TRÊN ĐẤT PHÁP
Ở MARSEILLE
Bước xuống đất nước Pháp, nhìn phong cảnh, tôi không thấy gì lạ cả. Từ cây cối, vật, người, hình như tôi đã trông thấy ở trong kiếp trước của tôi. Vì vậy tôi mới đoán rằng: kiếp trước ‘‘tôi là một người tây’’. Nói thế không phải là để khoe mẽ, vì theo thuyết luân hồi. Lúc tôi là người tây, chắc tôi đã mắc mưu tội lỗi gì, nên kiếp này mới phải đầy xuống làm một người thợ ảnh Annam đi tàu thủy hạng boong. Chắc lúc ở dưới địa ngục, ngục có cái trọng trách cho tôi uống cháo lú đã quên, người đó nhơn đói bụng đã húp cháo lú của tôi nên quên, quên không cho tôi uống cháo lú. Sau nghĩ kỹ mới biết rằng không phải vậy, tôi có cái cảm tưởng đó vì đã xem nhiều sách, nhiều tranh về nước Pháp.
Lúc đến nước Pháp, điều thứ nhất là tôi đi tìm một cái phòng để ngủ, điều thứ hai là khi đã ngủ kỹ rồi, tôi đi tìm một hiệu cao lầu để ăn ‘‘súp bát nháo’’ (La bouillabaisse) thứ súp này nổi tiếng nhất hoàn cầu và phải ăn ngay, ở Mạc-xây mới ngon.
Vừa ngồi vào ghế cao lầu, một người bồi (cố nhiên là người Pháp) ăn mặc sang trọng hơn tôi, từ từ tiến đến. Tôi giật mình đánh thót một cái, nhưng lại định thần ngay được.
Tôi đã biết rằng người ở Mạc-xây có tiếng là nói khoác, (1) nên tôi phải đề phòng trước:
— Cho tôi một đĩa ‘‘súp bát nháo’’. Bác phải biết tôi ở bên Đông-Dương sang đây chỉ cốt ăn súp đó. Tôi vừa ở tầu xuống và nhờ bác bảo làm mau lên một chút để ăn xong tôi kịp đáp ngay xuống tầu về Đông-Dương nhổ neo chiều hôm nay.
Người đó lấy làm phục tôi lắm:
— Ngài nghĩ chí phải, ở bên nước ngài chắc cũng có thứ ‘‘súp bát nháo’’, nhưng phải ăn ngay ở tổ nó mới ngon. Đã có câu tục ngữ ‘‘Ăn súp bát nháo mà không có gió Mít-tan (mistral) thứ gió lạnh ở vùng này) thì không, xong’’.
Phải cái hôm ấy, không khí yên lặng, không có lấy một ngọn gió nhẹ, thành thử tôi ăn súp tuy ngon nhưng thấy còn thiếu thứ gì. Tôi nhìn người bồi hỏi:
— Bác làm ơn cho một đĩa Mít-tan.
NHẬN NHAU
Sau khi đã ngủ một bữa ngon, và ăn một bữa ngon, tôi mới đi xem phố xá. Thỉnh thoảng tôi đương đi lại gặp một người da vàng. Nhưng tôi không biết là người Tầu, người Nhật hay người Annam. Lúc đó thì tôi đương cần gặp một người Annam. Sau tôi tìm ra được một mẹo mà tôi cho là thần tình. Hễ thấy một người da vàng đi trước mắt là tôi rảo cẳng tiến đến gần, rồi nhìn lên trời và nói một mình:
— Này ‘‘đồ mặt mẹt’’.
Nếu người đi trước tôi là người Nhật hay người Tầu, thì họ đi thẳng, vì họ không hiểu tôi nói gì. Nhưng nếu người đó là người Annam, thì tất nhiên quay lại ngay. Người đó cũng không, có cớ gì giận được tôi, vì người đó lúc quay lại chính mình đã tự nhận là ‘‘đồ mặt mẹt’’. Nếu không, ai bảo quay lại làm gì? Cái lối của tôi thật hiệu nghiệm. Một ngày hôm đó gặp mười người da vàng’’ thì có hai người quay lại khi nghe gọi ‘‘đồ mặt mẹt’’ nghĩa là đã tự nhận là người Annam. Hai người đó là học sinh cả, họ không giận tôi, vì họ cũng dùng câu ‘‘khẩu hiệu’’ đại khái như thế để phân biệt Annam với Tầu. Câu của tôi, họ còn cho là thanh nhã.
