng, người ta biết rằng những đứa trẻ ra đời mang đột biến gen tương tự như tôi có thể cắn đứt lưỡi khi đang mọc răng. Rồi có những đứa trẻ chập chững biết đi bị bỏng cấp độ ba vì đặt cả hai tay lên bếp đang nóng đỏ, mà không rút tay về; nói gì đến những đứa trẻ bảy, tám, chín tuổi suốt ngày chạy rông với hai mắt cá chân bị giập nát, hay ngất lịm do vỡ ruột thừa đang bị viêm mà không hề biết.

Đau đớn rất hữu ích. Nó cảnh báo nguy hiểm cho bạn, dạy cho bạn về những nguy cơ và những hậu quả do hành động của bạn mang lại. Mất cảm giác đau, việc nhảy xuống từ mái nhà có vẻ là một ý tưởng tuyệt vời. Cũng tương tự như là nhúng tay vào chảo dầu đang sôi ùng ục để lấy được miếng thịt rán đầu tiên. Hay tự nhổ hết từng móng tay bằng kìm. Hầu hết trẻ em mắc chứng mất cảm giác đau bẩm sinh cho biết rằng chúng hành động vì bốc đồng, vấn đề không phải là tại sao, mà là tại sao không.

Tuy nhiên, những đứa trẻ khác với nỗi khát khao mãnh liệt trong giọng nói sẽ cho bạn biết rằng chúng làm thế để xem mình có cảm thấy đau hay không. Bởi vì việc không có cảm giác đau đớn lại được nhiều người coi là một mục tiêu theo đuổi suốt cuộc đời mình. Một động lực khác thường. Một nỗi ám ảnh không ngớt. Niềm khoái cảm khi cuối cùng cũng cảm thấy đau.

Những đứa trẻ mắc chứng rối loạn cảm giác đau có tỷ lệ tử vong cao, chỉ vài người trong số chúng tôi sống được đến tuổi trưởng thành. Phần lớn đòi hỏi sự chăm sóc suốt ngày đêm. Với trường hợp của tôi, một trong số các nhà di truyền học, một ông già không vợ không con, đã vận động để được đưa tôi về nhà mình, nơi tôi trở thành đứa con gái nuôi được yêu quý, đồng thời là trường hợp nghiên cứu ưa thích của ông.

Cha nuôi tôi là một người tốt. Ông chỉ thuê những nhân viên chăm sóc tốt nhất, chịu trách nhiệm giám sát tôi 24/7, trong khi dành trọn ngày nghỉ cuối tuần giúp tôi xoay xở với tình trạng của mình.

Chẳng hạn, nếu bạn không thể cảm thấy đau, vậy thì bạn phải tìm cách khác để phát hiện những mối đe dọa tiềm tàng đền thể chất của bạn. Hồi còn nhỏ, tôi đã biết nước sôi đồng nghĩa với nguy hiểm. Tương tự là các đầu đốt nóng đỏ trên lò sưởi. Tôi cảm nhận một đồ vật trước hết là ở kết cấu. Bất kể cái gì sắc nhọn tôi đều không đụng vào. Tôi không được phép dùng kéo, hay đồ đạc nội thất có cạnh sắc nhọn. Kể cả mèo con hay bất kỳ sinh vật nào có vuốt nhọn. Chỉ được phép đi bộ. Không chạy nhảy, không trượt, không bò trườn và không nhảy múa.

Nếu đi ra ngoài, lúc nào tôi cũng phải đội mũ bảo hiểm, đeo tấm đệm chân tay thích hợp. Trước khi vào nhà tôi phải cởi mũ, tháo hết các miếng đệm và kiểm tra cơ thể xem có xây xát chỗ nào không. Gồm cả thời gian để người chăm sóc tôi cởi giày cho tôi, xoay cổ chân tôi đúng một trăm tám mươi độ. Hình như, tôi từng có lần đứt hết dây chằng khi đi bộ trong công viên. Hay lần khác, tôi về nhà khắp người đầy vết ong chích. Tôi đã vấp phải một tổ ong bắp cày, và với sự ngây thơ của trẻ năm tuổi, tôi lại tưởng rằng chúng đang khiêu vũ với mình.

