← Quay lại trang sách

một trăm ba mươi sáu ngày trước

MỘT TUẦN TRƯỚC KHI tôi rời gia đình ở Florida và phần còn lại của cuộc đời nhàm chán của mình để đi học nội trú tại Alabama, mẹ tôi cứ khăng khăng phải tổ chức tiệc chia tay cho tôi. Để bảo tôi không có kì vọng gì nhiều thì rõ là tôi đã quá xem thường sự kiện trọng đại này. Dù ít nhiều tôi cũng bị bắt mời thêm mấy “bạn trên trường”, ví dụ, đám nhà nghèo khoái làm lố và lũ mọt sách người Anh tôi buộc phải ngồi cạnh để có hội có bầy trong căn-tin to bự ở trường công, tôi biết chúng sẽ không đến. Dầu vậy, mẹ tôi vẫn rất kiên quyết, bà đắm chìm trong mộng tưởng rằng tôi đã giấu bà sự nổi tiếng của mình bấy lâu. Bà nấu một núi nhỏ xốt a-ti-sô. Bà trang trí phòng khách bằng tua rua màu xanh lá và vàng, vốn là màu ngôi trường mới của tôi. Bà mua hai tá sâm-panh đựng kim tuyến và đặt chúng quanh mép bàn cà phê.

Và rồi khi thứ sáu cuối cùng ấy tới, lúc tôi đã dọn đồ gần xong, mẹ ngồi cùng cha và tôi trên sofa trong phòng khách lúc 4:56 chiều, kiên nhẫn chờ đợi sự xuất hiện của Phái Đoàn Giã Biệt Miles. Phái Đoàn ấy bao gồm đúng hai người: Marie Lawson, một cô tóc vàng nhỏ con đeo cặp kính hình chữ nhật, và gã bạn trai lùn mập (nói một cách tế nhị) của cổ, Will.

"Chào, Miles,” Marie nói trong lúc ngồi xuống.

“Chào,” tôi đáp lại.

“Mùa hè thế nào?” Will hỏi.

“Ổn. Còn anh?”

“Tốt. Tụi này đã mở buổi Chúa Giê-su Siêu Sao. Anh giúp phần lắp đặt. Marie phụ trách ánh sáng,” Will trả lời.

“Nghe hay phết.” Tôi gật gù ra chiều hiểu biết, và chủ đề nói chuyện của chúng tôi đến đấy là gần hết. Tôi có thể hỏi một câu về chúa Giê-su Siêu Sao, ngoại trừ 1. Tôi không biết nó là gì, và 2. Tôi không có hứng tìm hiểu, và 3. Tôi chưa bao giờ giỏi buôn chuyện. Mẹ tôi, tuy thế, lại có thể buôn hàng giờ liền, nên bà kéo dài sự lúng túng bằng cách hỏi họ về lịch tập ban nhạc, và buổi diễn thế nào, và nó thành công hay không.

“Cháu đoán là có,” Marie nói. “Nhiều người đến lắm, cháu đoán vậy.” Marie thuộc típ người rất hay đoán mò.

Cuối cùng, Will bảo, “Chà, chúng cháu chỉ ghé qua để chào tạm biệt thôi. Cháu phải đưa Marie về trước sáu giờ. Học nội trú vui nhé, Miles.”

“Cảm ơn,” tôi trả lời, cảm thấy nhẹ nhõm. Thứ duy nhất tệ hơn một buổi tiệc không ai thèm đến là một buổi tiệc gồm hai người cực kì không có hứng thú tới tham gia.

Họ rời đi, và tôi ngồi với cha mẹ rồi nhìn chằm chằm vào màn hình TV đen ngòm, tôi muốn bật nó lên nhưng tôi biết mình không nên làm thế. Tôi có thể nhận thấy cả cha và mẹ đều đang nhìn tôi, chờ tôi òa khóc hay gì đó, như thể trước giờ tôi không biết mọi chuyện sẽ thế này. Nhưng tôi đã biết. Tôi cảm giác được sự thương cảm của họ trong lúc hai người nhúng món snack khoai tây vào xốt a-ti-sô định dành cho những người bạn tưởng tượng của tôi, nhưng họ cần được thương cảm hơn tôi: Tôi không hề thất vọng. Kì vọng của tôi đã đúng.

“Đây có phải là lí do con muốn đi không, Miles?” mẹ hỏi.

Tôi suy nghĩ một lúc, cẩn thận không nhìn thẳng vào bà. “Ưm, không,” tôi đáp.

“Thế thì tại sao?” mẹ hỏi. Đây không phải lần đầu tiên bà hỏi câu này. Mẹ không thích để tôi học trường nội trú cho lắm và bà chẳng giấu giếm gì chuyện đó.

“Tại cha sao?” cha tôi hỏi. Ông đã từng học ở Culver Creek, vốn là trường nội trú mà tôi sắp học, cũng như hai em trai của ông cùng con cái của họ. Tôi nghĩ cha thích thấy tôi theo bước ông. Các chú đã kể tôi nghe về việc cha nổi tiếng thế nào trong trường vì ông vừa quậy tung trời vừa đạt điểm tối đa trong tất cả các môn. Nghe như một cuộc đời tốt hơn của tôi ở Florida. Nhưng không, không phải tại cha. Không hẳn.

“Chờ chút,” tôi nói. Tôi vào phòng làm việc của cha và tìm cuốn tiểu sử François Rabelais của ông. Tôi thích đọc tiểu sử về các tác giả, dù (như trường hợp của Monsieur Rabelais) tôi chưa bao giờ đọc tác phẩm nào của họ. Tôi lật tới cuối và tìm dòng trích dẫn được tô đậm (“ĐỪNG BAO GIỜ DÙNG BÚT DẠ TÔ VÀO SÁCH CỦA CHA,” cha đã bảo tôi chừng một nghìn lần. Nhưng bạn còn cách nào để nhìn ra thứ mình đang tìm chứ?)

“Cái ông này,” tôi nói, đứng ở cửa phòng khách. ‘François Rabelais. Ổng là một nhà thơ. Và lời trăng trối cuối cùng của ổng là ‘Ta đi để tìm Cơ Hội Lớn.’ Cho nên con sẽ đi. Như thế con sẽ không phải chờ tới lúc xuống mồ mới bắt đầu tìm kiếm Cơ Hội Lớn.”

Và điều ấy khiến họ im lặng. Tôi đang theo đuổi Cơ Hội Lớn, và họ cũng biết tôi sẽ không tìm thấy nó với những người như Will và Marie. Tôi ngồi xuống lại sofa, giữa cha và mẹ, và cha vòng tay ôm tôi, và chúng tôi ở yên như thế, lặng lẽ ngồi cùng nhau trên sofa một lúc lâu đến khi có thể bật TV lên, và chúng tôi dùng xốt a-ti-sô cho bữa tối và xem Kênh Lịch Sử, và với một buổi tiệc chia tay mà nói, mọi thứ biết đâu đã có thể tệ hơn.

một trăm hai mươi tám ngày trước

FLORIDA RẤT NÓNG, dĩ nhiên, và ẩm thấp nữa. Đủ nóng để quần áo dính chặt vào người bạn như băng dính hiệu Scotch, và mồ hôi như thác đổ chảy ròng ròng từ trán xuống mắt. Nhưng chỉ có ngoài trời là nóng, và tôi thường chỉ ra ngoài để đi từ phòng máy lạnh này đến phòng máy lạnh khác.

