← Quay lại trang sách

Ở PARIS

TRÊN XE LỬA

Mấy hôm sau, tôi lại nhận được một bức thư bảo lãnh ở bên nước nhà gửi sang. Tôi đã lo, chỉ sợ cô tình nhân tôi lại nhớ tôi lần nữa! Nhưng may cho tôi, bức thư không có chữ nào nhoè cả? và có một tấm ngân phiếu nghìn rưỡi quan.

Tôi vội vã chạy lại nhà anh Thái để khoe. Anh Thái cũng nhận được một bức thư của vợ anh gởi cho trước khi chết. Bức thư này hôm đó đã làm anh Thái tôi khóc sưng cả mắt: những chữ trong thư đều nhoè cả, vì nước mắt nhỏ xuống., Nhưng cũng may cho anh Thái trong thư có một tấm ngân phiếu một nghìn quan. Anh ngắm nghía tấm ngân phiếu rồi nửa cười nửa khóc bảo tôi:

— Tôi không muốn lĩnh tiền, muốn giữ lại làm kỷ niệm.

Tôi lo lắng khuyên:

— Anh giữ lại bức thư cũng đủ,

Ngày hôm sau chúng tôi lên Paris, bỏ anh Quang lại một mình với nỗi buồn lẻ loi của anh. Lúc tiễn ra ga, anh Quang nói mát chúng tôi:

— Nghỉ hè, có là nhà quê mới lên ở Paris, vì ở trên đó nóng như ở Saigon. Nhưng các anh thì nên đi lắm, để xem xét ‘‘thành phố ánh sáng’’ (ville de lumière) cho sáng mắt ra.

Anh Quang ý muốn giễu chúng tôi là nhà quê.

Lúc xe huýt còi chạy, anh Quang đương cầm mùi soa vẫy, bỗng cúi đầu xuống, lấy mùi soa giụi mắt. Anh Thái cười xòa nói:

— Chắc anh Quang bị bụi than vào mắt.

Thế là xe lửa đã báo thù cho chúng tôi.

.*

Hễ cứ lên xe lửa ở bên này, tôi lại nhớ đến xe lửa bên nước nhà. Tôi nhớ có đọc một câu thơ ở một cuốn sách: ‘‘Xe lửa ở bên Đông dương lúc nào hứng chí mới chạy, mà chỉ chạy chậm như rùa... ông Tiễu’’, (Hai chữ sau cùng tôi thêm vào). Hạng nhất xe lửa bên Đông Dương bằng hạng bét xe lửa bên này và ở bên Nhật, còn hạng bét xe lửa bên Đông Dương thì chưa hiểu bằng hạng gì.

Ngồi thấy êm hai bên mông, tôi nẩy ra nhiều ý nghĩ triết lý về sự tiến bộ. Ở bên này nếu có một người chủ ô tô hàng để ghế không có đệm, hành khách họ sẽ cự ầm lên, không chịu ngồi. Hôm sau chủ xe phải đặt đệm,

Ở bên mình lần đầu tiên ngồi ghế không đệm thấy đau hai bên mông toan cự nhưng tự nhủ: đau một tí cũng chả chết ai, thế nào xong thôi. Lân đầu không thấy đau, đến lần thứ ba không những không thấy đau mà lại thấy êm nữa. Hai cái mông của mình thế là đã tiến bộ về mặt chịu đau. Còn mình thì không tiến bộ gì cả.

XE ĐIỆN NGẦM

Lúc ở trên xe lửa, chúng tôi có hỏi một người hành khách về những cái đáng xem của thành Paris, Người đó nói:

— Có ba thứ: Tháp Eiffel, nụ cười của ông Doumergue (ông tổng thống) và bộ giò của cô đào Mistinguett.

Tám giờ chiều chúng tôi đến Paris. Vừa ra khỏi ga, chúng tôi chui ngay xuống đất, độn thổ, để nếm mùi xe điện chạy dưới hầm trước khi xem bộ giò của cô Mistinguett.

Xuống hết ba mươi bực thang, tôi thấy xe điện vừa tới. Tôi mừng quá chạy vội vào ga, nhưng một cánh cửa sắt như bị gió thổi, từ từ đóng lại trước mắt tôi. Tôi giơ hai tay hết sức bình sinh đẩy, nhưng vô công hiệu.

