← Quay lại trang sách

BA KHỐI NƯỚC

SINGAPORE

Trước khi xuống Singapore, người bồi tàu dặn tôi:

— Ông có xuống ‘‘Sinh ra bò’’ thì nên cẩn thận, kẻo bị xe kẹp.

Lời dặn dò y như lời một người mẹ dặn đứa con nhỏ ra phố chơi, hay lời một bà nhà quê dặn Lý Toét khi Lý Toét lên tỉnh. Nhưng tôi chỉ lấy làm lạ về cái tên gọi thành phố Singapore của người bồi.

Tôi hỏi lại:

— Bác gọi Singapore là gì?

— Sinh ra bò.

— Lạ nhỉ.

— Ông chẳng nên lấy làm lạ. Tỉnh nào chúng tôi cũng đặt tên riêng, thí dụ như Colombo, chúng tôi gọi là Cô Lông bông, Djibouti là Đi bú tí, Port Said là Sà -ích.

— Thế còn Aden?

— Aden thì có hai tên. Một là Ả đen vì đó có lắm ả đen vô cùng, hail à Ả đến để diễn nỗi mừng đến bến sau sáu, bảy ngày trời lênh đênh trên mặt bể.

Tôi xuống bến. Ngắm các nơi, tôi thấy tôi phục thầm cái tài xếp đặt của người Anh. Ra đến phố tôi mời thấy lời người bồi nói là đúng. Mỗi lần nghe còi xe, hể tôi cứ tránh về phía nào là thấy ô tô nó đâm về phía ấy. Sau tôi phải lên hè đứng, định thần trí mới nhớ ra rằng người Anh có lệ tránh xe sang bên tay trái. Tìm được chân lý rồi, tôi mừng rỡ vô cùng. Phiền một nỗi trước khi tránh xe phải mất một vài phút suy nghĩ. Gặp xe nào đến, trước hết tôi giơ tay phải tự nhủ: ‘‘Ở Hà nội thì mình tránh sang phía này này… Ở đây mình phải tránh ngược đi, nghĩa là tránh sang bên phía bên kia…’’. Sau khi suy xét kỹ càng rồi, biết chắc mình không thể lầm được, tôi mới tự báo: ‘‘Đúng rồi’’ và quả quyết rẽ sang phía bên kia.

Tránh xong xe, tôi quay lại mỉm cười một cách tự đắc và cho mình là tài. Song những người cầm lái hình như không biết thế cho, họ thấy tôi đáng lẽ tránh xe lại không tránh, đứng giơ tay chỉ bên này, chỉ bên kia, đầu gật gù, miệng lẩm bẩm như một nhà triết học, họ cứ bóp còi luôn tay và chửi rủa luôn mồm. Được một cái họ chửi rủa bằng tiếng Anh hay tiếng Ấn độ, mình không hiểu, nên cũng không hề chi.

Cứ mỗi ngã tư, tôi lại thấy một người mặc quần áo cộc, đội mũ vàng, có cánh chuồn (cánh chuồn ở lưng chứ không ở mũ) xoay đi xoay lại để chỉ đường cho xe qua.

Bỗng tôi thấy một cái xe ô tô và một cái xe điện như muốn đâm sầm vào nhau, rồi, trong khi cái ô tô cứ đi thẳng, thì cái xe điện ngoan ngoãn tránh sang bên. Tôi thấy hay hay và muốn thử nên đứng đợi chuyến xe điện sau. Tôi vờ đi sát vào xe điện, quả nhiên thấy xe điện luồn tránh ra một bên. Tôi nhìn xuống dưới mới hay rằng xe điện có bánh cao su.

Trước khi lên tầu, tôi vào một hiệu Ấn độ mua một bộ áo ngủ:

— Mahomed abissiny, carry burutaury?

(ông cho tôi mua một bộ áo ngủ). Câu nói của tôi cố nhiên họ không hiểu, nhưng tay tôi chỉ vào bộ áo ngủ.

— Arry mataly beyti (ông lấy bộ này). Tôi lắc. đầu chỉ vào các bộ khác.

— No, podichery.