Theo thời gian, tôi học được cách tự soát cơ thể mình. Đo thân nhiệt hàng ngày để xem mình có bị sốt không, đó có thể là dấu hiệu cho thấy cơ thể tôi đang bị một dạng nhiễm trùng nào đó. Tự kiểm tra hằng đêm bằng cách đứng trần truồng trước tấm gương soi được khắp người, rà soát từng phân trên làn da xem có bị bầm tím và xước xát gì không, rồi đến các khớp nối xem có bị sưng tấy hoặc bị căng không. Tiếp theo là kiểm tra mắt. Nhãn cầu đỏ là đang bị viêm tấy. Rồi đến tai. Máu trong hốc tai có thể là dấu hiệu cho thấy màng nhĩ bị thủng và/hoặc có thể là bị thương ở đầu. Cuối cùng là hai lỗ mũi, bên trong miệng, răng, lưỡi và lợi.

Cơ thể tôi là cái bình chứa, một đồ vật hữu ích, được kiểm tra, trông nom và chăm sóc. Tôi phải dành cho nó sự quan tâm đặc biệt kĩ lưỡng, vì thiếu đi những kênh phân tử truyền xung điện trực tiếp từ các dây thần kinh cảm nhận đau đớn lên não, nghĩa là lúc ấy cơ thể tôi không thể tự chăm sóc cho chính nó. Ai đó lâm vào tình trạng của tôi không đủ sức tin vào những gì tôi cảm thấy. Thay vào đó, tôi phải làm theo những gì tôi có thể nhìn thấy, nghe thấy, nếm được và ngửi thấy.

Tư duy bằng vật chất, người cha di truyền học liên tục nhắc tôi như thế. Chỉ là một bài tập đơn giản, tư duy bằng vật chất.

Khi tôi đến tuổi mười ba mà không hề bị đột tử vì sốc nhiệt, nhiễm trùng nội sinh hay gặp phải bất kỳ tai nạn nào khác do bất cẩn, cha nuôi tiến thêm một bước nữa trong nghiên cứu của ông. Nếu trên thế giới này có hai trăm đứa trẻ sinh ra mắc phải chứng bệnh này, vậy thì sẽ có khoảng bốn mươi đứa trẻ vẫn sống sót đến tuổi trưởng thành. Việc nghiên cứu những trường hợp này tiết lộ thêm những khiếm khuyết khi sống một cuộc đời mà cơ thể không bao giờ biết đến đau đớn hay khó chịu. Chẳng hạn, nhiều chủ thể cho biết họ gặp khó khăn khi thấu cảm với người khác, sự phát triển cảm xúc bị kìm hãm và kỹ năng xã hội bị hạn chế.

Cha nuôi ngay lập tức cho tôi làm một đánh giá tâm lý toàn diện. Liệu tôi có thể cảm thấy được đau đớn của người khác không? Có thể nhận ra những dấu hiệu đau khổ trên khuôn mặt người lạ không? Có phản ứng thích hợp với nỗi đau của đồng loại hay không?

Rốt cuộc, nếu bạn không bao giờ khóc khi bị đứt tay, thì bạn có khóc khi người bạn thân nhất mười sáu tuổi đột nhiên tuyệt giao với mình và còn gọi bạn là kẻ quái dị không? Nếu bạn có thể đi bộ hàng dặm với cái đầu gối giập nát, liệu trái tim bạn có thắt lại không nếu khi bạn hai mươi ba tuổi, người chị gái ruột của bạn lại tìm thấy bạn, với lá thư đóng dấu bưu điện từ Cục Cải huấn?

Nếu bạn chưa bao giờ trải qua một giây nào nỗi đau khổ có thực nói trên, làm sao bạn có thể thực sự thấu hiểu lúc người cha nuôi trút hơi thở cuối cùng, ông ấy siết chặt lấy bàn tay của bạn, thốt lên khó nhọc:

“Adeline. Đây. Là. Nỗi đau.”

Đứng một mình trong đám tang ông, tôi nghĩ rằng mình đã hiểu.

Nhưng là con gái của cha, tôi cũng nhận thức được mình không bao giờ thực sự chắc chắn. Thế nên tôi đã làm như được huấn luyện. Tôi ghi danh tham gia một chương trình đào tạo tiến sĩ hạng nhất nơi tôi học tập, làm các xét nghiệm và nghiên cứu.

