TRÊN ĐẤT PHÁP (tt)
TỚI HỘI HỌC SINH
Hơn bốn giờ chiều tôi đến tỉnh X... thuê xe ngựa bảo kéo đến hội Học sinh Annam. Trong một tỉnh lớn gấp hai Hà-nội, tìm được hội Annam cũng khó như ở Hà-nội hay ở Sài- gòn mà đi tìm hội ái hữu của những người tây Ma-ní.
Hội ở vào một cái phố nhỏ. Đi qua một con đường thông tối om, lên hai cái thang gác thì thấy trước mặt một cánh cửa có dán biển đề: Annam học sinh ái hữu hội.
Tôi gõ cửa. Ở trong có tiếng cười nói và mùi xào nấu đưa ra.
— Cứ vào.
Tôi đẩy cửa, buông va li xuống, thì một người kêu to:
— Lính mới các anh em ơi.
Tôi thấy vui vẻ trong lòng và không có cái cảm tưởng cô độc, trơ trọi nữa. Tôi dõng dạc hỏi:
— Ai là nguyên-soái?
— Nguyên-soái đi học vắng.
Tôi ngồi vào ghế khai lý lịch:
— Tên tôi: Nguyễn văn Lãng-Du. Tuổi: 22. Chưa có vợ, nhưng có tình nhân. Sang học nghề ảnh để về nước chụp cho tây.
Tôi vừa khai vừa lắng tai nghe tiếng người nói ở buồng trong:
— Cơm hỏng rồi chúng mày ơi. Trên sống dưới khê, tư bề nát bét.
Một tiếng thé thé gắt gỏng:
— Nước hàng để đâu để tao kho thịt, mày?
— Cho hai thìa thôi kẻo mặn.
— Món canh củ cái gừng ngon đáo để, mày ạ.
Tôi ngồi ở ngoài thèm chảy nước dãi. Anh Quang, người vừa hỏi lai lịch tôi, giữ chức cố vấn cho hội, hỏi tôi:
— Anh Lãng Du có biết làm bếp không?
— Không.
— Thế thì đáng tiếc. Vậy trước khi học ảnh hãy học làm bếp đi đã. Cần hơn.
Thấy tôi cứ nuốt nước dãi ừng ực, anh Quang thương hại.
— Thôi, hôm nay hãy mời anh ăn với chúng tôi một bữa cơm dưa muối... Mai thì phận sự của anh là phải thái thịt và rửa nồi, xoong, bát, đĩa.
Tôi toan cãi.
— Anh cãi vô ich. Đó là công việc của bất cứ tên lính mới nào. Vả lại, anh cũng nên tập cho ‘‘sáng mắt ra’’.
Tôi cúi đầu vâng lệnh, và xin phép vào thăm bếp. Bếp đun bằng hơi than nên sạch sẽ. Anh nào anh nấy quấn trước ngực một cái khăn trắng: người thì vần cơm trên lò, người thì mở vung gắp thịt ra bấm xem đã nhừ chưa, người thì đập trứng vào chảo, khéo léo như một cô tiểu thư Huế.
Ở góc bếp, một anh ngồi nước mắt giàn giụa. Tôi cảm động quá, hỏi anh Quang:
— Chắc thấy tôi sang, anh kia chạnh nhớ nhà, nên ngôi khóc thảm thiết tệ.
Anh Quang nghiễm nhiên bảo tôi:
— Không, anh ấy thái hành tây đấy.
Anh cười rồi nói tiếp:
— Đấy là anh Thái ở trường hóa học. Sang năm thi kỹ sư. Ở phòng thí nghiệm, anh ấy ngửi đủ các thứ hơi độc, nhưng hễ sờ đến hành là nước mắt nước mũi cứ chẩy ra. Vì thế, nên bao giờ chúng tôi cũng giao cho anh ấy cái việc thái hành để anh ấy khóc cho vui.
Anh Quang chỉ một anh to béo đang ngồi thái thịt bò, bảo tôi:
— Xin giới thiệu anh Huy học trường thuốc. Mổ nhiều tử thi, nhưng cắt thịt bò vẫn ghê tay. Anh ấy vẫn bảo: sờ vào thịt bò rờn rợn tay như sờ vào thịt người. Được cái lúc anh ấy ngồi vào bàn thì ăn thịt ngon lành lắm. Một người không nên làm thân, nên tránh xa, vì anh ấy ăn mau lắm.
Anh Quang giới thiệu người xong rồi giới thiệu đồ ăn:
— Đây là món cá xào nấm hương, đây là dưa chua làm bằng bắp cải thái nhỏ rồi vắt chanh, đây là lạp xưởng rán, còn đây là thịt kho Tầu, món thịt kho Tàu nầy chỉ riêng ở bên Tây mới có.
Tôi hỏi làm cách nào lạp xưởng gửi sang đây không mốc và kho thịt không cần có nước mắm. Anh Quang đáp:
— Anh ở đây lâu rồi sẽ sáng mắt ra (chữ này tôi thấy anh ấy dùng đã hai lần). Lạp xưởng gửi sang đây cho vào mỡ nước thì không đời nào mốc. Cách ấy là của anh Minh, cử nhân cách trí nghĩ ra.
Tôi gật đầu thán phục.
Anh Quang tiếp:
— Cái lệ ở đây bao giờ cũng thế. Về mùa đông rét mướt, những hôm chủ nhật, anh em họp nhau lại nấu cơm Annam ăn. Vậy anh muốn có bạn thì việc cần nhất là viết thơ về nhà bảo gửi đồ sang: gạo tám thơm, lạp xưởng, ruốc, cả cuống, ca la thầu, nước mắm, vân vân...
Tôi buồn rầu đáp:
— Nhưng tôi không có nhà. Còn tình nhân tôi thì chắc ở bên Đông dương nó tự khuây khỏa bằng những việc lý thú hơn là việc gửi nước mắm sang cho tôi.