Ngửng đầu lên thì thấy cái biển đề:

— Các ngài đừng cố đẩy cánh cửa này, vô ích, vì cánh cửa đó đóng bằng điện.

Chúng tôi dành nhẫn nhục đứng lại nhìn cái biển nó rủa mát mình. Cái cánh cửa nó cũng như bảo chúng tôi rằng: Xe đến các ngài vội chạy vào sân ga nhẩy lên có ngày gẫy cẳng. Vì muốn giữ cho các ngài đủ cả hai cẳng nên tôi phải làm phiền lòng các ngài một tý.

Cánh cửa sắt từ từ mở ra như mời:

— Bây giờ xe đã chạy rồi, xin mời các ngài vào.

Đi chơi bằng xe điện hầm, có cái cảm tưởng như đi chơi dưới địa ngục hay dưới âm ty có đèn điện.

Đi xuống đây vừa rẻ tiền lại vừa không phải đánh đồng thiếp.

Cứ việc bỏ bảy xu rồi chui xuống. Chui xuống rồi ở lì dưới đó. Nếu thò đầu lên la hỏng, lên rồi mất toi bảy xu ngay.

Vì thế nên ai cũng vậy, có đến nơi rồi mới thò đầu lên cho khỏi phí. Những ông có tính hà tiện, lúc đến nơi khi thò đầu lên, trông rõ có vẻ tiếc tiền. Tôi cũng vậy, những hôm nào trong túi chỉ có độ gần một quan, tôi lấy ngay một cái vẻ, rồi xuống ở lì dưới ấy mấy giờ đồng hồ để ngắm phong cảnh cho quên cái đói. Phong cảnh đây là phong cảnh ở trong xe, chứ ở ngoài thì tối om. Thứ nhất là những giờ thợ thuyền đi làm về, nhất là các cô thợ. Mình tha hồ chọn; tuy bụng đói nhưng thấy cô nào đẹp là đi theo đường cô đó. Nhưng đến lúc cô đó lên trên là mình băn khoăn lạ. Không lên thì mất một cái đẹp, mà lên thì tiếc một cái vé... Tôi đành lùi xuống vậy, rồi lại đi cò bơ cò bất tìm cảnh đẹp khác để khuây đói.

Có lắm ga lên rất ngộ: thí dụ như ga Muette (tạm dịch là câm), ga nhà tù Bastille, ga Lyon (tạm dịch là ga sư tử). Trước khi đâm đầu xuống hầm phải xem bản địa đồ để ở ga: trông bản địa đồ bối rối như mạng nhện sau trận mưa rào. Lấy ngón tay lần theo các đường xe y như bói quẻ vậy. Vui nhất là những lúc mình xem địa đồ có một cô đẹp đứng ngay bên cạnh cũng lấy ngón tay lần theo các đường xe như mình. Hỏi chuyện cô ta một vài câu bâng quơ, mà không thấy cô ta đáp lại, và thấy có vẻ khinh khỉnh thì mình nghĩ ngay cách báo thù. Cũng không khó gì; lấy ngón tay chỉ vào ‘‘ga câm’’, rồi nói to lên, có ta sẽ hiểu ý ngay. Có cô vì câu nói sâu xa ấy, mà phải mỉm cười rồi bắt chuyện, để tỏ ra mình không câm. Có cô tìm cách trả lời ý nhị: cô ta chỉ ngón tay vào nhà tù Bastille rồi cũng nói to lên. Ý cô ta muốn bảo nhẹ mình rằng chạm vào tôi thì tù ngay.

Tôi cũng vừa hiểu ý và liệu mau mau lấy vé. chui xuống hầm: độn thổ.

Có một lần gặp hai vợ chồng nhà kia đứng bên cạnh nhau xem địa đồ. Hai vợ chồng vừa xem vừa cãi nhau. Vợ mắng chồng tối cả mặt mũi. Tôi tức mình muốn rủa mát bà vợ, bèn chỉ vào ga sư tử nói thật to. Phiền một nỗi bà vợ là người Tây nên không hiểu câu nói mát của tôi. Bà vẫn mắng chồng dữ dội hơn sư tử Hà Đông.