Tôi biến đau đớn thành công việc của mình.

Một chuyên ngành hữu ích vì nhiều lý do.

Lúc tôi đến trại cải tạo Massachusetts, chị gái đang đợi tôi. Tôi ghi danh vào cửa, cất túi xách vào trong ngăn tủ có khóa để trống, rồi chờ đến lượt đi qua cổng an ninh. Chris và Bob, hai viên sĩ quan quản chế lâu năm lịch sự gọi tên tôi. Bob rà máy đọc mã vạch của anh ta qua vòng đeo tay y tế của tôi, ngày thứ Hai đầu tiên của tháng nào anh ta cũng kiểm tra như thế. Tiếp theo, Maria, sĩ quan quản chế thứ ba, hộ tống tôi đến căn phòng riêng khép kín, nơi chị gái tôi đang ngồi, hai bàn tay bị còng để trên lòng.

Sĩ quan Maria gật đầu cho phép, tôi bèn bước vào phòng. Căn buồng mỗi chiều rộng tám mét với hai cái ghế nhựa màu da cam và một chiếc bàn gỗ formica. Shana đã yên vị phía đầu kia bàn, phía lưng là bức tường gạch xám, phía trước mặt nhìn ra hành lang qua ô cửa sổ duy nhất. Chỗ ngồi của xạ thủ.

Tôi muốn ngồi đối diện với chị, lưng quay về phía đám đông đi lại ngoài cửa sổ. Không để phí thời gian, tôi kéo chiếc ghế chỉnh thế ngồi theo ý mình. Một phút trôi qua. Rồi hai phút.

Chị lên tiếng trước: “Cởi áo khoác ra.” Giọng chị đã mang vẻ kích động. Điều gì đó đã khiến chị ấy nổi cơn, có lẽ xảy ra trước giờ thăm của tôi, nhưng điều ấy không có nghĩa rằng tôi sẽ không phải là người hứng đòn.

“Tại sao?” Trái ngược với mệnh lệnh cáu kỉnh của chị ấy, tôi cố giữ giọng bình tĩnh.

“Em không nên mặc đồ đen chứ. Dặn bao nhiêu lần rồi hả? Đồ đen khiến em bị lu mờ.”

Người thốt ra câu nói này là một phụ nữ mặc áo tù màu xanh u ám, mái tóc nâu dài chấm vai đang buông xuống những sợi nhờn nhờn. Chị ấy có thể đã từng xinh đẹp, nhưng rồi bao năm tháng phải sống trong những điều kiện nghiệt ngã, dưới ánh đèn huỳnh quang, sắc đẹp ấy đã bị bào mòn. Đó là còn chưa kể ánh mắt đầy oán giận.

Tôi cởi chiếc áo khoác Ann Taylor vừa vặn ra, vắt lên thành ghế. Bên trong, tôi mặc áo thun màu xám có tay áo dài. Chị gái nhìn chằm chằm vào hai cánh tay được che kín của tôi. Đôi mắt nâu nhìn như xoáy vào mắt tôi, chị thử hít ngửi mấy lần.

“Không còn mùi máu nữa.” Cuối cùng chị nói.

“Chị đâu cần phải thất vọng vậy chứ.”

“Xin mày đấy. Tao mất đến hai mươi ba giờ mỗi ngày nhìn trừng trừng bốn bức tường trắng hếu này rồi. Ít nhất cũng phải cho tao xem vết đứt tay chứ.”

Chị ấy khẳng định mình có thể ngửi được nỗi đau tôi không thể cảm thấy. Chẳng có cơ sở khoa học nào cho điều này, chỉ đơn giản chị ấy là chị gái tôi. Thế nhưng trong đôi ba dịp, trong vài giờ sau khi ở chỗ chị về, tôi phát hiện ra những vết thương mà chị đã cảnh báo tôi.