— Thế thì đáng buồn cho anh, vì một là anh không đời nào có bạn, hai là có bạn, nhưng suốt đời phải rửa xoong, bát, đĩa.
Tôi vẫn băn khoăn về ‘‘vấn đề kho thịt’’. Anh Quang hiểu ý nói tiếp:
— Ở bên nầy, nếu không có nước mắm thì chúng tôi dùng một thử gọi là ‘‘ kuýp’’ thay vào. Y như nước mắm vậy. Người đã phát minh ra được việc đó thật là ân nhân của bọn mình.
— Thế ai đã phát minh?
— Tôi không biết tên, nhưng tục truyền lại rằng một người bồi Annam đã nghĩ ra. Chúng tôi còn đương dò lai lịch người đó để đúc tượng kỷ niệm, vì “ăn kuýp phải nhớ kẻ trồng cây” cổ nhân đã dạy thế.
Lúc vào ngồi ăn, họ nhường tôi ngồi giữa bàn, nghĩa là chỗ tốt nhứt chỉ để dành cho quý khách. Phiền một nỗi, đồ ăn họ lại để ở hai đầu bàn.
— Xin các cụ cầm đũa, và đừng ai nói chuyện.
Tôi tưởng tượng như mình ngồi ăn ở đình làng, vì họ ău mau lắm. Ăn một lúc, người nào người nấy ngừng đũa kêu bức.
— Ở bên thuộc địa này nóng lắm. Phải về quý quốc nghỉ mát mới được. Anh Lãng Du có thấy thế không?
Tôi, tôi vẫn thấy lành lạnh. Tôi cho họ làm bộ, làm tịch, nhưng lạ nhất là một lúc sau tôi thấy mồ hôi nhễ nhại, ướt đầm cả áo sơ mi.
Lúc ăn, tôi để ý đến một anh gầy gò, ngồi ở đầu bàn. Trông anh ta ăn ngon lành thì mắt anh ta lại luôn luôn chớp.
Anh Quang thấy tôi chăm chú nhìn anh đó nên giới thiệu:
— Quên không giới thiệu anh Tích, thi sỹ đã nổi danh và thương mại gia và không bao giờ nhận được đồ ăn ở nhà gửi sang. Vì thế nên không bao giờ có bạn thân.
Rồi anh ghé vào tai tôi nói khẽ:
— Anh ấy không đủ tiền ăn cơm Tây, nên ngày nào ở trường học ra cũng phả mua gạo và nấu cơm ăn cho đõ tốn. Sáng hôm nay khi mua gạo về, bao giấy chẳng may rách toạc ra, gạo đổ cả xuống đường, Anh ấy không dám nhặt vì sự xấu hổ, chạy một mạch đến đây nhận rửa bát.
Ngừng một lát, anh Quang tiếp:
— Nhưng chốc nữa tôi sẽ rửa bát thay anh Tích.
Tôi hiểu ngay. Chắc anh Quang nghĩ rằng: nếu bắt một anh em giầu có quen ăn bữa phải rửa bát để nghịch chơi là một sự hay thì bắt một người vì ít tiền đến nhờ ăn phải rửa bát là một sự bất nhã.
Anh Tích thấy anh Quang khen là thi sỹ thì đôi má đỏ bừng. Anh thẹn cúi mặt xuống, nhưng không quên gắp ngay một miếng thịt to bỏ vào mồm. Tôi nghiệm thấy anh nhai ngon lành hơn trước và mắt chớp nhanh gấp hai lúc nãy.
Tôi lại nhận ra rằng cứ mỗi khi nuốt xong một miếng đồ ăn thì anh Tích lại chép miệng một cái thật mạnh như để chứng nhận rằng miếng đồ ăn đó đã đích thực vào đến dạ dày rồi.
Ăn xong anh Tích toan rửa bát thì quả nhiên anh Quang nhận làm giúp. Anh Tích đội mũ rồi bắt tay tôi vội vã như có việc đã hẹn với ai.
Thu dọn xong, mọi người hỏi nhau;
— Ăn xong đi đâu?
Anh Quang đáp:
— Ra hàng cà phê để anh mản mọi xem xét cảnh văn minh cho ‘‘sáng mắt ra’’.
Anh mản mọi tức là tôi.
TRONG HÀNG CÀ PHÊ
Họ đưa tôi ra hàng cà phê lớn nhất tỉnh, chỗ mà họ gọi là đại bản doanh của Nguyên soái (tức là ông Hy, chánh hội trưởng). Gặp ông Hy tôi lại phải kể lai lịch một lần nữa. Khai xong, ông Hy vỗ tay gọi bồi:
— Tám cốc rượu! Hôm nay có quý quan ở bên quý quốc mới sang.
Tôi đưa mắt nhìn anh Quang mội cách kiêu hãnh:
— Anh còn bảo tôi là mán mọi nữa thôi.
Anh Quang ghé vào tai tôi nói rất khẽ một câu làm tôi lạnh cả chân tay:
— Lệ ở đây, bao giờ người mới tới cũng phải đãi rượu anh em. Tám cốc rượu không là bao chỉ có 24 quan. Vì thế nên anh được gọi là quý quan.
Tôi nhìn tám cốc rượu vè đếm số anh em ngồi đó chỉ có bảy người, kể cả tôi nữa. Tôi liếc nhìn nói bâng quơ:
— Hình như thiếu một người... hay nói cho đúng, hình như thừa một cốc rượu.
Anh Hy nói tiếp ngay:
— Không thừa đâu. Cái lệ làm chánh hội trưởng bao giờ cũng uống hai cốc mới phải.
Tôi định sau này cố ra làm chánh hội trưởng.