Điều này chẳng hề giúp ích cho tôi trước cái nóng lạ đời bạn có thể gặp ở mười lăm dặm về phía nam Birmingham, Alabama, tại Trường Dự Bị Culver Creek. Chiếc SUV của cha mẹ đậu ngay bãi cỏ cách phòng nội trú của tôi chỉ chừng mấy mét, Phòng 43. Nhưng mỗi lần đi tôi lui vài bước từ xe để tháo dỡ đống đồ mà giờ tôi cho là quá nhiều ấy, ánh mặt trời gay gắt lại chiếu xuyên qua quần áo và đốt cháy da tôi với sức nóng tàn bạo khiến tôi thật lòng đâm sợ hoả ngục.

Cha mẹ và tôi chỉ mất vài phút để chuyển đồ khỏi xe, nhưng phòng nội trú không-điều-hoà của tôi chỉ mát hơn được tí xíu, dù may mắn không hứng nắng. Căn phòng làm tôi khá ngạc nhiên: Tôi đã tưởng tượng đến thảm nhưng, tường ốp gỗ, nội thất kiểu Victoria. Nhưng ngoại trừ một đặc quyền xa xỉ là phòng tắm riêng, còn lại tôi chỉ có một cái phòng mắt muỗi. Với tường bê-tông xỉ than được quét lớp sơn trắng dày và sàn nhà bằng vải lót màu ca-rô xanh trắng, chỗ này nhìn giống bệnh viện hơn là căn phòng nội trú tôi hằng mơ. Một chiếc giường tầng bằng gỗ thô cùng đệm nhựa vinyl bị đẩy sát vào cửa sổ cuối phòng. Bàn học, tủ quần áo và giá sách đều được đóng chặt vào tường để ngăn chặn mọi thể loại bài trí sáng tạo. Và không có điều hòa.

Tôi ngồi trên giường tầng dưới trong lúc mẹ mở rương, lôi ra một chồng tiểu sử mà cha tôi đã đồng ý chia xa, rồi đặt chúng lên giá sách.

“Con tự làm được mà mẹ,” tôi nói. Cha đứng dậy. Ông đã sẵn sàng lên đường.

“Ít nhất phải để mẹ dọn giường cho con chứ,” mẹ bảo.

“Không, thật đó. Con làm được. Không sao đâu mẹ.” Bởi vì về cơ bản, bạn không thể kéo dài những chuyện như thế này mãi. Một lúc nào đó, bạn chỉ cần giật băng cá nhân ra và nó sẽ rất đau, nhưng rồi tất cả sẽ kết thúc và bạn thấy thật nhẹ lòng.

“Chúa ơi, chúng ta sẽ nhớ con lắm,” mẹ đột nhiên nói, bà bước qua đống va-li vung vãi để đến bên chiếc giường. Tôi đứng lén ôm lấy bà. Cha cũng đi tới, và chúng tôi đại khái rúc vào nhau. Trời quá nóng và chúng tôi đổ mồ hôi quá nhiều nên chẳng ôm ấp được lâu. Tôi biết mình nén khóc, nhưng tôi đã ở với cha mẹ mười sáu năm, và chuyện thử sống xa nhà này dường như diễn ra quá trễ.

“Mẹ đừng lo.” Tôi mỉm cười. “Con sẽ học cách nói chuyện y chang người miền Nam dzậy đó.” Mẹ bật cười.

“Đừng làm gì ngu ngốc đấy,” cha dặn dò.

“Vâng.”

“Không ma túy. Không rượu chè. Không hút thuốc.” Là một cựu học sinh của Culver Creek, ông đã làm những điều mà tôi chỉ mới nghe qua: mấy buổi tiệc bí mật, chạy đua qua đồng cỏ (ông luôn miệng than phiền về việc ngày xưa chỉ toàn lũ con trai), thuốc phiện, uống rượu, hút thuốc. Cha mất một thời gian để bỏ thuốc, nhưng những tháng ngày oanh liệt ấy giờ đã ở lại phía sau ông.

“Chúng ta yêu con,” cả hai cùng đồng thanh. Câu ấy cần được nói ra, nhưng nó làm cho mọi chuyện trở nên bối rối vô cùng, cứ như bạn đang nhìn ông bà mình hôn nhau ấy.

“Con cũng yêu cha mẹ. Con sẽ gọi về mỗi Chủ Nhật.” Phòng chúng tôi không có đường dây điện thoại, nhưng cha mẹ đã yêu cầu tôi được xếp vào phòng nào gần với một trong năm bốt điện thoại trả tiền của Culver Creek.

Họ ôm tôi lần nữa—mẹ, rồi đến cha và thế là hết. Từ cửa sổ cuối phòng, tôi nhìn họ lái xe khỏi khúc quanh để rời trường. Đáng ra tôi phải thấy sướt mướt, một nỗi buồn ủy mị chẳng hạn. Nhưng chủ yếu tôi chỉ muốn mát, nên tôi vớ lấy cái ghế và ngồi dưới mái chìa ngoài cửa, chờ một ngọn gió không bao giờ tới. Không khí bên ngoài tĩnh lặng và ngột ngạt như bên trong. Tôi nhìn quanh nhà mới của mình: Sáu tòa nhà một tầng, mỗi tòa nhà mười sáu phòng nội trú, xếp theo sơ đồ hình ngôi sao sáu cạnh quanh một bãi cỏ lớn hình tròn. Trông nó như một nhà trọ cũ quá cỡ. Trai gái ôm ấp và cười đùa và dạo bộ cùng nhau khắp nơi. Tôi thoáng mong rằng ai đó cũng sẽ đến bắt chuyện với mình. Tôi hình dung cuộc đối thoại ấy như sau:

“Chào. Năm đầu của đằng ấy hả?”

“Ừ. Đúng. Mình đến từ Florida.”

"Tuyệt. Vậy đằng ấy quen với cái nóng rồi.”

“Có đến từ Địa ngục thì mình cũng không quen nổi cái nóng này đâu,” tôi sẽ đùa thế. Tôi sẽ tạo ấn tượng đầu tiên thật tốt. Ồ, cậu ta vui lắm. Thằng Miles đó hết sảy luôn.

Chuyện đó không xảy ra, dĩ nhiên. Chẳng chuyện gì xảy ra như tôi hình dung cả.