CAO LÂU TÀU VÀ HẰNG CƠM BÌNH DÂN

Sau khi đã xuống địa ngục, chúng tôi lên Thiên đàng. Thiện đàng đây là các hiệu cơm

Tàu ở Paris. Không gì thú hơn là ở giữa đất Tây được hưởng cao lâu Tầu, không gì sướng hơn được gõ đũa vào bát, trước mặt có một đãi thịt quay da đỏ hồng, mỡ trắng bonng, nằm rất thứ tự bên mấy củ kiệu trong, mới trông cũng đủ chẩy nước dãi. Chung quanh đĩa thịt quay, các món xào (thịt bò xào nấm hương, gà xào hạnh nhân, xào măng, giá) mấy đĩa cá xào chua ngọt và bát canh đua nhau bốc hơi thơm. Khách ăn tưởng lạc loài vào chốn bồng lai, mây bay sương tỏa.

Chỉ phiền rằng xuống địa ngục mất có bảy xu, nhưng lên thiên đường mất những mấy chục quan. Vì lẽ ấy, nên chúng tôi ít được lên thiên đường, tuy rằng ngày đêm vẫn cầu nguyện và lúc nào cũng tâm tâm niệm niệm đến những món ăn thần tiên đó.

Ở Paris tất cả có sáu hiệu: sang có, xoàng có. Nhưng có một điều đáng chú ý là hiệu nào cũng sạch sẽ ; ở dưới đất không có xương xẩu hay giấy bẩn, ở trên ghế không có những ông ngồi vén quần lên tận bẹn, vừa gãi vừa nạo cổ khạc nhổ xuống đất. Người Tàu sang đây đã ‘‘lây sạch’’ của người Tây. Lắm người bảo chính vì thế, nên ăn có một đôi phần kém ngon, đồ ăn giảm đôi chút hương vị cố hữu.

Có một điều lạ là những lúc thật giàu và những lúc túi gần cạn là chúng tôi được đi ăn cơm Tàu; những lúc giàu vào ăn rất nhiều món sang; những lúc nghèo vào gọi những món rất mặn và một bát canh, rồi và lùa cho đầy bụng, vì lệ ở đây tha hồ gọi cơm, không phải trả thêm. Ăn xong lúc đi ra ngoài, nhìn đến bộ áo đẹp và nghĩ đến cái dạ dầy đầy căng những cơm, chúng tôi thấy rõ chúng tôi lúc đó là những phường ‘‘giá áo túi cơm’’. Có người nói trước kia một hiệu đã đặt ra cái lệ: đem cân khách hàng lúc vào, lúc ra, rồi tùy theo số cân chênh lệch mà tính tiền. Cái lệ ấy đã bỏ hẳn. Vì có lắm người vào ăn rồi ở lỳ trong đó cho cơm tiêu hết mới ra.

Tôi không quên nói rằng trong những thiên đàng ấy có cả tiên nữ. Tiên nữ là những cô đầm, bạn của các học sinh da vàng và các bà chuộng lạ. Lắm cô ăn bằng thìa vì không quen

cầm đũa; các cô bỏ đồ ăn lại, rưới nước mắm và xì dầu vào cơm, trộn đều lên rồi ngồi nhai lấy làm ngon lành lắm. Lắm cô cầm đũa rất thạo, cũng gấp cũng chấm, cũng gõ đũa vào bát, cũng cắn sợi giá làm đôi, y như một tiểu thư Aunam. Tiếng nói chuyện, tiếng đũa bát chạm vào nhau làm cho ta tưởng như đương ăn một bữa cỗ giỗ mà trong đó có cả các ông tây, bà đầm.

QUÁN CƠM BÌNH DÂN

Vào bất cứ hàng cơm nào ở bên Pháp hay ở bên ta, thì cũng có bồi chạy ra hỏi han, hầu hạ và đòi mình cho tiền. Tiền ấy ở bên Pháp gọi là ‘‘ tiền để uống rượu’’(pourboire) ; cho tiền uống rượu là một cái lệ không thể bỏ được. Nếu ai đãng trí quên thì người bồi tìm cách nhắc nhở một cách rất khéo léo. Đạikhái họ nói:

— Tôi chắc ngài là một vị thông thái.

Mình nở mũi hỏi:

— Sao bác biết?