DẠY KHÔN
Anh em bạn ngồi chung quanh tôi lúc đó làm việc rất nhiều thứ: họ vừa đánh bài vừa hút thuốc lá, vừa nói chuyện lại vừa thưởng thức rượu của tôi. Tai họ vẫn nghe đàn và mỗi khi xong một bài đàn, họ lại không quên vỗ tay một cách rất hăng hái. Trong lúc đó thì anh Quang bảo tôi ngồi với anh riêng ra một chỗ. Anh nói là để dạy khôn tôi.
— Anh phải biết, sở dĩ anh vào hàng cà phê anh bơ ngơ, bỡ ngỡ là vì...
Tôi cãi:
— Nhưng tôi có bỡ ngỡ gì đâu.
Anh Quang ngắt:
— Anh cãi vô ích. Cứ thí dụ là anh bỡ ngỡ. Anh bỡ ngỡ là vì anh không hiểu lệ luật ở hàng cà phê. Điều cần nhất là biết cách gọi ăn, gọi uống. Không phải là chuyện dễ như ý anh tưởng đâu.
Tôi cãi lại:
— Nhưng tôi có ý tưởng gì đâu?
— Thì cứ thí dụ là thế. Anh tưởng là dễ nhưng thật ra rất khó. Không có gì buồn cười bằng mới sáng bảnh mắt, anh đã gọi bồi lấy rượu tiêu cơm.
Tôi gật đầu:
— Như thế thì buồn cười thật.
Anh Quang thấy tôi biểu đồng tình, sung sướng lắm:
— Đấy anh xem có phải thế không. Nói tóm lại, gọi ăn cũng là một việc khó khăn.
Tôi định báo cho anh Quang biết rằng anh chưa kể hết cái khó khăn mà anh đã nói tóm lại ngay, nhưng tôi lại thôi vì cứ để anh ấy nói tóm lại còn hơn là để anh ấy nói dài dòng. Tôi đã lấy là khó chịu. Nhất là nhìn các cốc rượu của anh em đã thấy cạn quá nửa. Tôi chỉ sợ họ uống hết rồi lại làm một ‘‘ tua’’ nữa. Nhưng anh Quang vẫn nói:
— Đấy mới là kể cho anh em nghe một điều khó. Còn một điều khó nửa. Thí dụ anh muốn gọi uống rượu bia.
— Thì gọi rượu bia.
Anh Quang giơ hai tay lên trời:
— Thế không được. Nghĩa là cũng được. Anh được uống bia, nhưng người ta bảo anh là nhà quê, mán mọi. Anh phải nói: cho tôi một cái cốc, một góc, một nửa, một ‘‘nửa hung’’ hay một ‘‘nửa nâu’’ vân vàn... Anh muốn ăn kem như ở bên nhà nếu anh gọi kem thì họ đem ra cho anh cốc cà phê sữa, muốn ăn kem, anh phải gọi ‘‘nước đá’’.
— Lạ nhỉ.
Thấy tôi phục anh Quang lai sung sướng một lần nữa.
— Đấy anh xem, cái gì cũng khó mà thật dễ. Đằng nào anh cũng phải học cho biết. Tôi bảo anh để anh sáng mắt ra.
Thấy nói đến sáng mắt ra,tôi lại nhớ đến việc ngủ đêm nay.
— Này anh Quang, tôi cũng muốn học cho sáng
mắt ra thật, như bây giờ có một việc này cần hơn, là đêm nay tôi chưa có chỗ để nhắm mắt ngủ.
— Anh không lo, anh về ngủ với tôi. Mai tôi không có giờ học, tôi sẽ đưa anh đi tìm buồng trọ, và nhân tiện chỉ bảo anh cách thức ăn ở bên này ra sao.
Tôi đoán thế nào anh cũng tiếp theo câu: ‘‘để cho anh sáng mắt ra’’, nhưng lần đầu tiên tôi không thấy anh dung đến mấy chữ đó. Có lẽ tại lúc ấy anh vừa buồn ngủ, vừa say rượu, hai con mắt anh lờ đờ, không có vẻ gì là sáng sủa. Mà tôi cũng vậy.
— Tôi đi đã thấy mỏi chân mà anh Quang bảo còn lâu mới tới nhà.
Anh vừa bước thật mau vừa hát ra chiều khoan khoái lắm. Tôi nói:
— Hay ta thuê cái xe ô tô.
Anh Quang nói giọng khinh bỉ:
— Ở bên này anh phải tập đi bộ cho quen đi, không thể hư thân như ở nhà được, khi còn ở cái nước mà ông bếp đi chợ cũng nhẩy lên xe ngồi. Ở bên này không có thứ ngựa người rẻ tiền ấy đâu. Chỉ có ngựa thực và mã lực. Hai thứ cùng đắt cả.
Bỗng tôi thấy trước mắt có hai người Annam đi tới, vừa đi vừa hát thật to những câu thô tục có thể làm xấu hổ cả bọn ‘‘gái số đỏ’’ (không tiện chép ra đây.) Gặp nhau anh Quang giới thiệu:
— Anh Trạch cử nhân triết lý.
Tôi mở to mắt nhìn. Nguời thứ hai mà có lẽ là người hát những câu thô tục lại là anh Tích thi sĩ, hay thẹn thò của tôi. Có lẽ bây giờ anh no rồi nên mắt anh có vẻ sáng hơn. Tôi hỏi khảy:
— Ý chừng vừa rồi có thi sĩ ngâm thơ?
Anh liền đáp:
— Đang ngâm thơ mà thơ hay. Có trong sách cẩn thận, không tin, anh cứ lại hội ta, dở cuốn Ca dao tục-ngữ của ông Nguyễn-văn-Ngọc sẽ thấy. Có nhiều câu như thế lắm. Anh cố học thuộc lòng đi.
— Để làm gì?