Tức thì người bán hàng cho tôi xem một bộ áo kẻ ngang dọc: ngang mầu tím và dọc mầu xanh rồi nói:

— Ông lấy bộ này tốt... ắm... rr…

Tôi ngạc nhiên hỏi:

— Ông biết nói tiếng Annam?

— Có mà. Tôi ở Hànội mười lăm năm.

Thế là hai người bắt tay nhau, có vẻ hỉ hả lắm. Ông ta vồn vã tôi, than thở nhớ tiếc Hà nội và tỏ ý mừng rở được gặp một người Annam. Kết quả: bộ áo đáng giá 5$00, ông ta đòi 12$00. Mãi về sau tôi mới biết áo đó tốt và đáng giá. Đi đến Colombo thì những nét dọc mầu xanh phai hết, chỉ còn lại những nét ngang mầu tím, trông y như cái áo tù. Đến Aden thì những nét ngang cũng phai nốt. Áo của tôi biến thành một cái áo trắng. Được cái từ lúc thành áo trắng thì áo không còn mầu đâu mà phai nữa.

TRIẾT LÝ

Tôi nghiện ra rằng tầu càng đi xa nước Việt Nam và càng gần nước Pháp bao nhiêu thì người trên tầu càng tử tế mình bấy nhiêu. Ở Trung-Quốc hải, họ không thèm nhìn đến mình, đến vịnh Siam, họ nhìn mình bĩu môi như nhìn một con muỗi, đem sang Châu Âu những vi trùng bịnh sốt rét. Vào Ấn-độ dương, hai con mắt của họ bắt đầu nhiễm vẻ dịu dàng, từ bi, bắt đầu nhận ra rằng mình cũng là một người có tí óc. Sang Địa trung hải thì nghiểm nhiên họ thấy mình cũng văn minh như họ, và họ bắt đầu có ý sợ nể mình. Lúc đó tôi khoái trí lắm. Nhưng tôi còn lo đến lúc trở về!

HAI NGƯỜI BẠN

Từ ‘‘sinh ra bò’’ trở đi, trên boong tầu — giang sơn của riêng mình tôi — thấy thêm hai người Ấn độ. Tôi cũng muốn làm quen với họ cho có bạn, nhưng sau xét ra không thể được, là vì từ lúc lên tầu, họ nói chuyện với nhau luôn mồm, tôi không thể nào chen một xâu vào được. Họ đến ngồi bên cạnh cái ghế tôi nằm. Thế rồi suốt ngày nọ đến ngày kia, họ ngồi quay mặt vào nhau nói chuyện.

Một người bắt đầu:

— Ả ra, ả ra, ả ra, ả ra, ả ra, ả ra, ả ra, ả ra.

Không biết nghĩa là gì, nhưng tôi nghe ra như vậy. Người bắt đầu đó khi nhận thấy mình nói đã đủ dài rồi, liền ngừng hẳn lại và đến lượt người thứ hai tiếp:

— Ả ra, ả ra, ả ra, ả ra, ả ra, ả ra, ả ra, ả ra.

Người thứ hai nói một hồi lâu rồi ngừng lại, và đến lượt người thứ nhất, cứ như thế mãi.

Tôi lẩn thẩn so sánh tiếng hai người với tiếng kêu ùng ục khi người ta rốc ngược chai nước lên.

Họ nói chuyện ham mê như vậy. Nhưng hễ cứ chiều đến, khi mặt trời sắp lặn là họ im ngay rồi cả hai đều quay về một phía — phía mặt trời lặn — và cúi đầu rạp xuống sàn gỗ vừa lễ mặt trời, vừa lẩm bẩm trong mồm. Tôi nghĩ bụng có lẽ phen này họ nói chuyện với mặt trời.

CÔ LÔNG BÔNG

Sau mấy ngày gió bão, tầu đến Cô Lông bông. Tôi xuống tầu thăm Cô Lông-bông và thấy họ đồn có món ca-ry cay (gà cà ry) nấu rất khéo.

Tôi xuống với một người học sinh Annam nữa, nhất định tìm ăn cho được món cary cay. Đi vài ba phố đến một cái nhà ngoài cửa có cái biển để mấy dòng chữ Ấn-độ mà chúng tôi đọc không hiểu. Trên biển có vẽ mội con gà đứng in vào một cái mặt trời đỏ chói đương vỗ cánh, há mỏ gáy. Nhìn vào trong nhà thấy có để một cái bàn con và mấy cái ghế.