Chán nản, tôi quay trở vào trong, cởi áo rồi nằm xuống lớp đệm vinyl nóng hổi của chiếc giường tầng dưới, đoạn tôi nhắm mắt. Tôi sẽ không bao giờ được sinh ra lần nữa với lễ rửa tội và mấy trò khóc lóc ỉ ôi, nhưng thế cũng chẳng tốt hơn chuyện tái sinh làm một gã không có quá khứ nổi trội là bao. Tôi nghĩ về những người mình đã đọc—John F. Kennedy, ]ames Joyce, Humphrey Bogart những người từng học trường nội trú cùng mấy chuyến phiêu lưu của họ Kennedy chẳng hạn, ổng rất thích bày trò. Tôi nghĩ về Cơ Hội Lớn và những sự có thể xảy ra và những người tôi có thể gặp và bạn cùng phòng của tôi có thể là ai (Tôi nhận được một lá thư có tên cậu ta cách đây mấy tuần, Chip Martin, nhưng không còn thông tin gì khác.) Dù Chip Martin là ai, tôi mong cậu ta mang tới một kho quạt máy công suất lớn, vì tôi không đem theo lấy một cái, và tôi đã có thể cảm thấy mồ hôi chảy thành vũng trên đệm vinyl, nó làm tôi gớm đến mức thôi hẳn việc nghĩ ngợi mà nhấc mông lên để tìm khăn lau mồ hôi. Và rồi tôi nghĩ. Chà, trước chuyến phiêu lưu là công cuộc dỡ đồ.

Tôi loay hoay dán được bản đồ thế giới lên tường và nhét phần lớn quần áo vào trong tủ trước khi nhận ra luồng khí oi bức, ẩm thấp nơi đây cũng đang làm bốn bức tường chảy nước, và tôi quyết định giờ không phải lúc lao động tay chân. Giờ là lúc tắm một trận mát lạnh sảng khoái.

Phòng tắm nhỏ gắn một cái gương toàn thân rất lớn sau cửa, thành thử tôi không thể né khỏi phản ảnh trần truồng của mình trong lúc cúi người vặn vòi nước. Cơ thể gầy nhom này lúc nào cũng làm tôi ngạc nhiên: Hai cánh tay khẳng khiu dường như chẳng to hơn chút nào khi chuyển từ cổ tay lên bả vai, lồng ngực không có chút xíu mỡ hay cơ bắp, và tôi thấy xấu hổ và không biết mình có tháo bỏ cái gương được không. Tôi kéo bức màn tắm trắng tinh rồi trốn vào bên trong.

Xúi quẩy thay, vòi sen hình như đã được thiết kế cho ai đó cao khoảng một mét mốt, nên nước lạnh chỉ xịt trúng phần ngực dưới của tôi với lực chảy của một cái vòi nhỏ giọt. Để làm ướt khuôn mặt đẫm mồ hôi, tôi phải dang chân và ngồi xổm thật thấp. Chắc chắn John F. Kennedy (theo tiểu sử nói là cao một mét tám, đúng bằng tôi) đã không phải ngồi xổm ở trường nội trú. Không, đây là một tình cảnh hoàn toàn khác, và trong lúc đợi vòi nước nhỏ giọt từ từ làm ướt người, tôi đã tự hỏi liệu mình có thể tìm thấy Cơ Hội Lớn ở đây không, hay thật ra mình đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng.

Lúc tôi mở cửa phòng tắm sau khi xong việc, khăn quấn quanh eo, tôi nhìn thấy một gã thấp người vạm vỡ với mái tóc nâu rối bù. Gã đang kéo lê một cái túi cắm trại khổng lồ màu xanh quân đội qua cửa phòng tôi. Gã đứng thẳng chừng mét rưỡi không hơn, nhưng người gã chắc nịch, như mô hình tỉ lệ Adonis, và đi cùng gã là mùi khói thuốc cũ hôi rình. Tuyệt, tôi nghĩ. Mình gặp bạn cùng phòng khi đang khoả thân. Gã kéo cái túi vào phòng, đóng cửa lại, rồi đến chỗ tôi.

“Tao là Chip Martin,” gã nói bằng giọng trầm, giọng của một phát thanh viên trên đài. Trước khi tôi kịp trả lời, gã liền bổ sung, “Tao sẽ bắt tay mày, nhưng tao nghĩ mày nên giữ cái khăn chết tiệt ấy cho chặt tới khi mặc được quần áo vào.”

Tôi bật cười và gật đầu với gã (ổn đúng không? cái gật đầu ấy?) rồi tự giới thiệu, “Tao là Miles Halter. Rất vui được biết mày.”

“Miles, như trong ‘trước khi say giấc’?” gã hỏi tôi.

“Hử?”

“Nó là một bài thơ của Robert Frost. Mày chưa bao giờ đọc thơ của ổng hả?”

Tôi lắc đầu ý bảo không.

“Xem như mày may mắn.” Gã mỉm cười.

Tôi chộp lấy vài cái quần lót sạch, một cái quần soóc đá banh màu xanh dương Adidas và một cái áo thun trắng, lẩm bẩm rằng tôi sẽ quay lại ngay, rồi chạy biến trở lại vào phòng tắm. Ấn tượng đầu tiên thế là đi tong.

“Thế ba mẹ mày ở đâu?” tôi hỏi với ra từ phòng tắm.

“Ba mẹ tao? Ông già tao giờ đang ở California. Có thể đang ngồi trên cái ghế La-Z-Boy của ổng. Hoặc đang lái xe tải. Cỡ nào ổng cũng đang nốc rượu. Mẹ tao chắc đang quẹo ra khỏi trường.”

“Ồ,” tôi nói, hiện đã mặc quần áo, tôi không biết phải làm gì với một thông tin riêng tư như thế. Đáng ra tôi không nên hỏi, tôi đoán vậy, nếu tôi không muốn biết.

Chip cầm mấy tấm ga trải giường và quăng chúng lên giường tầng trên. “Tao thích nằm tầng trên. Mong là mày không phiền.”

“Ưm, không. Sao cũng được.”

“Tao thấy mày trang trí phòng ốc rồi,” gã nói, đưa tay về phía tấm bản đồ thế giới. “Tao thích nó đấy.”

Đoạn gã bắt đầu đọc tên các nước. Gã nói giọng đều đều như thể đã làm thế một ngàn lần trước đó.

Afghanistan

Albania

Algeria.

American Samoa.

Andorra.

Và tiếp tục. Gã đọc xong vần A trước khi ngẩng lên và bắt gặp ánh mắt ngỡ ngàng của tôi.

“Tao có thể đọc hết, nhưng chắc mày sẽ thấy chán. Tao học chúng hồi hè. Quỷ thần ơi, mày không tưởng tượng được New Hope, Alabama mùa hè chán thế nào đâu. Như ngó đậu nành mọc vậy. Nhân tiện, mày từ đâu tới?”

“Florida,” tôi nói.

“Chưa bao giờ ghé.”

“Cũng thú vị lắm, miền quê ấy mà,” tôi bảo.