— Để hát như chúng tôi. Vì anh tính, ở bên nước nhà chỉ được ngâm những câu thanh cao, cả đời không được nói một câu tục. Sang bên này nghêu ngao hát thật to ở giữa phố cho bõ, cho ‘‘hả cái dạ dầy’’. Nên cảm ơn ông Ngọc đã ghi chép cho ta những câu lý thú ấy.
Chúng tôi chia tay. Đi đã xa vẫn nghe rõ tiếng hát của anh Tích. Tôi lấy làm phục anh Tích sao anh khéo tích được lắm câu tục như thế (xin nhớ đây là câu tục chứ không phải câu tục ngữ).
Anh Quang bảo tôi:
— Thi sĩ Tích chiều hôm nay chắc có gì buồn lắm. Mà khi anh ta buồn thì bất trị! bất trị! Anh nghĩ xem, tháng trước anh có tin buồn bên nhà sang, lại hết cả tiền ăn. Chúng tôi góp nhau mỗi người mười quan để cho anh ấy lấy tiền ăn. Ngay tối hôm ấy, vào hai giờ đêm, chúng tôi gặp anh ta nằm gục ở ghế vườn hoa, tay cầm điếu xì gà đã tắt và hơi thở sặc những mùi rượu sâm hanh.
— Anh ấy làm nghề gì mà anh lại giới thiệu với tôi là kiêm thương mại gia.
— Anh ấy làm quảng cáo cho một nhà bán thuốc tiêu và chữa bệnh đầy bụng. Muốn cho người khác khỏi đầy bụng và ăn dễ tiêu, nhưng bụng anh ấy thì không mấy khi đầy và có khi không có hột cơm nào để tiêu nữa.
Văng vẳng đằng xa vẫn cô tiếng hát của anh Tích:
— Chẳng yêu tôi nữa thời thôi
Mưa sơn…..
Câu thơ thật tục mà sao tôi vẫn thấy như nhiễm một vẻ buồn não nùng.
Chúng tôi đi đến trước cửa hàng cà phê. Anh Quang đến gần một cái bàn đầy báo đặt ở ngoài hè chọn lấy một tờ báo, bỏ ra một quan rồi lấy bảy xu rưởi, tự nhiên như không:
— Không có ai bán?
— Không cần
Tôi bấm tay anh Quang:
— Giá bỏ vào đấy một quan rồi lấy ra hai quan cũng được đấy nhỉ?
— Được lắm chứ, hôm nào túng tiền, anh cứ việc lại tôi lấy một tờ báo xem, rồi lấy thêm vài quan tiêu. Chỉ sợ làm thế thì tiêu cả danh giá của anh đi thôi.
Anh Quang thuê cho tôi một cái buồng ở cùng nhà vơi anh. Xếp dọn xong, anh bảo tôi:
— Bắt đầu từ nay, anh sẽ phải như chúng tôi, sống một đời tạm bợ trong vài năm. Tuy anh có phòng ở cẩn thận, nhưng hình như anh là một thằng vô gia cư, cầu bơ cầu bất.
Tôi tiếp theo:
— Một thằng ma cà bông.
— Gần như thế. Ở bên này, anh đừng mong có cái thú gia đình. Buồng ngủ của anh chỉ để ngủ và học. Còn anh, anh phải luôn luôn sống ngoài xã hội: ở hàng cơm, ở hàng cà phê, ở tiệm nhảy đầm. Anh phải tập sổng thế cho quen. Bây giờ thì tôi để anh tự do đi chơi phố. Còn tôi, trong một tuần lễ tôi phải đóng khố học thi.
Tôi đáp:
— Tôi muốn đi chơi phố lắm, nhưng sang đây chưa lấy thẻ lỡ đội xếp bắt thì khốn.
— Anh không lo. Ở bên này không có thẻ thuế thân. Thế anh có buôn bán gì không?
— Không.
— Anh có tiền của gì không?
— Tôi có một cái ví gần rỗng.
— Thế thì anh không phải đóng một đồng xu thuế. Anh cứ yên tâm. Nhưng ngày mai khi anh ra hội quán anh cúng vào cho hội độ 100 hay 50 quan. Lệ hội như vậy. Đó là một thứ thuế riêng, chúng tôi gọi là thuế ‘‘nhập cang’’.
ĐỖ NGAY
Đến kỳ thi, Hội quán thành ra một cái đại bản doanh để thu nhặt tin tức ở các nơi, Anh Hy chánh hội trưởng luôn luôn ở đó, để săn sóc các tướng tá ở trận tiền về. Ở trên tường tôi thấy treo một cái biển thật to:
Anh đỗ kỹ sư, cử nhân, tiến sĩ cúng vào hội: .. 50 quan.
Đỗ một bằng đại học hay lên lớp............ 50 quan,
Tú tài …. .............................. 20 quan.
Đỗ vào học bất cứ ở trường nào …......... 15 quan.
Hễ anh Hy được tin ai đỗ là liệt ngay tên vào bảng vàng một cách rất nhanh nhẹn.
Tôi hỏi anh Hy:
— Còn anh?
Anh Hy hớn hở tiếp:
— Năm nay tôi rớt.
Bỗng anh Hy như sực nhớ ra điều gì, soi mói nhìn tôi, hỏi:
— Còn anh?
Tôi biết là anh Hy thế nào cũng nhắc đến số thuế ‘‘nhập cảng’’ mà tôi chưa nộp, nên vội nói ngay:
— Tôi định nói với anh để cúng vào hội 50 quan. Nhưng thấy anh bận về việc thi nên chưa dám nói. Bây giờ anh biên tên vào cái bảng những người đỗ, tôi xin cúng 50 quan. Cách ấy tôi cho là giản tiện hơn cả. Tôi thật vui lòng bỏ tiền ra ngay.