Hai người học sinh này về sau trở thành hai người bạn rất thân của tôi, mặc dầu lúc gặp gỡ, tôi đã tặng cho họ cái huy hiệu mỹ lệ, khả ái ấy.
ÔNG BẠN MẠC-XÂY
— Tôi lại chơi ông M..., một người trong hai người mà hôm qua tôi đã định tâm gọi là ‘‘đồ mặt mẹt’’. Ông M. ăn ở một cách rất cao thượng. Cái cao thượng của ông có thể đo bằng bực thang được. Từ dưới đất lên tới chỗ ở của ông, tôi đếm vừa đúng 125 bực thang. Ông M. đứng trên từng gác thứ năm nhìn xuống, mỉm cười vẫy tôi lên. Tôi lên tới nơi, ông giơ tay bắt tay và xin lỗi:
— Tôi cũng muốn giữ lễ phép với ông xuống đón tận dưới chân thang. Nhưng ông tính, sáng ngày ăn có một cái bánh tây sữa, nếu xuống thì khi lên đây, tôi phải ăn sáng lại.
Thấy nói vậy, tôi biết chắc là Ông M. ở Mạc Xây đã lâu.
Buồng ông M. có cửa sổ ở trên trần nhà,
vì ông ở sát mái cho thật cao; các bức tường
đều có dán giấy vẽ hoa. Tôi hỏi hoa gì thì ông
ta đáp ngay không nghĩ ngợi:
— Đó là hoa phù dung. Chỉ khác một cái là hoa phù dung thật thì sáng trắng, chiều đỏ, mà hoa phù dung này của tôi trước kia đỏ, bây giờ đổi ra trắng.
Tôi đưa mắt nhìn cái giường và thấy nó như thiếu một cái gì. Ông M. cười và ngâm một câu ca dao:
Thực đáng thương, thực đáng thương,
Có bốn chân giường, gẫy một còn ba.
Rồi ông buồn rầu nói tiếp:
— Một trăm năm mươi quan, mười lăm đồng bạc hoa soè đấy! Tôi muốn tìm một cái buồng tồi hơn, nhưng không có. Không có cái buồng nào có giường hai chân cả.
Tôi hỏi:
— Ở bên nầy mùa đông rét đến bực nào?
— Cũng kha khá vậy thôi. Về mùa đông nếu vô ý để nước sôi đổ lên tay chỉ thấy man mát. Tập thể thao một lúc, mồ hôi toát ra, nếu không lau ngay thì nó đọng lại thành nước đá; lắm hôm rét quá, nhớ quê hương xứ sở, muốn khóc mà không khóc được, vi nước mắt đóng ngay thành nước đá ở khóe mắt, đành chịu.
Tôi ngây thơ hỏi nữa:
— Thế những lúc ra ngoài phố thì rầy rà lắm nhỉ?
Ông M. chép miệng:
— Tôi lấy một thí dụ hơi tục, xin ông tha lỗi cho: lúc đi tiểu tiện xong, phải lấy tay đập mạnh một cái mới bỏ đi được. Nếu có đội xếp gần đấy thì thế nào ông cũng bị phạt vi cảnh, vì cái cây nước còn đứng nguyên đó sẽ là một tang chứng chắc chắn.
Ông M. ngừng lại một lát rồi nhìn tôi để xem tôi có lấy thể làm lạ không. Tôi vẫn giữ nét mặt thản nhiên và chú ý lắng tai nghe ông M. nói nữa. Ông M. liền tiếp:
— Nhiều khi đi học từ bẩy giờ sáng, máu ở hai tai vì lạnh quá nên đông lại, vành tai thành ra cứng. Giá lúc đó bẻ mạnh một cái thì thấy tai giòn như bánh đa. Được cái vào lớp học có lò sưởi nên tai mềm dần lại.