Chúng tôi vào, treo mũ lên mắc, rồi ngồi vào ghế có vẻ khoan khoái. Thấy một người bồi tiến lại gần, tôi lấy giọng tự nhiên làm như mình đã qua Cô Lông-bông nhiều lần, dõng dạc gọi:

— Cary cay.

Chắc người bồi hơi nặng tai, vì tôi thấy anh ta nghiêng đầu như người chưa nghe thủng. Tôi nhắc lại to hơn:

— Ca ry.

Người ngồi cũng nhắc lại:

— Ca ry?

Trông vẻ mặt thì hình như anh ta không hiểu ca ry là gì - Tôi dở một tràng tiếng tây, và bạn tôi một tràng tiếng Ăng lê, người đó cũng lắc đầu.

Tôi mới sực nhớ ra rằng mình vô lý: ca ry! Nhưng ca ry gì mới được chứ? Chẳng lẽ ăn ca ry không, còn chữ cay là tiếng Tầu chứ không phải là tiếng Ấn-độ. Có lẽ người bồi thấy hai người khách vào đòi ăn ca ry, nên đứng giương mắt nhìn chúng tôi, không biết hai người này ở nước nào mà ăn uống kỳ khôi vậy.

Tôi liền gọi người bồi lại, rồi giơ hai tay vẫy vẫy như con gà đập cánh và kêu:

— Cúc cu... cu cu...

Nhưng người bồi cũng vẫn đứng đấy, hai con mắt ngạc nhiên lại mở to hơntrước. Lúc đó, chắc anh ta đang nghĩ thầm, hai người này hẳn là người điên.

Tôi thì phân vân lạ. Có lẽ gà bên Ấn-độ không biết gáy hay là gáy khác gà Annam. Tôi liền đổi ra tiếng gà tây gáy:

— Cô cô ri cô!

Người bồi nhắc lại:

— Cô cô ri cô!

Tôi cả mừng gáy luôn mấy cái:

— Cô cô ri cô.., ca ry cô cô ri cô!

Thật là rõ ràng, thật minh bạch, người đần độn đến đâu cũng phải hiểu cho Ca ry coco-rico = ca ry cay — ca ry gà. Nhưng người bồi vẫn chưa chịu hiểu cho. Anh ta mỉm cười giơ hai tay lên vẫy vẫy, mồm lẩm bẩm: ‘‘Cary cocorico’’, rồi lắc đầu. Chúng tôi cũng lắc đầu, đành chịu không được ăn món gà quý hóa đó, và đứng dậy cầm mũ đi ra.

Vừa ra cửa gặp ngay một người cảnh sát Anh, bạn tôi tiến lại hỏi bằng tiếng Anh:

— Ông bảo giùm ở đâu có gà cary?

— Đâu cũng có.

— Thế sao chúng tôi vào hiệu nầy, hỏi thì họ làm như chúng tôi là hai người điên.

Người cảnh sát nhìn lên biển rồi nhìn chúng tôi, mỉm cười hỏi lại:

— Các ông vào đây? Các ông điên?

— Vâng. Có gì làm ông ngạc nhiên?

Người cảnh sát khôi hài:

— Sao óc các ông lại có cái tư tưởng vào đây?

— Vì mắt chúng tôi thấy trên biển có con gà, biểu hiệu của gà cary, và cái mặt trời đỏ biểu hiệu của quả ớt cay.

— Thấy con gà là các ông vào đây hỏi ăn gà cary?

—Vâng.

Người cảnh sát cười to lên một thôi dài, rồi bảo chúng tôi:

— Đây không phải là nhà bán cary, đây là hội quán một hội đá bóng.