“Em nên diện màu hồng tía.” Shana nói tiếp. “Em đang sống ở thế giới ngoài kia. Thế nên hãy tận hưởng một chút, Adeline. Rồi có thể em sẽ mang đến cho chị vài câu chuyện có thực. Không công việc, không bệnh nhân, không luyện tập đau đớn các thứ nữa. Kể chị nghe có anh chàng cơ bắp cường tráng nào đó giật cái nịt vú màu hồng tía khỏi bộ ngực phẳng lì của em. Để rồi chị có thể thực sự thích thú những cuộc gặp gỡ hằng tháng thế này. Mà em còn làm tình được không đấy?”

Tôi không đáp. Chị đã hỏi đi hỏi lại câu này hàng trăm lần rồi.

“Đúng rồi đấy, em có thể cảm nhận được những thứ đẹp đẽ mà, chứ đâu chỉ những cái tệ hại. Chắc không có cỡ S và M cho cô em gái bé bỏng của tôi đâu. Thất vọng ghê, cô em.”

Shana thốt ra những lời này với giọng buồn buồn. Chẳng hề câu nệ. Chị ấy tấn công tôi vì đó là cách chị ấy thích làm. Không một chốn ngục tù nào, không một loại thuốc thang nào, hay kể cả tình chị em nào có thể thay đổi được điều đó. Shana là một kẻ săn mồi bẩm sinh, cô con gái của cha tôi. Lúc mười bốn tuổi, chị ấy từng sát hại một cậu bé để rồi ngồi tù. Rồi giết chết một người bạn tù cũng như hai sĩ quan quản chế, và giờ bị giữ ở đây.

Bạn có thể yêu thương nổi một người như chị gái tôi không? Về mặt chuyên môn mà nói, chị ấy là một đối tượng được nghiên cứu thú vị về chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội. Hoàn toàn chỉ biết yêu bản thân, thiếu cảm thông và cực kỳ thích thao túng người khác, về mặt cá nhân mà nói, chị ấy là người thân duy nhất của tôi còn sống.

“Em nghe nói chị đã tham gia một chương trình mới.” Tôi gợi ý. “Quản giáo McKinnon nói rằng mấy bức họa đầu tiên của chị cho thấy chị có khả năng tốt với tiểu tiết.”

Shana nhún vai, không phải là cử chỉ hài lòng với những lời khen.

Chị lại hít ngửi. “Không có nước hoa, nhưng trang phục của em trông chuyên nghiệp đấy. Tức là hôm nay em sẽ đi làm. Đi từ đây tới văn phòng của em. Em có xịt khoáng toàn thân lúc ngồi trong xe không? Hy vọng nó đủ mạnh để át đi cái thứ mùi của trại.”

“Em tưởng chị không muốn nhắc đến công việc của em.”

“Thì chị còn biết nói chuyện gì khác được nữa.”

“Thời tiết chẳng hạn.”

“Ôi chết tiệt! Chỉ vì hôm nay là thứ Hai thì đâu nghĩa là tao phải phí một tiếng đồng hồ làm chuột bạch cho công trình nghiên cứu đáng thương hại của mày.”

Tôi không nói gì.

“Tao mệt mỏi lắm rồi, Adeline. Mày. Tao. Những lần viếng thăm hằng tháng thế này, mỗi khi mày thể hiện gu thời trang thảm hại của mình, còn tao chẳng có lựa chọn nào khác ngoài việc ngồi đây và chịu đựng nó. Mày có đủ bệnh nhân rồi thì nên làm ơn tha cho tao đi. Bước ra ngoài. Vĩnh biệt, ý tao là thế đấy!”

Một tiếng gõ cửa vang lên. Sĩ quan Maria, người có thể chứng kiến mọi việc qua ô kính cửa sổ cường lực, đang giám sát chúng tôi. Tôi mặc kệ cô ấy, tiếp tục nhìn chị gái chằm chằm.

Cơn tức giận bột phát của chị không làm phiền tôi, giờ thì tôi đã quá quen với những màn thể hiện này rồi. Giận dữ là thứ cảm xúc ưa thích của Shana, phù hợp với cả tấn công lẫn phòng thủ. Thêm vào đó, chị có đủ lý do để căm ghét tôi. Không chỉ vì tình trạng gen hiếm của tôi, hay là vì tôi đã kiếm được người cha nuôi giàu sụ lo toan hết cho mình. Mà là vì sau khi tôi chào đời, mẹ đã chọn cách giấu tôi trong buồng nhỏ để đồ, và không có đủ chỗ cho cả hai người.