Tôi sực nhớ đến việc mời ông M. đi ăn cơm tây. Tôi để ông M. tùy ý chọn, vì tôi mới sang còn bỡ ngỡ. Ông ta vội nói ngay:
— Bất cứ hàng cơm nào cũng được, miễn là không phải hàng cơm tôi ăn tháng.
— Cớ sao vậy?
— Vì hôm nay gió to.
Tôi ngạc nhiên không hiểu, Ông M. cười chua chát giảng nghĩa:
— Có một lần trời gió to, tôi vô ý một lúc, miếng thịt của tôi bị gió thổi bay sang đĩa của người bên cạnh. Người bên cạnh cắt thịt ăn liền. Nói thế để tỏ cho ông biết miếng thịt ở hàng cơm của tôi mỏng là ngần nào. Hễ gió to là nó bay vèo đi như chiếc lá vàng bay trước gió thu. Trông buồn thảm tệ. Bây giờ thì tôi đã có ý, hễ cô bồi của tôi đưa đĩa thịt rán lên là tôi vội cầm dao chặn ngay lấy... Ấy thế mà mỗi tháng hơn ba mươi đồng. Sau nầy rồi các ông cũng sẽ gặp những cảnh đó. Vậy hôm nay chủ nhật không gì hơn là chúng mình về nhà quê chơi, rồi vào một cái hàng quán nào ăn, vừa rẻ lại vừa được ngoạn cảnh thôn quê.
NHÀ QUÊ
Chủ nhật Dân thành phố kéo nhau đi chơi về các cánh đồng quá nửa. Tôi thấy vụt qua trước mặt tôi một cái xe bình bịch, trên có một người đàn ông với hai đứa con và một người đàn bà to béo bằng cả người đàn ông và hai đứa bé hợp lại. Ông M. nói:
— Cả một gia đình. Lát nửa trên bãi cỏ non bên bờ sông, chồng ngồi câu cá, vợ ngồi để nhìn phao, và hai đứa con thì để nó reo vui khi nào câu được một con cá.
Đi qua một công viên, tôi đứng lại ngắm một cái ghế kỳ khôi hơn cái xe bình bịch: trên cái ghế đó, một bà cụ tóc bạc phơ và một ông cụ râu bạc phơ, ngồi đưa lưng vào nhau há hốc mồm ngủ.
Ông M. nói:
— Trong khi cô con gái hay cậu con trai cùng tình nhân diễu lượn trong rừng, thì ông cụ, bà cụ cũng thắng bộ quần áo mới đi ra ngồi ở ghế công viên làm một giấc, đến chiều về. Ở bên này họ hầu bỏ cái thú trong gia đình, mà vui sống ngoài xã hội cả. Chỉ những người ốm mới chịu nằm nhà.
Nhà quê bên Pháp khác nhà quê bên ta nhiều thứ.
1) Con gái nhà quê để răng trắng nhỡn như me tây.
2) Không có nhà tranh lụp xụp và ẩm thấp.
3) Không có những đứa trẻ bụng ỏng, chạy theo ‘‘ông tây’’ xin xu.
4) Không có ăn mày ghẻ lở nằm lăn ra đất.
5) Ở bên ta chỗ nào có giấy vứt thì phải tránh cho xa ; ở bên này những chỗ đó là những chỗ đã có người đến ngồi chơi, ngồi ăn uống, như vậy chắc là sạch sẽ.
Đó là về hình thức, dễ nhận ngay, còn như những cái hay ho về tinh thần: như tôn ti trật tự, chiếu trên ra chiếu trên, chiếu dưới ra chiếu dưới, người đáng ăn phao câu, thủ lợn thì ăn phao câu, thủ lợn, vân vân... thì đợi sau xem kỹ mới biết được. Dẫu sao, nhìn qua, cũng có thể biết được đại khái rằng kém xa không thể nào bằng bên mình được.