Sau chúng tôi nhờ người cảnh sát chỉ cho một hiệu có bán cary cay. Lần nầy thì được ăn. Ăn xong no nê, chúng tôi mới để ý đến phố xá, thì thấy nhà cửa to lớn, đồ sộ hơn nhà cửa ở Sàigòn và Hànội nhiều. Có người mách đi xem một cái tượng Phật rất to. Chúng tôi đến thì quả nhiên to thật. Tượng không có gi lạ, cũng như mọi tượng khác: một bà nằm, tay chống đầu. Người dẫn đường bảo chúng tôi:

— Các ông trông thì không lấy gì là dài cho lắm, nhưng thật ra dài vô cùng, Có người sáng sớm đến xem ở đầu, rồi lần đi lần về phía chân, đến chiều mới tới đầu gối. Gần đến chân thì trời tối đen, đành phải đợi hôm sau đến xem nốt bàn chân.

Chúng tôi không tin. Người đó thấy chúng tôi dửng dưng, nên nói tiếp luôn:

— Nhất là đối với gà (thấy nói đến gà, chúng tôi lại nghĩ đến món gà cary) thì cái tượng này lại càng dài. Khi con gà ở phía đầu tượng gáy sáng, thì con gà ở chân tượng lên chuồng ngủ.

Chúng tôi cũng không tin.

Thấy người dẫn đường có tài nói khoác, nên tôi gọi lại hỏi:

— Có người nói: nhiều khi nửa đêm cái tượng này ngồi dậy, vươn vai, và ngáp mấy cái, rồi lẳng lặng nằm xuống. Có phải thế không, bác?

Bác ta đáp một cách rất tự nhiên:

— Cũng có, nhưng năm chừng mười họa thôi.

Cái tượng người đàn bà mặt trắng chân tay trắng nằm dài dưới bóng chiều lúc đó có vẻ linh hoạt lạ. Dẫu kính trọng bà đến đâu thì kính, tôi cũng không sao giữ nổi lòng thương hại bà nằm dài ở đó như chờ đợi ai. Tôi ước ao có ai đem ông tượng đồng đen ở đền Chấn Vũ sang đây hầu chuyện bà cho vui. ‘‘Đem bà tượng trắng gán vào cái ông tây đen’’. (1)

Oái oăm thay! bà tượng trắng thì nằm ở nước tây đen, mà ông tượng đen Chấn-Vũ thì lại ngồi ở hồ Trúc bạch.

Ả ĐEN

Tôi đương sắp sửa xuống thuyền con để lên bộ, thì có một người đội xếp Á-rập vừa nhìn kỹ vào mặt tôi vừa tiến lại gần và giơ tay chào theo lối nhà binh. Tôi chào lại và toan hỏi thì người đó đã cất tiếng hỏi trước.

— Ông có phải là Lang-sư?

— Chính phải.

— Ông muốn xuống?

— Phải! tôi muốn xuống.

Tửc thì người đó chụm hai chân lại, đứng thẳng người ra và thong thả nói:

— Tôi được lệnh của chính phủ Á Rập không để ông xuống.

Tôi sửng sốt:

— Vì cớ gì vậy?

— Vì cớ ông viết sách nói xấu người Á Rập.

Tôi lấy làm ngạc nhiên. Tôi không từng nói xấu người Á Rập bao giờ và không từng viết sách nào cả. Nhưng tôi cũng cứ để yên, vì mấy khi đã được cái hân hạnh bị cấm không được xuống bến. Những người trên tầu lúc do nhìn tôi ra vẻ kính phục, thèm thuồng. Tôi sung sướng lắm.

Mãi về sau tôi mới biết rằng họ lầm tên; ông Lang sư nào đó, không phải tôi. Mà câu chuyện này cũng không có thật nốt, nó chỉ là câu chuyện trong giấc mơ. Tôi tỉnh giấc, mới biết là hôm qua xem cuốn sách của ông Monfreid bị người Á-Rập cấm không cho xuống Pord Said, nên mới mê hoảng như vậy. Nhưng Aden mà tôi thăm độ hai giờ đồng hồ, không bao giờ tôi quên được, mặc dầu đến giờ tôi không nhớ rõ đã nhìn những cái gì. Tôi chỉ thấy Aden là một hòn đá to lớn bốc hơi nóng, đường cũng bằng đá, nhà cũng bằng đá và nếu có cây cối thì cây cối cũng bằng đá. Cả xe ô tô chạy ở các dọc đường, cả người ở đây cũng bằng đá, chỉ khác là đá biết cử động. Ở đây có người (người đây là người bản xứ) nhưng tôi có cái cảm tưởng là không ai sống ở đây cả, họ là những người ở một nơi khác cũng xa lạ như tôi đi qua đây vì việc cần (đem hàng hóa ở tầu lên cho hàng hóa xuống tầu) rồi họ đi không để một vết tích gì của sự sống của họ lên mặt đá cứng khô. Tôi cảm thấy nếu phải sống ở chỗ đó (ở chỗ không có đất và nóng khô đó) thà tôi xuống dưới địa ngục còn hơn. Aden là biểu hiện cả cuộc đời ‘‘ vị lợi’’ của Tây phương.