Anh Hy nhận lấy 50 quan của tôi.
Trên bảng dưới mấy dòng chữ:
Những người đỗ kỹ sư, cử nhân, tiến sĩ:
Nguyễn văn H ….. 50 quan.
Trần đình Q …. 50 quan.
Đào văn Ph …. 50 quan.
Anh Hy viết thêm:
Nguyễn văn Lãng Du …. 50 quan.
Thế là tôi mới sang đã đỗ ngay tiến sĩ. Anh Hy bảo tôi:
— Bắt đầu từ nay anh có quyền tự xưng là ‘‘bản chức’’ nhưng trước khi có cái quyền ấy, anh phải đãi anh em bữa rượu...
Anh mỉm cười tiếp theo:
—... như hôm nọ.
CÔ TIÊN
Sáng hôm nay dậy sớm để đưa anh Quang đi thi. Lúc về nhà toan mở cửa buồng của tôi thì nghe có tiếng động ở trong. Tôi ngừng lại. Một tiếng hát trong trẻo đưa ra, tiếng hát của một nàng tiên... biết chữ Pháp, hát giọng đầm. Tôi xin dịch đại khái dưới đây:
Tôi vừa mơ một giấc mơ thần tiên.
Tôi mơ cùng với ai đi, đi xa lánh mọi người.
Và không có đôi tình nhân nào đã được hưởng những buổi chiều êm ái như chúng tôi.
Tôi gõ cửa. Ở trong có tiếng một cô con gái hỏi ra:
— Ai đấy?
— Tôi.
— Tôi là ai?
— Tôi là tôi. Tôi hỏi ông chủ có nhà không?
Một tiếng cười giòn:
— Không có ông chủ ở nhà. Chỉ có cô chủ thôi.
— Thế tôi vào có được không?
— Không được.
— Không ai vào được? Thế ông chủ có vào được không?
— Ông chủ thì vào được.
Tôi vặn quả đấm cửa:
— Chính tôi là ông chủ. Vào xem ai dám cả gan nhận là cô chủ nào.
Một cô đầm, tóc vàng, mắt xanh, má đỏ, tay cầm cái chổi cán dài, vừa nói vừa chào tôi. Tôi biết ngay đó là cô Lina; cô bồi đến làm buồng cho chúng tôi, mà anh Quang đã nói chuyện với tôi tối hôm trước.
— Chào cô Lina.
Lina mở to mắt:
— Sao ông biết tôi là Lina, Ông Nguyễn-Văn?
Tôi cũng mở to mắt:
— Sao cô biết tên tôi?
— Tôi có biết đâu. Tôi đoán tên ông, người Annam chín phần mười là Nguyễn văn... Văn Ty, Văn Ta, Văn Tô...
Rồi Lina vừa làm giường vừa nói cho tôi câu chuyện về Annam.
— Độ ẩy tôi làm cho một nhà nghỉ mát ở trên núi miền Savoie. Một hôm nhận được bức thư của hai người bảo giữ cho hai buồng. Mấy hôm sau, có hai người da vàng đến toan nhận nhưng tôi nhất định không cho, vì hai người gửi thư là hai người nước Hòa Lan, một người tên là Văn Hot, một người tên là Van Lan. Lẽ đâu người Hòa Lan lại người da vàng được. Tôi mời họ đi nơi khác, sau họ phải đưa giấy căn cước cho xem tôi mới tin. Nhưng tôi vẫn lấy làm lạ rằng người Hòa Lan vẫn có người da vàng mũi tẹt được. Tôi chắc có sự gì bí mật và suốt đêm hôm ấy không dám ngủ.
Tôi vừa nghe chuyện vừa ngắm cô Lina, vừa ngẫm nghĩ về cái ‘‘mực văn minh’’ của hạng người làm bồi, làm con nhài, con sen. Hỏi lẩn thẩn tôi biết được rằng cô Lina này đã đỗ được bằng cơ học tốt nghiệp, nhưng cũng như mọi người khác đọc sách, đọc báo và để ý đến mọi việc xẩy ra trong nước. Tuy cô ta làm một việc ở bên nước Nam cho là hèn hạ, nhưng tôi vẫn phải coi cô ta như một người ngang hàng, và lúc nói chuyện phải giữ lễ phép, như đối với một tiểu thư.
Lina quét dọn xong, cầm chổi và khăn, rồi chào tôi ra đi. Một lát sau ở buồng bên cạnh lại có tiếng hát đưa ra:
Tôi vừa mơ một giấc mơ thần tiên.
Tôi mơ cùng ai …
Tôi cũng mơ được là ‘‘ai’’đó.
THỰC ẨM VI TIÊN
Từ lúc đến tỉnh này chưa nghĩ đến việc học được. Cả ngày không ra ngồi ở các ghế dài trong sân trường Đại học xem họ đi thi, thì cũng la cà hết hàng cà-phê này đến hàng cà phê khác, nếm đủ các thứ rượu của anh em thi đỗ mời. Sang Tây học gặp được buổi đầu như thế này nghe cũng dễ chịu
Tôi đi với anh Quang đến nhà anh Minh, cử nhân cách trí, để mừng anh có người em mới đỗ. Tôi chỉ biết anh Minh là người nghĩ ra được cách gửi lạp xưởng không mốc, chứ chưa biết mặt anh ta. Nhà anh Minh ở ngoài tỉnh, đi hết một con đường dài hai bên trồng toàn ngô đồng thì tới nơi.
Lúc chúng tôi vào thì anh em đương ngồi
yên lặng như ngóng đợi một sự gì rất quan trọng. Sự quan trọng đó là việc mở nắp một chiếc hộp sắt tây, trong đó đựng toàn lạp xưởng ở bên nhà gửi sang. Đó là món chính của bữa tiệc hôm nay, và chính người nhà anh Minh khi gửi sang đã theo cách thức của anh anh Minh rất cẩn thận. Người nào người nấy vừa nhìn anh Minh mở hộp vừa nuốt nước dãi ừng ực.