“Ờ, ai cũng có tài. Tao có thể ghi nhớ sự vật. Và mày có thể...?”

“Ưm, tao biết rất nhiều lời trăng trối của người khác.” Đấy là một thú vui, học lời trăng trối. Người khác có chocolate; tôi có diễn văn lúc chết.

“Ví dụ?”

“Tao thích lời trăng trối của Henrik Ibsen. Ổng là một nhà soạn kịch.” Tôi biết khá bộn về Ibsen, nhưng tôi chưa bao giờ đọc qua vở kịch nào của ổng. Tôi không thích đọc kịch. Tôi thích đọc tiểu sử.

“Ờ, tao biết ổng là ai,” Chip đáp.

“Ừa thì, ổng bệnh cũng lâu rồi và y tá nói với ổng, ‘Sáng nay trông ông khoẻ hơn rồi đấy,’ và Ibsen nhìn cổ và nói, ‘Ngược lại,’ và rồi ổng chết.”

Chip cười lớn. “Nghe bệnh bệnh. Nhưng tao thích lắm.”

Gã bảo gã học ở Culver Creek ba năm rồi. Gã bắt đầu hồi lớp chín, năm đầu tiên của trường, và giờ là một thằng lớp mười một như tôi. Một đứa có học bổng, gã nói. Học bổng toàn phần. Gã nghe đồn đây là ngôi trường tốt nhất Alabama, nên gã viết luận văn dự thi về chuyện gã muốn đến học ở một ngôi trường mà gã có thể đọc những cuốn sách dài hơi. Vấn đề là, gã viết trong luận văn, bố gã lúc nào cũng lấy sách trong nhà để đánh gã, nên Chip mua toàn sách mỏng và bìa mềm để bảo đảm an toàn cho bản thân. Bố mẹ gã li dị hồi gã học lớp mười. Gã thích “Creek,” gã gọi thế, nhưng “ở đây mày phải cẩn thận, với cả học sinh lẫn giáo viên. Và tao rất ghét phải cẩn thận.” Gã nhếch mép. Tôi cũng ghét phải cẩn thận nữa hoặc ít nhất là tôi muốn thế.

Gã bảo tôi điều ấy trong khi lục túi rồi vất quần áo tung tóe vào kệ tủ. Chip không tin vào việc xếp riêng một ngăn vở hoặc một ngăn áo thun. Gã tin rằng tất cả mọi ngăn đều bình đẳng và nếu nhét vừa thứ gì thì cứ tống hết vô. Mẹ tôi chắc chết mất.

Ngay sau khi “dỡ đồ” xong xuôi, Chip đập vào vai tôi một cái rõ to, gã nói, “Mong là sức mày mạnh hơn vẻ ngoài,” rồi bước ra khỏi cửa, để nó mở toang sau lưng. Mấy giây sau gã ngoái đầu lại và thấy tôi đứng yên. “Ê, lẹ lên, Miles Trước Khi Halter. Ta còn việc phải làm.”

Chúng tôi đến phòng TV, theo lời Chip thì đây là nơi có cái TV gắn cáp duy nhất trong trường. Vào mùa hè, nó trở thành nhà kho. Ghế sofa, tủ lạnh và thảm cuốn chất cao gần đụng nóc, trong phòng đầy bọn nhóc lố nhố đang cố tìm và lôi hết đồ đạc của mình ra. Chip nói lời chào với vài đứa nhưng không giới thiệu tôi. Trong lúc gã lang thang quanh mê cung sofa, tôi đứng gần cửa ra vào, cố gắng không cản đường mấy cặp bạn cùng phòng đang khiêng đồ qua khung cửa chật hẹp.

Chip mất mười phút để tìm đồ của gã, và thêm một tiếng để chúng tôi qua lại bốn chuyến giữa phòng TV và Phòng 43 trong kí túc xá. Sau khi xong việc, tôi chỉ muốn chui vào cái tủ lạnh mini của Chip và ngủ luôn một ngàn năm, nhưng Chip có vẻ miễn nhiễm với cả mệt mỏi và sốc nhiệt. Tôi ngồi xuống sofa của gã.

“Tao thấy nó nằm trên lề đường trong khu phố hồi mấy năm trước,” gã nói về cái ghế trong lúc lắp bộ Playstation 2 của tôi để lên rương cất đồ của gã. “Tao biết lớp da có vài vết nứt, nhưng thôi nào. Cái ghế đẹp hôn mê.” Lớp da có nhiều hơn vài vết nứt khoảng 30 phần trăm da giả màu xanh nhạt và 70 phần trăm nệm mút dù sao tôi vẫn thấy nó thoải mái ra trò.

“Được,” gã nói. “Sắp xong rồi.” Gã bước tôi bàn học và lôi một cuộn băng dính trong ngăn kéo ra. “Chúng ta chỉ cần cái rương của mày.”

Tôi đứng dậy, kéo rương khỏi gầm giường, và Chip đặt nó giữa ghê sofa và bộ Playstation 2 và bắt đầu xé băng dính thành từng miếng mỏng. Gã dán chúng lên rương thành chữ BÀN CÀ PHÊ.

“Đấy,” gã bảo. Gã ngồi xuống và gác chân lên, ở, cái bàn cà phê. “Xong rồi.”

Tôi ngồi xuống cạnh gã, và gã quay sang nhìn tôi và đột ngột nói, “Nghe này. Tao sẽ không làm cánh cửa dẫn mày tới cuộc sống xã giao ở Culver Creek đâu.”

“Ừm, được,” tôi đáp, nhưng tôi có thể nghe thấy ngôn từ tắc nghẹn trong họng. Tôi vừa khiêng ghế cho thằng cha này dưới cái nóng đổ lửa và giờ gã không thích tôi?

“Về Cơ bản, trường này chia thành hai nhóm,” gã giải thích, giọng nói dần gấp gáp. “Nhóm nội trú thường nhật, như tao, và lũ Chiến Binh Ngày Thường; tụi nó học nội trú ở đây, nhưng chúng toàn một lũ giàu có ở Birmingham và mỗi cuối tuần lại về với mấy căn biệt thự lắp điều hòa của bố mẹ. Đấy là bọn sang chảnh. Tao không thích tụi nó, và tụi nó không thích tao, và nếu mày tới đây vì nghĩ rằng nếu mày là siêu sao ở trường công thì mày cũng sẽ là siêu sao ở đây, tốt nhất mày đừng để bị bắt gặp với tao. Hồi đó mày học trường công đúng không?”

“Ừm...” tôi ngần ngừ. Một cách vô thức, tôi khởi sự cạy mấy vết nứt trên mặt da của ghế, mấy ngón tay sục vào lớp mút màu trắng.

“Phải rồi, mày đã học ở đó, vì nếu học trường tư thì cái quần soóc chết tiệt kia đã vừa rồi.” Gã cười khanh khách.