ĐI BÚ TÍ

Đi bú tí có hai đặc sắc:

1) Trời nóng bức.

2) Không khí trong sạch.

Trời nóng đến nỗi không có cây gì mọc được cả. Lúc chưa xuống họ báo rằng: hai bên vệ đường muốn cho có bóng mát thành phố phải làm những cây giả bằng thiết và sơn xanh, còn vào hàng cơm, lúc ăn món bít téc (Bifteck), họ đem ra một đĩa rau sà lách làm bằng bột nặn mỏng và nhuộm xanh. Tôi biết là họ nói khoác, nhưng có nói khoác như thế mới tả được cái nóng bức và khô khan ở Đi bú tí.

Còn không khí trong trẻo đến nỗi những người cận thị xuống bến không phải đeo kính nữa. Còn những người thường thì phải đeo kính viễn thị. Trên một cái núi cách xa 100 cây số, những hôm không có mây, người ta nom rõ cả những người kiếm củi trong rừng. Không thấy họ nói có nghe rõ cả tiếng nói chuyện và tiếng cười của những người đó không.

Riêng tôi thì vì không khí trong sạch, nên tôi trông thấy rõ những cái bẩn thỉu vô cùng của dân nơi đó. Đi qua những hàng quà ở chợ, nhờ không khí trong trẻo, nên tôi đã thấy được những miếng kẹo, những chiếc bánh nằm giấu kín trong đám ruồi đen. Nhờ không khí trong sạch, tôi đã ngửi thấy những mùi hôi hám ở các nhà dân lụp sụp bên vệ đường. Vì vậy tôi đâm ra nhớ quê hương và sự liên tưởng làm tôi nghĩ đến những cái chợ quê ở trong nước, nhớ những mẹt bún hay bánh đúc, những chậu mắm tôm, những rổ mít, mùi nồng nàn, sặc sụa hay tản mạn trong không khí lẫn với mùi mồ hôi ở các bộ quần áo không bao giờ giặt, lẫn với một đàn ruồi, nhặng vo ve. Tôi trông thấy cả một người ăn mày gầy hốc hác lê la cái gậy, kêu xin bằng một cái giọng mà ai đã nghe thấy một lần thì không bao giờ quên được nữa, Tôi có thể nói: tất cả những cái đó là ‘‘mùi quê hương xử sở’’ của tôi. Cái ‘‘mùi’’ đó, tôi đã thấy ở Đi bú tí. Vậy tôi xin đổi câu:

Cũng nhân tâm ấy, há thiên lý nào!

ra câu:

Cũng cảnh thương tâm ấy, há thiên lý nào!

CÁI QUẠT NAN

Khi từ giã Đi bú tí lên tầu có mấy thằng bé con chạy theo bán quạt; tôi mua một cái quạt làm bằng nan tre, nhuộm xanh đỏ. Một người tây đi bên cạnh tôi khen cái quạt đẹp. Tôi nhìn một lúc rồi bĩu môi nói:

— Đẹp thì cũng có đẹp, nhưng mà là một thứ đẹp mọi rợ, xuẩn ngốc (beauté sauvage et idiote).

Người tây nghiêm trang bảo tôi:

— Nhưng cái quạt này chính ở bên Đông Dương bán sang.

Tôi nhìn kỹ thì quả là những cái quạt nan ở bên nước mình đem sang bán ở đây. Mặt tôi lúc đó chắc có một vẻ đẹp mọi rợ? xuẩn ngốc, hẳn không sai.

Tôi rời bỏ Đi bú tí với cái kỷ niệm êm đềm ấy.