Đến lúc mở được hộp, lấy nĩa kéo được vài đôi lạp xưởng ra mới biết có đại biến. Anh Minh mặt buồn xỉu, lẳc đầu một cách thất vọng. Tôi nhìn mấy đôi lạp xưởng để trên đĩa rồi buột mồm kêu:
— Lạp xương có râu!
Mọi người cười rộ, nhưng tiếng cười của chúng tôi lúc đó nghe buồn như tiếng khóc. Anh Hy nói:
— Hay ta cạo râu nó đi.
— Ừ thì cạo râu.
Nhưng càng cạo đi đến đâu, cái lạp xưởng càng mòn đi đến đấy. Sau cùng anh Quang bàn rửa cho sạch sẽ rồi để lên đĩa và đặt ở giữa bàn ăn. Cái món chính là một món chỉ dùng ‘‘để nhìn’’. Chúng tôi bảo nhau: ai ăn một miếng thì có quyền nhìn một lần. Thiếu món lạp xưởng chúng tôi ăn vẫn ngon như thường, nhưng từ hôm đó trở đi, chúng tôi không tin cái tài khoa học của anh cử nhân cách trí Minh nữa.
NGHỈ HÈ
Tôi thấy hội quán mỗi ngày một vắng dần. Đến chơi các nhà anh em thì họ đã đĩ nghĩ mát ở tỉnh khác cả: người ra bể, người lên núi. Nếu gặp được một học sinh Annam, toan nói câu chuyện thì người ấy đã hỏi ngay:
— Anh chưa đi à? Mai tôi đi Annecy.
Gặp anh thứ hai, anh thứ hai lại hỏi:
— Anh chưa đi à? Mai tôi đi Luçon.
Tôi cho họ là điên cả. Trời còn mát thế này can gì phải đi nghỉ mát ở đâu. Sau hễ gặp một người bạn nào quen, muốn cho họ khỏi hỏi như vậy, nên tôi vội vã nói ngay:
— Anh chưa đi à? Mai tôi đi Vichy.
Tôi có ý, mỗi lần gặp một người thì lại chọn một tỉnh khác và chọn toàn những tỉnt sang cả. Tôi thấy anh em ra ý bảo:
— Anh là một người sung sướng.
Nhưng dần dần tôi cũng thấy ở lại là khó chịu và tự nhiên muốn đi như họ. Cái bệnh đi nghỉ mát là một bệnh rất hay lây.
Tôi quả quyết lên Paris. Tôi chỉ có một mối lo là không có tiền. Nhân thấy anh em bạn cứ đánh dây thép về nhà báo tin đỗ là y như mấy ngày hôm sau nhận được tiền gửi sang, tôi cũng muốn bắt chước. Phiền một nỗi tôi không đỗ gì cả. Sau tôi nghĩ được một kế rất diệu. Tôi liền đánh bức dây thép như sau nảy:
‘‘ Có một người bạn đỗ cử nhân, gửỉ thêm năm nghìn quan ngay lập tức ‘’
Tôi chắc người ở nhà nhận được bức dây thép này không khỏi lấy làm lạ và chắc phải hỏi nhau:
— Không biết có người bạn đỗ cử nhân thì có liên lạc gì đến việc gửi thêm tiền. Tôi đoán rằng ở nhà thấy bức dây thép ngộ nghĩnh nên …cứ gửi tiền sang xem nó ‘‘ra làm sao’’.
Nhưng nhà tôi không cần biết ‘‘ra làm sao’’. Thành thử tôi đã không nhận được thêm tiền, lại tốn thêm vài chục quan đánh dây thép.
Tôi đành phải ở lại và ngày ngày vào vườn Bách thảo ngắm cây cối cho qua thời giờ.
Vào Bách thảo, tôi học được một sự lạ: những cây mà bên ta gọi là cây tây thì ở bên này họ quý như vàng,- trồng vào trong nhà lồng kính, giữ gìn như giữ mả tổ. Nếu ở bên ta, có người dùng cái đời mình để giữ gìn và nghiên cứu mả tổ, thì ở bên ấy cũng có người dùng cái đời họ để giữ gìn và nghiên cứu các thứ cây đó, thí dụ như cây nhọ nồi, cây bèo ong.
Thỉnh thoảng gặp cái biển trên đề: arbre indigène (cây bản xứ), tôi lại giật mình ngỡ cây ở bên Annam đem sang. Nhưng nghĩ kỹ tôi mới biết đó là những cây mọc ở ngay đây. Nhưng dầu sao thấy đề cây bản xứ, tôi có ý khinh những cây đó và trông hình thù chúng nó có vẻ tiều tụy, khốn nạn, không đáng để mắt tới.
Trong vườn có con đường, biển đề ‘‘allée des amoureux’’ (đường tình) ; hai bên đường có để ghế dài và cứ trên mỗi cái ghế lại có một cặp nhân tình; hình như họ đương thi nhau hôn. Lúc đó tôi thấy tôi thật là ‘‘ lẻ loi chiếc bóng nơi đất tây quê người’’. Tôi ngậm ngùi bỏ đi chỗ khác và an ủi mình bằng một câu Kiều:
‘‘Tu là cõi phúc, tình là dây oan.’’
Thấy họ hôn nhau, không biết tại sao tôi nghĩ ngay đến việc học của tôi. Tôi chưa biết sang đây định học gì và mãi tới bây giờ tôi mới nghĩ tới điều đó. Tôi liền ngồi xuống một cái ghế và bóp trán tự hỏi:
— Ta định học gì bây giờ?