Người bồi cười một cách rất có duyên:

— Các vị thông thái hay đãng trí.

Tất nhiên mình sẽ móc túi đãi bác ta tiền ngay để tỏ ra rằng mình đã hiểu ý nghĩa sâu xa của câu bác nói: mình quả là một vị thông thái, nhưng không đãng trí.

Nếu mình nhất định bỏ cái lệ đó đi, thì người bồi tìm cách nhìn mình như nhìn một nhà cải cách nguy hiểm và đáng ghét, lần sau không thèm gặp nữa.

Vì cái lệ đó, nên bồi làm hàng cà phê không những không ăn lương của chủ, lại phải chia tiền cho chủ nữa.

Vì có cái lệ đó, cố nhiên là không dễ chịu cho khách hàng — nhất là cho chúng tôi những khi hết tiền. Vốn lệ phải cho mười phần trăm món tiền mình tiêu. Ăn bữa cơm mất năm hào thì phải trả năm hào rưỡi, mất năm hào ba, thì phải trả sáu hào cho ‘‘gọn số’’

Bằng bảy xu ấy, chiều có thể mua bánh tây ăn đỡ đói được, nhưng vì cái lệ phải mất bảy xu, nên chiều đành uống nước lã để ông bồi có ‘‘tiền uống rượu’’.

Nhưng ở hàng cơm bình dân thì không thế. Mình phải hầu lấy mình. Hàng cơm đó ở vào ‘‘khu học sinh’’ của thành phố, và chỉ để riêng cho học sinh dùng. Tuy vậy cũng có lắm người chuộng lạ vào ăn: như các nhà triệu phú Mỹ và chúng tôi.

Thoạt mới vào... phải đứng nối đuôi. Trước mặt mình có một cái lưng và sau lưng mình có một người khác cũng đứng ngắm lưng mình. Cái lưng trước càng tiến lên bao nhiêu thì mình lại

Trước khi đến bếp, mình phải lấy một cái mâm, một con dao, một cái nĩa và một cái thìa. Khi qua chỗ để đồ ăn, mình đưa mắt ngắm qua một lượt, chọn xem thứ đồ ăn nào vừa miệng và vừa tiền mình thì lấy tay chỉ. Một cò gái rất xinh sẽ đặt vào mâm mình đĩa đồ ăn đó và mỉm cười như có ý bảo:

— Anh có con mắt tinh đời.

Chưa hiểu con mắt tinh đời đó để ngắm đồ ăn hay ngắm cô hàng xinh. Sau khi lấy các thức, liền bưng mâm đi qua các cửa ải. Ở đó có một bà ngồi đợi, bà ta bảo mình đứng lại rồi nhìn lướt qua mâm để tính tiền: thí dụ, anh lấy một đĩa thịt bò, một quan mười lăm xu, một đĩa bắp cải mười lăm xu, một bát xúp mười lăm xu, một cái bánh mười xu, thì bà ấy nói luôn ba quan mười lăm xu (một quan bằng hai mươi xu). Học trò trường đại học toán pháp đã chịu thua bà ta về tính cộng. Bà ta đưa cho mình tờ giấy có in đủ các giá tiền từ một đến mười quan, rồi cầm máy bấm bấm vào chỗ để ba quan mười lăm xu. Ấy thế là số mình đã định, đố chạy đâu thoát, không còn cách gì tẩy xóa được nữa. Chúng tôi gọi bà là bà bấm số tử vi. Bà ta đã bấm ba quan mười lăm xu thì y như chốc nữa phải trả đúng ba quan, mười lăm xu mới thoát nợ đời.

Qua được cửa ải đó, liền bưng mâm vào bàn rồi tha hồ ăn, ăn cho kỳ hết. Nhiều khi có món không thích, mà thấy mâm của người bên cạnh có món chưa đụng tới, liền ‘‘lưỡng tương hoán cải’’. Lúc ở chỗ lấy đồ ăn, và lúc bưng mâm vào, thì tôi là một người bồi (khi còn ở nhà, tôi tập làm bồi, bây giờ mới biết là có ích lợi). Lúc đặt mâm xuống bàn, tôi nói một cách rất lễ phép:

— Xin mời ông xơi cơm.