GIỐNG NGƯỜI GÌ
Chúng tôi vào một quán hàng sạch sẽ. Bàn chúng tôi ngồi đặt dưới một giàn nho lá xanh non: trên bàn phủ vải trắng có để một chai rượu đỏ mới lấy ở hầm ra.
Một cô bồi hầu chúng tôi, một cô bồi tóc hung, mắt xanh, da trắng, má hồng. Cô mặc một cái áo xanh da trời, trước ngực đeo một cái khăn trắng bong. Tôi vừa uống rượu vừa đưa mắt ngắm nghía cô bồi xinh đẹp và chạnh nghĩ đến những hàng quán bên nước mình, nghĩ đến những mẹt bún, mẹt bánh đúc đầy ruồi và cô hàng đen thui thủi, vừa lấy tay áo quệt mũi xong lại bốc bún vào bát cho khách ăn.
Cô bồi cũng nhìn chúng tôi, hơi lấy làm lạ. Có đặt đĩa trứng ‘‘lập là’’ lên trên bàn rồi hỏi:
— Hai ông là người Tầu?
Ông M. của tôi vội lắc đầu một cách dữ dội như có ý không bằng lòng. Vì người Tầu không có gì là danh giá cả. Cô bồi nói tiếp:
— Không người Tầu thì hẳn là người Nhật?
Tôi toan nhận thì ông M. đã lắc đầu nói:
— Chúng tôi là người Annam.
Cô bồi hơi ngờ ngợ như không hiểu là giống nguời gì. Cô hỏi:
— Các ông sang đây chắc đã lâu, nên nói tiếng tây tôi nghe thạo lắm.
— Tôi sang đây đã ba năm.
Cô bồi nhìn tôi hỏi:
— Còn ông kia sang đây chắc đã năm, sáu năm rồi?
Ý cô muốn nói một cách kín đáo rằng: Tôi nói thạo tiếng tây hơn ông M... Muốn cho cô phục tôi hơn nữa, nên tôi vội tiếp:
— Tôi vừa đến nước Pháp được hai hôm nay.
— Hai hôm, lạ nhỉ. Hẳn ông là một nhà ngoại giao và có giao thiệp với người Pháp nhiều lắm.
Tôi đáp:
— Tôi không phải là một nhà ngoại giao. Nhưng giao thiệp với người Pháp thì có giao thiệp.
Cô bồi ngây thơ hỏi:
— Ở bên nước ông không biết người Pháp ở có nhiều không. Ông vẫn gặp họ luôn đấy chứ?
Tôi cũng trả lời ởm ờ:
— Có, một đôi khi cũng có gặp. Người Pháp đối với chúng tôi cũng tử tế, mà vì thế nên tôi mới giao thiệp với họ.
Ông M. nhìn tôi như có ý bảo:
— Khá đấy, ấy là ở Mạc-xây mới có hai ngày!
Ý NGHĨ CHUA CHÁT
Sau khi cơm no, rượu say và trả chủ hàng hai mươi quan, tôi dúi vào tay cô bồi một tờ giấy năm quan để cô giữ lại chút kỷ niệm của một nhà ‘‘ngoại giao’’ đã lọt vào đôi mắt xanh của cô.
Ra ngoài tôi bảo ông M:
— Ra họ mặc kệ mình?
— Họ chẳng mặc kộ mình thì họ làm gì, Không những thế, họ lại không biết nước mình là nước gì nữa. Không cứ một cô con gái nhà quê này. Bao nhiêu người khác cũng vậy.
MỘT MẺ SỢ
Đi được vài cây số qua một cái cổng, chúng tôi gặp một người đàn ông đầu hoa râm. Người đó nhìn chúng tôi một lát rồi cất tiếng nói:
— Mao u lêên!
RỜI MẠC-XÂY
Tôi từ biệt ông M. để đi tỉnh khác. Ra ga tôi nhất định đòi lấy vé hạng tư, ông M. can thế nào cũng không được. Người phát vé để hai tay lên vành tai, hỏi lại một cách rất lễ phép:
— Ngài nói cái gì tôi không nghe rõ.