Tôi nghĩ ngay đến việc học nhẩy đầm, môn học mà tôi cho là khó khăn nhất. Còn khi nào có thì giờ nhàn rỗi, thì học máy móc để giải trí. Tìm được con đường mình đi một cách nhanh chóng như vậy, tôi lấy làm sung sướng lắm.
Tôi đứng dậy, vừa đi vừa nhảy theo một nhịp đàn tưởng tượng. Đến trước một tòa nhà lộng lẫy trên đề: Institut de botanique (Thảo mộc học đường). Tôi lại nảy ra cái ý học về thảo mộc. Thấy ở ngay cửa vào có dán giấy yết thị ; tôi tò mò lại gần nhìn xem,
« Đến hôm 20 tháng 7,
Ông Paul X... sẽ trình luận thi tiến sĩ về tự nhiên học, lấy đầu đề là: Khảo góp thêm vào cuộc nghiên cứu một cái vỏ đậu đen’’.
Thấy cái đầu đề vậy, tôi lại càng muốn học về thảo mộc, và tưởng tượng vài năm nữa, khi đỗ cử nhân xong rồi, tôi sẽ lại nghiên cứu như ông Paul X..., và ngay ở đây lại sẽ có dán tờ yết thị:
‘‘ Đến hôm 15 tháng 6,
Ông Nguyễn văn Lãng-Du sẽ trình luận thi tiến sĩ về tự nhiên học, lấy đầu đề là: Khảo góp thêm, vào cuộc nghiên cứu về một cái vỏ đậu trắng’’.
Tôi nghĩ răng:
— ‘‘Ông Paul X.... có thể khảo góp thêm về cái vỏ đậu đen thì được cái vỏ đậu trắng cũng có nhiều cái rắc rối để thôi khoa3o góp thêm và đậu được ‘‘tiến sĩ’’
Thế rồi, khi về nước, tôi sẽ khảo góp thêm về vỏ đậu đũa, vô đậu nành, vỏ đậu Hòa-Lan, vỏ đậu ván, vỏ đậu khấu, vỏ đậu bạch- biên. Vô số vỏ cho tôi khảo. Hết đậu lại có các thứ đậu: như đậu rán, đậu hấp, đậu bung, đậu kho tương, v.v... Khảo về những thứ đậu này thì không bao giờ lo đói.
Trên thành một cái bệ trồng sen, tôi thấy ngồi xoay lưng về phía tôi, một người học sinh Annam đương mải cúi đọc một quyển sách. Tôi đoán là người quen, bèn lên tiếng để người ấy quay lại. Tôi nhận ra anh Thái, người mà hễ cứ thái hành là nước mắt chảy ra giàn giụa. Tôi nhìn kỹ thì mắt anh lúc đó có ngấn lệ. Tôi ngạc nhiên hỏi:
— Anh đương thái hành?
Anh Thái đáp:
— Không, làm gì có hành mà thái. Tôi đương học.
Tôi cũng cười:
— Học mà cũng chảy nước mắt được.
Anh cười gượng, gấp sách lại nói:
— Ừ nhỉ.
Bỗng tôi thoáng thấy ở quyển sách của anh thòi ra một mẫu dây thép xanh. Tôi chợt hiểu, vội đặt tay lên vai anh Thái, ân cần hỏi:
— Anh có tin gì buồn?
Hỏi gặng mãi, anh mới đưa cho tôi tờ dây thép báo tin vợ anh ở bên nước nhà mới chết được vài hôm nay. Tôi hết cả tươi cười, cúi đầu. Ngay bên cạnh tôi, một bông hoa sen bé nhỏ tiều tụy, cánh rã rời, như đương cùng chúng tôi buồn rầu về thân phận lạc loài ở nơi đất lạ. Tôi nhìn anh Thái, rồi nhìn đóa hoa sen (ở bên Pháp chỉ ở vườn Bách thảo mới có sen) và đoán rằng anh ra đây để ngắm hoa sen và tưởng tượng đến những cảnh cũ ở bên nước nhà. Anh Thái hiểu ý vội nói chữa:
— Tôi ra đây để học cho quên đi, nhưng không thể được.
Một làn gió nhẹ đưa qua, thoang thoảng hương thơm của bông hoa sen tàn tạ.
Muốn an ủi anh Thái, tôi rủ anh đi Paris chơi.
Anh Thái đáp:
— Tôi không có tiền.
Tôi đáp:
— Tôi cũng vậy.
Không đi Paris được, tôi đành tạm mời anh Thái ra hàng cà phê để an ủi anh. Trước khi vào hàng, tôi đếm lại tiền trong túi, thì còn vừa đúng bốn quan. Tôi bảo anh Thái:
— Anh muốn uống gì thì uống, miễn là đừng quá số bốn quan.
Anh Thái đáp:
— Anh không lo, tôi chỉ uổng đủ để nuốt cái sầu của tôi thôi.
Tôi chợt nhớ đến cô tình nhân của tôi và ao ước anh Thái không nuốt sầu nhiều như ô ả
Tới hàng cà phê hai người lại trở nên vui vẻ và ngồi tính chuyện đi Paris.
Đương nói chuyện, tôi thấy anh Tích thi sĩ bước vào hàng. Anh tiến đến phía chúng tôi nói:
— May quá! Tôi đương buồn.
Tôi đâm lo, đếm lại số tiền trong túi, thì vẫn chỉ có bốn quan.
Tôi hỏi anh Tích:
— Anh cũng cần nuốt sầu? Nhưng anh có tiền đấy chứ?
Anh Tích thản nhiên đáp:
— Đấm ai ra! Bồi! Lấy ba cốc Porto.
Tôi không còn hồn vía nào nữa. Tôi bấm tay anh Tích, nhưng anh nhất định không nghe. Tôi lấy làm lạ về thái độ cứng cỏi của anh. Một lúc sau, khi trước mặt ba người đã có ba cốc rượu đỏ tươi, anh Tích mời bảo tôi:
— Anh Lãng Du có thư bảo đảm, ra hội mà lấy.