Nói xong, tôi ngồi ngay xuống ghế, mồm lẩm bẩm:

— Thôi bây giờ cho anh lui xuống nhà dưới.

Làm như vậy đế cho thoả cái tính đài các rởm của mình khi còn ở bên nước nhà.

Ăn xong tôi gọi:

— Nhỏ, bưng mâm đây.

Tức thì tôi đứng dậy và, bưng mâm trả nhà hàng.

Muốn ra, minh cầm tờ giấy có lỗ bấm đến két trả tiền. Người giữ két sẽ phát cho mình một mẩu giấy để xuất hành.

QUẪN BÁCH

Hai chúng tôi ở một cái buồng, mội buồng rất sang của một khách sạn ở khu La tinh.

Trước kia, chúng tôi tưởng khu La tinh là một khu riêng, chung quanh có tường bao bọc, và nhà cửa ở đây làm theo kiểu nhà La mã đời xưa, khác hẳn các phố ở Paris. Sau chúng tôi mới biết rằng có khi đi qua khu đó cũng không biết rằng khu đó là khu La tinh.

Đời chúng tôi ở Paris thật là êm đềm và nhàn nhã, có bận họa chăng chỉ bận đi xem các nơi. Buổi sáng, sau khi đã đi thăm các hàng cà phê một cách quá ư cẩn thận, chúng tôi lượn ra bờ sông Seine mua sách và qua cầu xem các bảo tàng. Buổi trưa ăn cơm Tầu rồi, chúng tôi vào vườn Luc xâm bảo (mà chúng tôi gọi là vườn Tim sấm páo cho có vẽ Tàu) để ngắm ‘‘ lá cây rơi từng chiếc một trên vai trắng các bức tượng’’ như nhà văn sĩ Anatole France đã viết. Phiền một nổi lúc đó về mùa hạ, lá cây không rơi. Thất vọng, chúng tôi bèn tự an ủi bằng cách nhìn vai trắng xóa phấn của các bức tượng hoạt động. Tối đến, chúng tôi đi xem các bộ giò có tiếng ở các nhà hát và ở các rạp chiếu bóng.

Chúng tôi đương sống những ngày rất đầy đủ, một buổi sáng… đang ngồi ở vườn ‘‘Lục xâm bảo’’, vừa ngáp vừa nhìn lũ trẻ nô đùa, thì anh Trạch, bạn học cùng tỉnh, ở đâu lù lù dẫn đến. Lúc đó chúng tôi chỉ biết mừng một người bạn, chứ không ngờ đâu đến những việc xẩy ra về sau.

Anh Trạch cho chúng tôi hay rằng anh lên đây vì cần mấy cuốn sách hiếm để khảo cứu. Chúng tôi gật đầu cho anh là phải, và mời anh đi ăn bữa cơm Tàu. Anh cũng gật đầu cho chúng tôi nghĩ thế là phải và nhận lời đi ngay. Chiều, anh lại gật đầu nhận ăn một bữa cơm nữa, và tối hôm ấy, anh lại gật đầu nhận ngủ nhờ giường của chúng tôi. Sáng hôm sau, anh Trạch từ biệt chúng tôi và lúc đi lại không quên mượn chúng tôi hai trăm quan.

Tôi gắt anh Thái:

— Chúng mình lấy gì mà tiêu bây giờ?

Anh Thái cười đáp:

— Mai thế nào tôi cũng nhận được tiền ở nhà gửi sang,

Mai không thấy gì, mà kia cũng không thấy gì nốt. Anh Thái đâm lo, tôi cũng vậy. Ba ngày hôm sau, hai chúng tôi lại ra vườn Lục xâm bảo. Nhưng đã quá giờ ăn mà chúng tôi vẫn không nhúc nhích. Anh Thái ngáp một cái đến chảy nước mắt, mỉm cười bảo tôi:

— Anh đếm lại xem.

Tôi đếm đi đếm lại vẫn chỉ có mười lăm xu. Anh Thái bỗng vỗ vai tôi một cái thật mạnh, làm tôi đói thêm mấy giờ đồng hồ.

— Tôi có một người quen ở Mont-Rouge.

— Ồ thú nhỉ! Nhưng Mont Rouge cách đây sáu cây số. Anh đi sao nổi.