Tôi mặc quần hơi trễ dưới hông, tôi nghĩ thế là hay. Cuối cùng tôi nói, “Ừa, tao học trường công. Nhưng tao không phải siêu sao gì hết, Chip. Tao chỉ là sao xẹt thôi.”

“Ha! Thế thì tốt. Và đừng gọi tao là Chip. Gọi tao là Đại Tá.”

Tôi nín cười. “Đại Tá?"

“Ờ. Đại Tá. Và chúng ta sẽ gọi mày là... ừmmm. Bé Bự.”

“Hử?”

“Bé Bự,” Đại Tá nói. “Vì mày ốm nhom. Đấy gọi là châm biếm, Bé Bự ạ. Nghe qua bao giờ chưa? Giờ đi lấy vài điếu thuốc rồi bắt đầu năm học cho tử tế nào.”

Gã bước ra khỏi phòng, tự cho rằng tôi sẽ đi theo lần nữa, mà tôi đi theo thật. May sao mặt trời đang lặn xuống phía cuối chân trời. Chúng tôi băng qua năm cánh cửa đến Phòng 48. Một tấm bảng trắng được dán lên cửa bằng băng dính. Trên có ghi bằng bút lông xanh: Alaska có phòng riêng!

Đại Tá giải thích cho tôi rằng 1. Đây là phòng của Alaska, và 2. Cô ấy có một phòng riêng vì con nhỏ đáng ra sẽ làm bạn cùng phòng với cổ đã bị đuổi học cuối năm ngoái, và 3. Alaska có thuốc lá, dù Đại Tá đã quên không hỏi liệu 4. Tôi có hút thuốc không, vì 5. Tôi không hút.

Gã gõ cửa một lần thật mạnh. Qua lớp cửa, một giọng nói hét lên, “Quỷ thần ơi, vào đi nhóc lùn vì mình có chuyện này hết sảy luôn.”

Chúng tôi đi vào. Tôi quay lại đóng của sau lưng, và Đại Tá lắc đầu rồi nói, “Sau bảy giờ mày phải để cửa mở nếu đang ở trong phòng con gái,” nhưng tôi chẳng nghe được gì nữa, bởi vì cô gái nóng bỏng nhất trong lịch sử loài người đang đứng trước mặt tôi trong chiếc quần jean cắt ngắn và áo ba lỗ màu hồng đào. Và cô ấy đang nói át cả tiếng của Đại Tá, nói rất to và nhanh.

“Thì ngày đầu tiên của mùa hè, mình đang ở Trạm Vine thân yêu với cái gã tên Justin này và tụi mình đang ngồi trên sofa xem TV ở nhà hắn và đừng đùa, mình đã hẹn hò với Jake rồi thật ra mình vẫn đang hẹn hò với ảnh, nhiệm màu chưa, nhưng Justin chỉ là một người bạn hồi nhỏ nên tụi mình chỉ đang xem TV và buôn chuyện về mấy bài thi SAT hay đại loại thế, và Justin quàng tay qua vai mình và mình nghĩ, Ồ thích thật, chúng mình đã là bạn từ rất lâu và tư thế này hoàn toàn thoải mái, và cả hai chỉ đang nói chuyện và rồi mình đang nói dở câu về phép loại suy hay gì đó và hắn thò tay xuống như một con diều hâu và bóp ngực mình. BÓP. Một cú BÓP hai đến ba giây rất mạnh. Và điều đầu tiên mình nghĩ là Được rồi, làm sao mình có thể gỡ cái móng vuốt này ra khỏi ngực trước khi nó để dấu vĩnh viễn? và điều thứ hai mình nghĩ là Chúa ơi, mình phải kể cho Takumi và Đại Tá nghe liền."

Đại Tá bật cười. Tôi trố mắt nhìn, phần vì sững sờ bởi âm lượng của giọng nói phát ra từ cô nàng nhỏ con (nhưng hấp dẫn, lạy Chúa tôi) và phần vì những chồng sách khổng lồ xếp dọc trên tường. Thư viện của cô nàng nhét đầy trên kệ, rồi chất thành những đống sách cao ngang hông ở khắp nơi, bừa bãi tựa vào tường. Chỉ cần một trong số chúng di chuyển, tôi nghĩ, hiệu ứng domino có thể nuốt chửng ba chúng tôi trong một khối văn học nghẹt kín.

“Anh chàng không mắc cười trước câu chuyện siêu hài hước của mình là ai thế?” cô ấy hỏi.

“Ồ, phải rồi. Alaska, đây là Bé Bự. Bé Bự ghi nhớ lời trăng trối của người khác. Bé Bự, đây là Alaska. Cổ bị bóp ngực hồi nghỉ hè.” Cô ấy đi đến chỗ tôi và giơ tay ra, rồi nhanh chóng đưa xuống dưới vào giây cuối cùng để tuột quần tôi.

“Đấy là cái quần soóc bự nhất bang Alabama!"

“Mình thích mặc thùng thình,” tôi nói, cảm thấy xấu hổ, đoạn tôi kéo quần lên. Hồi ở Florida chúng rất thời thượng.

“Chúng ta mới quen nhau, Bé Bự ạ, nhưng tao thấy hai cái cẳng gà của mày quá nhiều rồi,” Đại Tá nghiêm mặt. “Ê, Alaska. Bán cho bọn này mấy điếu thuốc.” Rồi bằng cách nào đó, Đại Tá đã thuyết phục tôi trả năm đô-la cho một gói Marlboro Lights mà tôi không định hút bao giờ. Gã đề nghị Alaska nhập bọn, nhưng cô ấy nói, “Mình phải tìm Takumi và kể cậu ấy nghe về Cú Bóp.” Cô ấy quay sang tôi và hỏi, “Cậu có thấy cậu ấy không?” Tôi không biết mình đã thấy qua Takumi chưa, bởi tôi không biết cậu ta là ai cả. Tôi chỉ lắc đầu.

“Được rồi. Gặp cậu ở bờ hồ vài phút nữa vậy.” Đại Tá gật đầu.

Ở rìa bờ biển đầy cát (và giả tạo, Đại Tá bảo thế), chúng tôi ngồi xuống cái xích đu hai người bằng gỗ. Tôi đùa cho có lệ: “Đừng bóp ngực tao.” Đại Tá cũng cười cho có lệ, rồi hỏi, “Làm một điếu không?” tôi chưa bao giờ hút thuốc, nhưng nhập gia thì tùy tục...

“Chỗ này an toàn chứ?”

“Không hẳn,” gã trả lời, rồi đốt một điếu và đưa nó cho tôi. Tôi hít vào. Ho sù sụ. Thở khò khè. Đớp lấy hơi. Xong lại ho sù sụ. Đoạn tôi nghĩ đến chuyện nôn. Tôi tóm lấy xích đu đang đung đưa, đầu quay mòng mòng, rồi ném điếu thuốc xuống đất và đạp lên nó, nhất quyết rằng Cơ Hội Lớn của tôi sẽ không bao gồm thuốc lá.