Shana nguyền rủa rôi, đôi mắt chất chứa đầy sự oán hận ứ đọng và cơn trầm cảm sâu sắc, và thường là tôi lại tự hỏi sáng nay đã xảy ra chuyện gì khiến bà chị gái thiện chiến của tôi sửng cồ lên như thế.

“Tại sao chị lại quan tâm?” Tôi bất ngờ hỏi.

“Cái gì?”

“Màu hồng tía ấy. Tại sao chị lại quan tâm? Về quần áo của em, chuyện em nên mặc quần áo màu gì, có khiến người khác thấy em quyến rũ hay không? Tại sao chị lại quan tâm?”

Shana chau mày nhìn tôi, rõ ràng bối rối trước câu hỏi này. Cuối cùng chị đáp: “Mày đúng là đứa chậm phát triển chết tiệt.”

“Và điều này...” Tôi nhận xét. “... Là lời lẽ thắm tình chị em nhất chị từng nói với em.”

Câu đáp trả chua cay thuyết phục. Shana trợn tròn mắt nhưng cuối cùng miễn cưỡng mỉm cười. Sự căng thẳng trong căn phòng cuối cùng cũng dịu xuống, và cả hai chúng tôi có thể cùng thở phào.

Shana có thể ba hoa bốc phét, nhưng theo lời quản giáo, chị gái tôi dường như thực sự chờ mong những cuộc gặp gỡ hằng tháng này. Đến nỗi trong những giai đoạn quá khích có hành xử rối loạn, thì lời đe dọa sẽ không còn được gặp tôi nữa thường xuyên là hình phạt duy nhất đủ nghiêm khắc để kiềm chế chị. Và thế là chúng tôi vẫn tiếp tục vũ điệu hằng tháng này, đến giờ đã được gần mười năm.

Có lẽ gắn bó với một mối quan hệ đích thực cũng như quen biết một kẻ tâm thần bẩm sinh.

“Chị ngủ tốt không?” Tôi hỏi.

“Như một đứa trẻ.”

“Có đọc cái gì hay không?”

“À có. Trọn bộ tác phẩm của Shakespeare. Chẳng bao giờ ngờ được vào lúc nào đó thể thơ năm nhịp đầy lại có ích.”

“Cả cậu nữa sao, Brutus?[*]”

Lại một nụ cười yếu ớt nữa. Shana ngả người vào lưng ghế thư giãn. Hai chị em tiếp tục trải qua ba mươi phút chuyện trò nữa, lúc thì châm chích, lúc lại vu vơ chẳng đâu vào đâu, như chúng tôi hay làm vào ngày thứ Hai đầu tiên của mỗi tháng. Cho đến khi Sĩ quan Maria gõ lên cửa sổ, và như thế giờ thăm đã hết. Tôi đứng dậy. Chị gái tôi thì chẳng phải đi đâu, chọn cách ngồi yên trên ghế.

“Màu hồng tía nhé.” Chị nhắc lại lời góp ý, khi tôi lấy chiếc áo khoác đen từ lưng ghế.

“Có lẽ chị nên làm theo lời khuyên của chính mình.” Tôi đáp. “Bổ sung thêm sắc màu nào đó vào tác phẩm nghệ thuật của chị.”

“Rồi thêm chuyện cho mấy ông bác sĩ tâm thần nghiên cứu à?” Chị cười khẩy. “Chị chẳng nghĩ thế đâu.”

“Chị có giấc mơ hai màu đen trắng không?”

“Thế em thì sao?”

“Em không chắc là mình có mơ không.”

“Có thể đó là đặc quyền của tình trạng của em. Chị mơ nhiều lắm. Phần lớn là giấc mơ đỏ máu. Khác biệt duy nhất là đôi khi chị là người cầm dao và đôi khi là người cha già yêu dấu.”

Chị nhìn tôi trừng trừng, đôi mắt bất chợt long lên, như mắt cá mập, nhưng tôi hiểu tốt hơn cả là không cắn câu.

“Chị nên có quyển nhật ký ghi lại các giấc mơ của mình.” Tôi khuyên.

“Em nghĩ tranh vẽ của chị là cái quái gì thế?”

“Một sự bùng nổ khó chịu của bạo lực thầm kín.”