Có thư bảo đảm, tức là có tiền ở nhà gửi sang. Tôi mừng quá:
— Nhưng đào đâu ra được hai quan để cho người đưa thư bây giờ. Tôi chỉ còn có bốn quan để trả tiền rượu thôi.
Anh Tích nói:
— Còn bốn quan thì cho họ cả bốn quan.
Rồi anh đưa cốc rượu lên môi, uống một ngụm nhỏ, mắt chớp chớp có vẻ ngẫm nghĩ rồi gật gật đầu.
Tôi đến hội đợi một lúc lâu, thì quả nhiên có người đưa thư, đưa cho tôi một bức thư bảo lãnh. Tôi ký sổ, rồi trong lúc sung sướng đãi bác ta cả bốn quan trong túi.
Tôi bóc thư ra, nhưng lạ quá, trong phong bì không có ‘‘măng đa’’. Xem nét chữ mới biết đó chỉ là một bức thư của có nhân tình tôi gửi sang hỏi thăm. Đại khái bức thư nói:
— Em cô lời hỏi thăm anh. Từ độ anh đi không ngày nào là em không khóc giọt vắn giọt dài, trong lúc em viết bức thư này, em cũng không cầm được nước mắt. Anh cứ nhìn kỹ hai chữ ‘‘có lời’’, hai chữ đó sở dĩ nhòe như vậy là vì nước mắt em nhỏ xuống đó.
Tuy bực mình hết sức, tôi cũng cố lấy trí của một nhà trinh thám để xét đoán những chữ nhoè đó. Tôi tự bảo:
— Những chữ đó nhòe, một là vì có tình nhân tôi lấy nước bọt xoa cho nhòe, hai là lấy rượu sâm banh. Nếu nước mắt thì không đời nào lại kể lôi thôi vậy. Tôi sẽ nhờ anh Kim, một nhà hóa học phân chất hộ.
Nghĩ đến anh Tích và anh Thái đương ngồi trước mấy cốc rượu đợi tôi mang tiền về trả nhà hàng, tôi cũng muốn khóc như cô tình nhân của tôi. Tôi toan đuổi theo người đưa thư để đòi lại bốn quan, nhưng họ đã đi xa mất rồi.
Tôi phải vội vã đi vay các nơi. Lúc đem tiền về hàng cà phê thì hai anh Tích và Thái đã uống đến cốc thứ ba! Anh Thái xem chừng say lắm và hai mắt ướt đằm. Uống xong một tớp rượu, anh lại lè nhè bảo anh Tích:
— Tôi không bằng lòng thái hành đâu.
Anh Tích thì giơ cả hai tay đở lấy người anh Thái đưa đi đưa lại như người ru em, miệng khe khẽ hát những câu thơ cũng tục như mọi lần. Anh ấy hát và có vẻ như là để giải khuây cho anh Thái nỗi buồn thương vợ.
Bà chủ hàng thấy tôi trở về bèn vội vàng hỏi (chắc bà đã hỏi nhưng hai bạn tôi không đáp).
— Sao một ông lại khóc và một ông lại ngâm thơ.
Tôi đáp:
— Ông nầy bao giờ cũng vậy, khi uống rượu là bao giờ cũng khóc như có vợ chết, còn ông kia thì hễ say là thích ngâm thơ thật buồn như để tả những nỗi sầu thương trong sạch và thần tiên (…les mélancolies pures et pines)
Tôi vừa nói vừa nghe anh Tích hát câu:
— Rạng ngày lên bãi hái chè,
Gặp thằng ….
Và tôi không giữ nổi mỉm cười. Tôi vội nói tiếp với bà chủ hàng:
— Vì thế bao giờ uống rượu tôi cũng rũ cả hai ông nầy cùng đi. Một ông khóc, mội ông diễn cái buồn của ông kia bằng những lời thơ ứng khẩu mà rất trang nhã du dương. Ông nầy là một thi sĩ đã nổi tiếng ở bên nước chúng tôi và cả ở bên nước Pháp này nữa.
Để hai anh tri kỷ với nhau, tôi gọi bồi lấy giấy viết mấy dòng cho tình nhân tôi. Viết xong, tôi nhúng ngón tay vào rượu xoa nhoè hẳn mấy chữ và để xuống dưới cùng.
— Lúc anh viết cho em bức thư này, nước mắt anh nhỏ xuống như mưa rào.
Về thi sĩ Tích tôi nói đùa như vậy mà sau thành sự thật. Khi về nước tôi được biết anh Tích nổi
tiếng ở bên Pháp ; anh có một ít bài thơ đăng ở các báo tây, lời lẽ thanh nhã, ý từ quả đúng câu tôi nói vời bà chủ hàng ‘‘trong sạch và thần tiên’’. Bẵng đi một dạo rồi tôi được tin anh ấy chết ở Paris, chết vì bệnh lao, vì phải chịu kham khổ nhiều quá. Con ve sầu suốt mùa hè ca hát (lúc trong lúc đục) nay gặp gió lạnh chỉ còn trơ cái xác trên cành khô. Rồi tôi vơ vẩn nghĩ: ‘‘Không biết lúc chết thì anh ấy xuống địa ngục hay lên thiên đường. Nhưng tôi tin là anh sẽ được lên thiên đường. Nhưng tôi chắc anh Tích không được ở lâu trên đó. Những lúc anh buồn và uống rượu rồi giữa đám tiên nữ anh ngâm những câu ca dao như:
—Xưa kia chị cũng như em,
Bởi chưng ….
tất họ sẽ tống anh xuống địa ngục ngay. Mà ngay ở địa ngục, cũng chưa chắc người ta đã cho anh ở.