“Hút nhiều quá hả?” gã cười lớn, rồi chỉ về phía một đốm trắng bên kia hồ và nói, “Thấy không?”

“Ờ,” tôi đáp. “Gì đó? Một con chim?”

“Là thiên nga,” gã nói.

“Oa. Trường có nuôi thiên nga. Òa.”

“Con thiên nga đó là dòng giống của Satan. Đừng bao giờ lại gần nó hơn khoảng cách bây giờ.”

“Tại sao?”

“Nó có vài vấn đề với con người. Nó bị bạo hành hay chi đó. Nó sẽ xé xác mày. Đại Bàng để nó ở đó nhằm ngăn tụi học sinh hút thuốc quanh hồ.”

“Đại Bàng?”

“Ông Starnes. Mật danh: Đại Bàng. Thầy hiệu trưởng. Hầu hết giáo viên sống trong trường, và họ đều sẽ bắt mày. Nhưng có mỗi Đại Bàng sống trong kí túc xá, và ổng thấy hết. Ổng có thể ngửi thấy mùi thuốc lá từ cỡ năm dặm.”

“Nhà ổng không phải ở kia hả?” tôi hỏi, chỉ về phía nó. Tôi có thể thấy ngôi nhà khá rõ dù trời tối mù, nên chắc ổng cũng sẽ thấy tụi tôi.

“Ờ, nhưng ổng không bật chế độ thảm sát trước khi lớp học bắt đầu đâu,” Chip thản nhiên nói.

“Chúa ơi, cha mẹ sẽ giết tao nếu tao dính vào rắc rối,” tôi rên rỉ.

“Tao đoán mày đang nói quá. Nhưng nghe này, mày sẽ dính vào rắc rối. Chín mươi chín phần trăm thời gian, nhưng cha mẹ mày không cần phải biết. Trường này không muốn cha mẹ mày nghĩ rằng họ đã biến mày thành một thằng bố láo cũng như mày không muốn cha mẹ mày nghĩ mày là một thằng bố láo vậy.” Gã thổi một làn khói mỏng về phía bờ hồ. Tôi phải thú nhận: Gã làm thế trông rất ngầu. Nhìn cao ráo hơn, chẳng hiểu sao. “Dù sao đi nữa, khi dính vào rắc rối, nhớ đừng khai tên ai. Ý tao là, tao ghét cay ghét đắng lũ nhà giàu hợm hĩnh ở đây, dù bình thường tao chỉ ghét mỗi phòng khám răng và ông già tao. Nhưng đấy không có nghĩa là tao sẽ khai tên tụi nó. Nói chung điều quan trọng duy nhất là không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ được mách lẻo.”

“Được,” tôi nói, dù vẫn thắc mắc: Nếu có ai đó đấm vào mặt tôi, tôi phải khăng khăng rằng tôi đập mặt vào cửa? Nghe hơi ngu. Làm sao bạn đối mặt với bọn bắt nạt và cùi bắp nếu bạn không thể khiến chúng dính vào rắc rối? Nhưng tôi đã không hỏi Chip.

“Được rồi, Bé Bự. Chúng ta đã đến thời điểm mà tao buộc phải đi tìm bạn gái của mình vào buổi tối. Nên đưa cho tao mấy điếu thuốc mày sẽ không bao giờ hút ấy đây, và tao sẽ gặp mày sau.”

Tôi quyết định ngồi lại trên xích đu một chốc, phần vì hơi nóng cuối cùng đã tan thành bầu không khí hai mươi sáu độ ngai ngái dễ chịu, phần vì tôi nghĩ rằng Alaska sẽ xuất hiện. Nhưng ngay sau khi Đại Tá rời đi, bọn côn trùng bắt đầu xâm lấn: Ruồi-Vô-Hình (mà thật ra bạn có thể thấy chúng) và muỗi bay lởn vởn quanh tôi nhiều đến mức tiếng đập cánh tí hon của chúng nghe rất chói tai. Và rồi tôi quyết định hút thuốc.

Hiện tại, đúng là tôi đã nghĩ, Khói sẽ đuổi côn trùng đi. Và ít nhiều nó cũng đã thành công. Nhưng tôi sẽ nói dối nếu tuyên bố rằng tôi hút thuốc để đuổi côn trùng. Tôi hút thuốc vì 1. tôi đang ngồi trên xích đu đôi một mình, và 2. tôi có thuốc lá, và 3. tôi nhận ra nếu người khác có thể hút thuốc mà không ho sù sụ thì tôi cũng có thể. Nói tóm lại, tôi không có một lí do thuyết phục. Nên ờ, hãy cứ nói là 4. tại bọn côn trùng.

Tôi hút được ba hơi trước khi thấy buồn nôn và chóng mặt và chỉ có chút đê mê nửa vời. Tôi đứng dậy bỏ đi. Trong lúc đứng lên, một giọng nói phía sau tôi lên tiếng;

“Có thật là cậu nhớ được những lời trăng trối không?”

Cô ấy chạy đến cạnh tôi và chộp lấy vai tôi, đẩy tôi ngồi xuống xích đu trở lại.

“Ừa,” tôi nói. Rồi hơi do dự, tôi thêm vào. “Cậu muốn kiểm tra không?”

“JFK,” cô ấy nói.

“Rõ ràng quá mà,” tôi đáp.

“Ồ, thật à?” cô ấy hỏi lại.

“Không. Đấy là câu nói cuối cùng của ổng. Ai đó bảo, ‘Ngài Tổng Thống, ngài không thể nói Dallas không yêu ngài,’ rồi ổng báo, ‘Rõ ràng quá mà,’ và ổng bị bắn chết.”

Cô ấy bật cười. “Quỷ thần ơi, tệ quá. Mình không nên cười. Nhưng mình sẽ làm thế,” đoạn cô ấy cười tiếp. “Được rồi, cậu trai Lời Trăng Trối Nổi Tiếng này. Mình có một câu cho cậu đây.” Cô ấy thò tay vào cái ba-lô đầy ứ của mình và lôi ra một cuốn sách. “Gabriel García Márquez. Tướng quân giữa mê hồn trận. Một trong những cuốn sách yêu thích của mình. Nó nói về Simón Bolívar.” Tôi không biết Simón Bolívar là ai, nhưng cô ấy không để cho tôi hỏi. “Nó là tiểu thuyết dã sử, nên mình không biết nó có thật hay không, nhưng cậu có biết lời trăng trối của ông ta trong sách là gì không? Không, cậu không biết. Nhưng mình sẽ nói cho cậu. Señor Nói Lời Chia Ly.”

Đoạn cô ấy đốt một điếu thuốc và rít vào thật mạnh, lâu đến nỗi tôi tưởng cả điếu sẽ cháy rụi trong một hơi. Cô ấy thở ra rồi đọc cho tôi nghe:

“‘Ông ta, cái ông Simón Bolívar ấy‘ bị choáng ngợp trước sự thật rằng cuộc đua liều lĩnh giữa vận rủi và giấc mơ của mình sắp kết thúc ngay lúc đó. Phần còn lại là bóng tối. “Chết tiệt,” ông thở dài. “Làm sao ta thoát khỏi mê hồn trận này đây!”’”