— Tôi đi xe điện ngầm.

Ngẫm nghĩ một lát anh Thái buồn rầu nói:

— Tôi phải đi bộ. Chứ nếu đi ngay xe hết mười lăm xu này, lỡ không vay được tiền, thì tôi không còn sức nào về đây chết đói cùng anh được.

Hai giờ đồng hồ sau, tôi thấy anh Thái chui ở dưới đất lên.

— Người bạn tôi hiện cũng như chúng mình. Nhưng giàu hơn một tí, nên cho tôi vay được hai mươi xu. Mất mười lăm xu mà vay được hai mươi xu, chúng mình côn lai nỗm xu, vậy còn hai mươi xu tất cả. Ta mua bánh tây ăn vậy.

Đến trước một cửa hàng bánh, chúng tôi lấy mắt chọn mãi, có cái bánh tây to một cân trông rất ngon, nhưng tôi không nhớ là một cân bánh giá hai mươi xu hay hai mươi mốt xu. Hỏi giá cái bánh to mà không mua thì ngượng lắm, chúng tôi bàn nhau vào mua bánh nhỏ vậy. Sau khi đã biết đích xác giá một cái bánh nhỏ là sáu xu, sau khi đã nhân ba lần sáu xu một cách cẩn thận, chúng tôi mới dám hỏi mua ba cái.

Chúng tôi vội vã về buồng, về cái buồng rất sang của chúng tôi để hưởng ba cái bánh quý hóa đó. Tôi vừa đi vừa băn khoăn nghĩ ngợi không biết chia cái bánh thứ ba thế nào cho thật đều.

Chúng tôi không ngờ đâu bữa ‘‘cơm tây ‘’đó là bữa cơm cuối cùng ở Paris.

Chúng tôi chưa từng bao giờ ăn bữa cơm ngon như vậy. Mỗi người ra máy rót một cốc đầy nước lã và cố ý đặt cốc thật thấp để cho nhiều bọt nổi lên; chúng tôi tạm nhận hai cốc đó là hai cốc sâm banh và chạm cốc mừng lẫn nhau một cách vui vẻ.

Thấy ngà ngà say, chúng tôi rủ nhau đi chơi cho hả rượu. Dạ dầy tuy đầy căng, nhưng ăn bánh tây không, nên tưởng tượng như thiếu xương sống. Chúng tôi thấy cái tháp Eiffel lúc đó có vẻ mềm oặt, ẻo lả chứ không cứng cáp như mọi hôm.

Đi chơi về, chúng tôi để cả quần áo lên giường nằm. Anh Thái trước khi nhắm mắt, nhắc đi nhắc lại câu.

— Mai thế nào tôi cũng nhận được tiền.

Tôi bảo anh Thái:

— Ta cứ ngủ kỹ. Mai chín giờ người đưa thư sẽ đánh thức chúng ta dậy. Nếu ngủ đến mười một giờ là hết hy vọng đấy.

Quả nhiên chín giờ sáng có người vào đánh thức chúng tôi dậy.

Anh Thái mừng quýnh:

— Bác đưa đây tôi ký.

Tôi giụi mắt tự hỏi:

— Nhưng sao lại những hai người phắc tơ?

Nhìn mãi thì hóa ra hai người sen đầm. Tôi bảo anh Thái:

— Sen đầm đưa thư kia đấy. Long trọng chưa?

Hai người sen đầm không để ý đến câu khôi hài có ý vị ấy. Họ đưa cho chúng tôi xem một tờ giấy và nói:

— Theo lệnh của ông thượng thư nội vụ, hai ông bị trục xuất ra khỏi nước Pháp, xin mời hai ông xếp đồ đạc vào va ly theo chúng tôi về bót.

Anh Thái hỏi tôi:

— Cái gì ngộ dữ vậy?

Tôi cũng tiếp:

— Khá vui đấy.

Chúng tôi biết rằng phân trần với hai người sen đầm này là một sự tối vô ích, vì họ chỉ làm việc theo lệnh trên. Chúng tôi vừa xếp quần áo vào va ly vừa bàn tán về cách đối phó. Tôi cười:

— Miễn là lên bót họ cho mình chén.

— Cái đó đã hẳn.

— Thế thì còn lưỡng lự gì mà không lên bót?