— Tôi nói: Ông cho tôi một cái vé hạng tư về tỉnh X...
— Thưa ngài không có hạng tư, chỉ có hạng ba thôi.
Tôi đành phải ngồi hạng ba, nghĩa là hạng ‘‘bét nhứt’’, ngồi ghế đệm cũng êm như hạng nhì bên nước mình. Tôi bèn bảo ông M:
— Thuê buồng không có giường gỗ, lấy vé không có hạng ghế gỗ, chúng mình muốn khổ sở, muốn đau lưng, đau mông mà nhà nước không cho. Nghĩ đến dân nước mình mà thèm.
Ông M. an ủi tôi:
— Nhập gia tùy tục, nhập giang tùy khúc. Ông chẳng nên so sánh đâm ra đau lòng vô ích.
Ông. M. bắt tay tôi một cái thật mạnh, rồi nói:
— Thôi chào ông.
Rồi ông giảng nghĩa:
— Tôi phải chào ông trước như thế, vì khi xe chạy, tôi chào ông, ông không nghe thấy tiếng tôi được, vì xe bên này chạy mau quá, tiếng nói của tôi không đuổi theo kịp tai ông.
Quả nhiên lúc tầu chạy, tôi chỉ thấy ông M. há mồm mà không nghe thấy tiếng gì cả. Ở Mạc-xây lâu có khác: nói khoác mà thành được sự thực. (Nhưng sự thực, ông M. chỉ há mồm mà không chào nói gì cả.)
Tôi lại tiếc cái xe lửa bên nước nhà, lúc nào cũng thong thả ung dung từ tốn như một cụ túc nho.
Trong toa tôi ngồi chỉ có một bà đầm. Bà nhai cái gì bỏm bẻm trong mồm. Tôi vội vàng rụt chân, chỉ sợ bà ta nhổ quết trầu bắn lên bần cả quần mình.
Trông ra hai bên thấy những bãi cỏ đầy các thứ hoa đỏ, trắng, vàng, tôi lại nhớ đến lúc còn đi học lớp nhất, làm bài luận cũng bắt chước tả cánh đồng cỏ bên nước nhà lòe loẹt những hoa.
Mãi về sau nhìn phong cảnh chán rồi tôi mới khơi chuyện cùng bà đầm. Thấy tôi nói là người Annanr, bà mừng rỡ cuống quít:
— Tôi có thằng cháu cả ở bên nước ông. Ồ, quý hóa quá!
Tôi vội đáp:
— Đáng quý hóa thật. Ở bên nước chúng tôi, con bà là một quý quan.
Bà ta chắp tay để lên ngực, mắt nhìn lên trời:
— Mà ông lại ở cùng tỉnh với con tôi. Ở HA... NO... I? Thế thì lại quý hóa xiết bao. Nó mới sang bên ấy có hai tháng, mà tôi lo lắng quá. Ấy tôi vẫn ngày, đêm cầu trời, phù hộ cho nó đấy. Ờ, gặp ông đây, để tôi viết thư báo nó lại chơi nhà ông, để hai thân ông bảo ban, che chở giúp.
Bà cảm động ứa nước mắt khóc.
Tôi cũng cảm động quá, kiếm lời an ủi bà mẹ khốn nạn đó.
— Bà không lo. Người nước chúng tôi rất hết lòng với người ngoại quốc. Con bà đi đến đâu cũng có người giúp đỡ, che chở. Bà không lo ngại.
Tôi biết là tôi lại nói khoác rồi, nhưng đối với bà mẹ này thì nói khoác là một sự cần. Bà lau nước mắt, mỉm cười cảm ơn tôi:
— Được nghe ông nói thế, tôi mới vững tâm.. Con tui đi đến đâu cũng có người che chở?
Chú thích:
[1] Người ở Mạc-xây nổi tiếng nói khoác trong thế giới, cũng như người xứ Ê cốt ở Anh nổi tiếng là hà tiện.