Tôi biết đâu là lời trăng trối vĩ đại khi nghe thấy chúng, và tôi thầm nhắc mình phải mua một bản tiểu sử của gã Simón Bolívar này. Lời trăng trối tuyệt đẹp, nhưng tôi không hiểu lắm. “Thế mê hồn trận là gì?” tôi hỏi cô ấy.

Và đây là thời điểm hoàn hảo như bao thời điểm khác để nói rằng cô ấy thật xinh đẹp. Trong bóng tối bên cạnh tôi, cô ấy có mùi mồ hôi và nắng sớm và vanilla, và vào đêm trăng khuyết ấy, tôi chỉ thấy mỗi bóng cô trừ lúc cô hút thuốc, khi đốm đỏ màu anh đào của điếu thuốc hắt lên mặt cô thứ ánh sáng hồng nhạt. Nhưng kể cả trong bóng tối, tôi vẫn có thể nhìn thấy đôi mắt của cô — hai viên ngọc lục bảo chói lòa. Ánh mắt của cô ấy sẽ khiến bạn ủng hộ mọi nỗ lực của cô. Và cô không chỉ xinh đẹp mà còn hấp dẫn, với bộ ngực nằm gọn trong áo ba lỗ ôm sát người, cặp chân cong cong đung đưa dưới ghế xích đu, đôi dép xỏ ngón lúc lắc trên mười đầu ngón chân sơn màu xanh dạ quang. Ngay đúng lúc ấy, khi tôi hỏi về mê hồn trận và nghe cô ấy trả lời, tôi đã nhận ra tầm quan trọng của những đường cong, của hàng ngàn vị trí nối liền nhau trên cơ thể con gái, từ lòng bàn chân đến mắt cá chân đến bắp chân, từ bắp chân đến eo đến hông đến ngực đến cổ đến cái mũi hếch đến trán đến vai đến hõm lưng đến mông đến đủ thứ. Trước đây tôi từng để ý đến những đường cong, dĩ nhiên, nhưng tôi chưa bao giờ thật sự hiểu rõ ý nghĩa của chúng.

Miệng của cô ấy đủ gần để tôi thấy hơi thở của cô ấm hơn không khí, cô nói, “Đấy là điều bí ẩn, đúng không? Mê hồn trận là sống hay chết? Ông ấy đang cố thoát khỏi cái gì—thế giới hay tận cùng của nó?” tôi đợi cô ấy nói tiếp, nhưng một lúc sau tôi nhận ra cô ấy muốn nghe câu trả lời.

“Ưm, mình không biết,” cuối cùng tôi nói. “Cậu thật sự đã đọc hết số sách trong phòng à?”

Cô ấy cười to. “Quỷ thần ơi, không hề. Chắc mình đọc được một phần ba. Nhưng mình sẽ đọc hết. Mình gọi chúng là Thư Viện Cuộc Đời. Mỗi mùa hè từ khi còn nhỏ, mình sẽ đến chỗ garage sale và mua hết những cuốn sách trông có vẻ thú vị. Nên mình lúc nào cũng có sách để đọc. Nhưng đời có quá nhiều thứ để làm: thuốc để hút, bạn tình để quan hệ, xích đu để ngồi lên. Mình sẽ có nhiều thời gian đọc sách hơn khi đã già nua và chán ngắt.”

Cô ấy bảo tôi gợi cô ấy nhớ đến Đại Tá khi gã mới đến Culver Creek. Họ cùng là học sinh mới, cô ấy nói, cùng là học sinh có học bổng với, như cô ấy nói thì, “sở thích chung về bia rượu và quậy phá.” Cụm từ bia rượu và quậy phá khiến tôi lo rằng tôi đã gặp phải những người mà mẹ tôi gọi là “bạn xấu,” nhưng với những người bạn xấu mà nói, họ đều trông hết sức thông minh. Trong lúc cô ấy châm thêm một điếu từ mẩu thuốc vừa rồi, cô ấy bảo tôi Đại Tá rất thông minh nhưng vẫn chưa tận hưởng gì mấy từ khi đến Creek.

“Mình giải quyết vấn đề ấy nhanh chóng.” Cô ấy mỉm cười. “Tới tháng Mười Một, mình đã tìm cho hắn cô bạn gái đầu tiên, một cô nàng hoàn hảo không-phải-Chiến-Binh-Ngày-Thường tên Janice. Hắn đá cô nàng sau một tháng vì cổ quá giàu với một gã nghèo kiết xác như hắn, nhưng sao cũng được. Chúng mình thực hiện trò chơi khăm đầu tiên vào năm đó, cả hai lấp đầy sàn Phòng Học 4 bằng một lớp bi mỏng. Từ đó đến nay đã tiến triển chút ít, dĩ nhiên.” Cô ấy bật cười. Nên Chip trở thành Đại Tá—nhà chiến lược quân sự cho những trò chơi khăm của họ, và Alaska mãi là Alaska, lực lượng sáng tạo vĩ-đại-hơn-cả-sự-sống đứng sau họ.

“Cậu thông minh giống hắn,” cô ấy nói. “Dù ít nói hơn. Và dễ thương hơn, nhưng mình không nói thế đâu nhé, vì mình yêu bạn trai của mình.”

“Ừa, trông cậu cũng không tệ,” tôi nói, ngây ngất vì lời khen của cô. “Nhưng mình không nói thế đâu nhé, vì mình yêu bạn gái của mình. Ồ khoan. Phải rồi. Mình không có bạn gái.”

Cô ấy lại cười, “Ờ, đừng lo, Bé Bự. Nếu có gì mình lấy được cho cậu, ấy chính là một cô bạn gái. Mình thỏa thuận đi: Cậu tìm xem mê hồn trận là gì và làm sao để thoát ra, rồi mình giúp cậu tìm bạn gái.”

“Đồng ý.” Chúng tôi bắt tay.

Sau đó, tôi đi cùng Alaska về kí túc xá. Những con ve sầu liên tục ngân vang bài ca một nốt muôn thuở, cũng như chúng đã làm hồi ở Florida. Cô ấy quay sang tôi trong lúc cả hai rảo bước trong bóng đêm và nói, “Có bao giờ cậu thấy sợ khi đi giữa đêm và chỉ muốn chạy về nhà dù biết nó rất ngớ ngẩn và xấu hổ không?”

Thú nhận với một người lạ mới toanh thế này có vẻ quá thầm kín và riêng tư, nhưng tôi vẫn trả lời cô ấy, “Ừa, có chứ.”