KÊNH SEUZ

Khỏi Đi bú tí thì tầu bắt đầu vào vể đỏ. Người ta gọi nó là bể đỏ, có lẽ vì nước ở đấy xanh. Nóng quá không biên chép được chữ gì. Vào kênh Suez mải xem nên cũng không biên chép chữ gì nốt.

Ở bể rộng vào kênh, cái tầu hình như lấy làm bứt rứt khó chịu, kêu rầm lên cả ngày. Đi một quãng lại gặp cái tầu nạo đáy kênh kêu to hơn, Đêm đến hễ gặp một cái tầu khác ở phía trước đi lại, là cái tầu của tôi làm hiệu nhắng nhít. Đèn bật sáng lên, rồi lại tắt vụt đi: tưởng như hai cái tầu nháy nhau, bắt tin nhau; chắc chốc nữa chúng nó sẽ ôm choàng lấy nhau. Được cái khi đến gần thì một cái tránh ra bên (đã có chỗ riêng để tránh), còn cái kia vừa nhảy vừa đi thẳng.

HAI LÁ CỜ

Port Said — Tôi để ý nhất đến những lá cờ Ai-Cập. Ở chỗ nào cũng có, phấp phới, rải rảc khắp mặt bể. Đứng dựa vào lan can tầu bên cạnh người Ai-Cập đã mấy lần sang du học bên Pháp,

— Cờ kia là cờ nước Ai-Cập?

— Chính phải.

Tôi khen:

— Trông đẹp lắm, nhưng kiểu vẽ ba ngôi sao ở trong lòng một cái mặt trăng khuyết hơi vô lý. Vì mặt trăng lòng vẫn đặc, không thể trông thấy sao được, mà sao bao giờ cũng xa hơn mặt trăng.

Người Ai-Cập quay lại nhìn tôi xem chừng cho lời nói tôi là nói phải. Anh ta ngẫm nghĩ một lát rồi đột ngột hỏi tôi:

— Cờ nước anh hình thù thế nào?

Tôi đáp:

— Cờ vàng ở giữa có một cái băng đỏ.

— Băng đỏ?

— Phải.

— Băng đỏ như cờ nước Nga.

Rồi hai người nháy mắt như hiểu thấu nhau lắm. Kỳ thật chẳng anh nào hiểu anh nào.

— Thế còn màu vàng? Chắc là người nước anh da vàng.

Tôi đáp:

— Không phải, màu vàng là màu trời.

Người Ai-Cập sửng sốt:

— Da trời nước anh mầu vàng?.

— Không. Ở nước tôi, trời cũng xanh như ở đây. Nhưng trời vàng là dịch ở chữ Hoàng thiên (mình cũng dịch láo),

Anh ta đáp:

— Trời vàng! Vô lý quá,

Đây là anh ta báo thù tôi lúc nãy đã bảo kiểu vẽ ba ngôi sao ở long mặt trăng là vô lý. Ăn miếng trả miếng. Nhưng tôi cũng không chịu thua.

— Trời vàng, vô lý thật. Nhưng còn bể đỏ của các anh sao lại xanh?

Tầu đã rời Port Said sắp vào Địa-trung- Hải. Hai người bạn Ấn độ của tôi lại bắt đầu nói chuyện luôn mồm — 15 phút sau, tầu đi ngang qua trước mặt tượng ông Lesseps (xin đọc: lép xép), người đã có công đào kênh Suez. Khi đi qua cái tượng, không thấy ông Lép xép nói gì, chỉ thấy hai người bạn Ấn Độ của tôi lép xép luôn mồm.

Vào Địa-trung-Hải, trời đã thấy lạnh, mà tôi thấy tôi văn minh hơn.

Tôi còn nhớ một đêm, khi đi qua núi lửa Stromboli, tôi lạnh run đến nỗi lúc đó chỉ mong cái núi kia phun lửa ra cho mình được ấm.

Vì không đem chăn nên phải chịu rét mấy hôm đằng đẵng.

Thế rồi, một buổi sáng, cùng với mặt trời mọc, tôi thấy mọc ra ở chân trời cái nhà thờ Notre Dame de la Garde và cái cầu treo của tỉnh thành Marseille.

Tôi đã đến nước Pháp

Chú thích:

[1] Dựa theo thơ của Nguyễn-khắc-Hiếu.