Anh Thái bỗng nghĩ được một ý hay:

— Hay là nhân dịp này ta về thăm nhà, không mất tiền.

Tôi đáp:

— Nhưng về thì không sang được nữa. Nghề chụp ảnh của tôi đành phải bỏ sao?

— Nhưng chúng mình oan, sao lại không sang được nữa?

Lúc lên bót, chúng tôi đóng vai hai người phản động và nguy hiểm. Ngoài chúng tôi, cũng có đến gần chục người bị bắt. Họ cho chúng tôi là phái viên của tỉnh T... lên đây để hành động. Ông Cẩm hỏi:

— Ông Trạch có lại tìm các ông... các ông hẹn nhau ở vườn Lục xâm bảo để ăn cơm Tàu và lúc ông Trạch đi, hai ông lại không quên cho ông Trạch vay tiền. Có phải thể không?...Kìa, hai ông trả lời đi...

Tôi toan nói:

— Chính vì cho ông Trạch vay tiền, nên chúng tôi đói phải mò đến đây.

Thì anh Thái đã dõng dạc trả lời:

— Ông không cần phải hỏi lôi thôi. Ông đã biết rồi thì còn hỏi làm gì cho mất thì giờ.

Tôi trông anh Thái lúc đó có vẻ cứng cỏi lạ, tuy người anh lúc đó đói mèm. Sau tôi mới biết rằng cứng cỏi hơn là phải, vì phân trần cũng không bổ ích gì.

Sáng hôm sau chúng tôi đã ở Marseille.

Khi tầu đi ngang qua hòn đảo Côn Lôn, chúng tôi chỉ mong cho tầu tránh ra xa xa.

CHƯA CHẾT... NHƯNG MÀ...

Hôm nọ anh Thái đến tìm tôi, nhờ chụp một bức ảnh để gửi sang Pháp cho anh em bạn bên đó. Chúng tôi nhìn nhau cảm động.

— Thế mà thấm thoát đã...

Anh Thái vừa nói vừa lấy mùi soa lau nước mắt, tuy hai mắt anh lúc đó vẫn khô ráo như thường. Anh nói:

— Từ độ về nước nhà, mắt tôi chưa hề cho đẫm lệ bao giờ.

Tôi cười đáp:

— Có lẽ vì anh không có dịp thái hành nữa.

Tôi mời anh ở lại ăn cơm, do tự tay chúng tôi nấu lấy. Ăn xong rủ nhau đi chơi, tưởng tượng như khi còn ở đất Pháp. Vừa ra đến đầu phố, gặp ngay hai người đàn bà ngồi ở vệ đuờng đương bới tóc bắt chấy cho nhau. Tôi nói:

— Quê hương xứ sở!

Anh Thái thản nhiên đáp:

— Trông lâu cũng quen mắt, bây giờ tôi thấy cảnh ấy có một vẻ đẹp riêng.

Ngừng một lúc, anh bùi ngùi nói tiếp:

— Vả lại mọi người bạn học khác cũng vậy. Chúng mình đã biến thành những người khác rồi. Khác xa hồi bồng bột độ ấy. Chúng mình bị sa lầy... chìm... chìm dần.

Anh thở dài:

— Cuộc đời như vậy, biết sao?

Tôi nói chữa:

— Hoàn cảnh!

Đi qua một cửa hiệu sách, anh Thái như sực nhớ điều gì:

— Anh, tôi vừa xem báo được tin anh Tích chết.

— Ai?

— Tích thi sĩ ấy mà. Chết vì ho lao.

Tôi thấy nhói một cái ở tim:

— Thế à?

Và tôi lại thấy hiện ra rất rõ ràng nhà thi sĩ của tôi, nhà thi sĩ nhút nhát mà bừa bãi, thích ăn thích uống, thích cả làm thơ trong và hát thơ tục. Và nhất là cái nháy nháy mắt của anh khi đói được nuốt miếng thịt ngon, khiến tôi thương anh quá.

— Chết thật à?

Anh Thái không đáp và hai chúng tôi cùng đi chầm chậm trong một sự buồn thương.

Một lát anh Thái thở dài rồi nói rất nhẹ:

— Còn chúng mình... chưa chết... nhưng mà...

KHÁI HƯNG