Chị phá lên cười, vào đúng lúc này, tôi thẳng tiến ra cửa, bỏ lại chị sau lưng.

“Chị ấy ổn chứ?” Một phút sau, tôi hỏi khi đi theo Sĩ quan Maria dọc hành lang. Không có giờ viếng thăm dành cho những người thông thường vào ngày thứ Hai, nên các sảnh tương đối tĩnh lặng.

“Khó nói lắm. Cô biết đấy, sắp đến ngày kỷ niệm ba mươi năm rồi.”

Tôi ngây ra, nhìn chằm chằm Sĩ quan Quản chế.

“Nạn nhân đầu tiên của Shana.” Sĩ quan Maria nói thêm. “Đứa trẻ hàng xóm mười hai tuổi, Donnie Johnson. Tuần tới là tròn ba mươi năm Shana giết chết cậu bé. Một phóng viên địa phương nào đó đã gọi đến hẹn lịch phỏng vấn.”

Tôi chớp mắt. Không hiểu sao, tôi lại không cố gắng kết nối những đầu mối này. Vừa với tư cách một nhà trị liệu lẫn một phụ nữ nỗ lực hết sức tự quản lý bản thân, sau này tôi sẽ phải hỏi mình tại sao. Nỗi đau nào tôi đang cố lảng tránh? Một khoảnh khắc tự soi chiếu bản thân thật mỉa mai.

“Dẫu sao thì cô ấy sẽ chẳng trả lời câu hỏi nào đâu.” Maria nói tiếp. “Còn trả lời câu hỏi về cô ấy, cô ấy ổn. Ý tôi là cậu bé kia giờ không thể nói gì được nữa thì kẻ giết cậu ta sao lại phải nói?”

“Giữ liên lạc với tôi nhé.”

“Rất sẵn lòng.”

Ra cửa trước, tôi lấy lại túi xách, ký vào sổ rồi tiến về phía chiếc ô tô của mình đang trong bãi đỗ xe rộng hàng trăm thước, từ biệt khu vực có tường gạch và dây thép gai lởm chởm bao quanh, nơi được xem như chỗ ở thường trú của chị gái tôi.

Trên ghế hành khách là chiếc áo len đan màu hồng hơi đỏ tía sành điệu tôi đã mặc khi đến đây. Thế nhưng tôi đã thay áo trong lúc vẫn ngồi trên xe, tháo hết đồ trang sức, vốn là những quy định khi đến thăm, chọn cho mình vẻ ngoài giản dị hơn, thích hợp với cảnh quan.

Tôi vứt sang bên chiếc áo len mới tinh, vừa mua hai tuần trước, và xin thề đó là món đồ màu hồng tía duy nhất tôi có.

Lúc này tôi ngước mắt nhìn lên cơ sở cải tạo xây bằng gạch. Dĩ nhiên nhìn đâu cũng thấy cửa sổ. Cả khe hở bé tí tẹo trong xà lim cách ly của chị tôi cũng vậy. Nhưng từ khoảng cách này, dù có cúi xuống một cách vụng về sau tay lái, tôi vẫn không nhìn được xa hơn qua cửa kính xe phủ màu của chiếc SUV...

Tôi không bao giờ giải thích được mọi thứ về chị gái. Nhưng rồi tôi nghi ngờ liệu chị ấy có thường xuyên cảm thấy như thế về tôi.

Vào số chiếc Acura, tôi lái xe về hướng khu trung tâm thương mại của Boston, nơi một buổi chiều bận rộn đang chờ tôi trước mắt, đầy kín những bệnh nhân đang muốn kiếm tìm sự giải thoát khỏi vô vàn nỗi ưu phiền, gồm có một bệnh nhân mới, nữ thanh tra Boston vừa bị chấn thương khi đang thi hành nhiệm vụ.

Tôi yêu công việc của mình. Tôi mong chờ những thách thức, khi tôi tiếp đón từng bệnh nhân và nói lời chào thích hợp với một phụ nữ cũng ở tình trạng như tôi. “Xin hãy kể tôi nghe nỗi đau của bạn.”

Nguyên văn tiếng La tinh “Et tu, Blute?”, một câu thoại trong vở Julius Ceasar của Shakespeare.