Trong thoáng chốc, cô ấy im lặng. Rồi cô nắm lấy tay tôi, thì thầm, “Chạy mau chạy mau chạy mau chạy mau chạy mau,” rồi phóng vụt đi, kéo cả tôi theo sau.

một trăm hai mươi bảy ngày trước

SỚM TRƯA HÔM SAU, tôi chớp mồ hôi khỏi mắt trong lúc dán tấm poster van Gogh lên phía sau cửa. Đại Tá ngồi trên sofa kiểm tra xem poster đã đều chưa và trả lời chuỗi câu hỏi vô tận của tôi về Alaska. Gia cảnh cô ấy thế nào? “Nhà nó ở Trạm Vine. Mày có thể lái xe vượt qua mà không để ý—nhưng mày bắt buộc phải nhận ra, ấy là từ những gì tao biết. Bạn trai của nó có học bổng ở Vanderbilt. Chơi bass cho ban nhạc nào đó. Tao không rành về gia đình nó.” Vậy cô ấy thích hắn thật à? “Tao đoán vậy. Nó vẫn chưa ngoại tình với thằng khác, thế mới kinh chứ lị.” Và cứ thế. Cả buổi sáng, tôi đã không thể quan tâm tới bất cứ thứ gì khác, không phải tấm poster van Gogh hay trò chơi điện tử và thậm chí cả thời khóa biểu mà Đại Bàng đã đem tới vào buổi sáng hôm ấy. Ổng cũng giới thiệu bản thân luôn:

“Chào mừng đến với Culver Creek, cậu Halter. Trò có rất nhiều quyền tự do ở đây. Nếu lạm dụng chúng, trò sẽ hối hận. Trò có vẻ là một thanh niên tốt. Tôi ghét phải nói lời tạm biệt trò.”

Rồi ổng nhìn tôi chằm chằm theo kiểu hoặc rất nghiêm túc hoặc ác ý ra mặt. “Alaska gọi đó là Anh Mắt Kết Tội,” Đại Tá bảo tôi sau khi Đại Bàng rời đi. “Lần sau thấy nó thì mày tiêu đời rồi.”

“Được, Bé Bự,” Đại Tá lên tiếng trong lúc tôi lùi xa tấm poster. Không đều cho lắm, nhưng cũng tạm. “Thôi chuyện Alaska đi. Tao đếm được chín mươi hai đứa con gái ở cái trường này, và đứa khỉ nào cũng đỡ điên hơn Alaska, người, tao xin được bổ sung, là đã có bạn trai rồi. Tao đi ăn trưa đây. Hôm nay là ngày burri-chiên.” Gã bước ra ngoài, để cửa mở. Cảm thấy như một kẻ ngốc si tình, tôi đứng dậy đóng cửa. Đại Tá, đã băng qua nửa vòng kí túc xá, liền quay lại. “Chúa ơi. Mày có đi không thế?”

Bạn có thể nói xấu nhiều thứ về Alabama, nhưng bạn không thể nói người Alabama rất sợ đồ chiên xào. Tuần đầu tiên tôi ở Creek, căn-tin dọn món gà chiên, thịt bò chiên áp chảo và mướp tây chiên giòn, cũng là cột mốc đánh dấu món rau chiên mĩ vị đầu tiên của tôi. Tôi tưởng họ sẽ chiên luôn xà lách. Nhưng không gì sánh bằng món burri-chiên, món ăn được sáng tạo bởi Maureen, gã đầu bếp béo phệ hết hồn (và dễ hiểu) ở Culver Creek. Gồm một miếng burrito nhân đậu chiên ngập dầu, món burri-chiên đã chứng minh xuất sắc được câu nói chiên xào luôn làm món ăn ngon hơn. Trưa hôm ấy, ngồi cùng Đại Tá và năm thằng con trai lạ mặt ở một cái bàn tròn trong căn-tin, tôi đã cắn phập vào lớp vỏ giòn tan của món burri-chiên đầu tiên và trải nghiệm cảm giác cực khoái ăn uống. Mẹ tôi nấu nướng cũng ổn, nhưng ngay lập tức tôi muốn đưa Maureen về nhà vào dịp Lễ Tạ ơn.

Đại Tá giới thiệu tôi (bằng tên “Bé Bự”) với mấy thằng ngồi chung cái bàn gỗ nghiêng ngả, nhưng tôi chỉ nhớ được tên Takumi, người Alaska nhắc đến hôm qua. Một tên người Nhật còm nhom chỉ cao hơn Đại Tá vài phân, Takumi ngốn đầy một họng rồi nói trong lúc tôi nhai nuốt chậm rãi, tận hưởng miếng bánh giòn rụm thơm mùi đậu.

“Lạy Chúa,” Takumi nói với tôi, “không gì thích bằng việc nhìn người khác ăn miếng burri-chiên đầu tiên.”

Tôi không nói nhiều, phần vì không ai hỏi tôi câu nào và phần vì tôi chỉ muốn ăn càng nhiều càng tốt. Nhưng Takumi không tế nhị như thế, cậu ta có thể ăn và nhai và nuốt trong lúc nói chuyện, và cậu ta đã làm vậy.

Cuộc thảo luận buổi trưa xoay quanh cô bạn cùng phòng hụt của Alaska, Marya, và bạn trai của cô nàng, Paul, một tên Chiến Binh Ngày Thường. Hai đứa bị đuổi vào tuần học cuối cùng năm ngoái, tôi nghe nói, vì cái mà Đại Tá gọi là “Tam Tội”—tụi nó bị bắt quả tang đang thực hiện ba tội đáng trục xuất của Culver Creek cùng một lúc. Khoả thân nằm trên giường cùng nhau (“đụng chạm vùng kín” là tội #1), xỉn bét nhè (#2), tụi nó đang hút cần (#3) khi Đại Bàng xông vào phòng. Nghe đồn ai đó đã mách lẻo, và Takumi có vẻ quyết tâm tìm ra thủ phạm—đủ quyết tâm để hét to vụ đó với một miệng đầy burri-chiên.

“Paul là một thằng vô lại,” Đại Tá nói. “Tao sẽ không mách lẻo tụi nó, nhưng cái đứa cặp kè với một thằng Chiến Binh Ngày Thường lái Jaguar như Paul đáng bị vậy”

“Ê bồ tèo,” Takumi đáp lại, “bạn bái bày,” rồi cậu ta nuốt một miếng to, “là một Chiến Binh Ngày Thường.”

“Đúng.” Đại Tá cười xòa. “Dù tao rất ghét, nhưng đấy là sư thật không thể chối cãi. Nhưng cổ không vô lại như Paul.”

“Không bằng.” Takumi nhếch mép. Đại Tá lại cười, và tôi tự hỏi sao gã không bênh vực bạn gái mình. Tôi sẽ chẳng quan tâm nếu bạn gái tôi là một thằng khổng lồ Cyclops râu ria lái Jaguar—có người để ôm ấp là tôi biết ơn rồi.

Tối đó, lúc Đại Tá ghé qua Phòng 43 để lấy thuốc lá (gã dường như đã quên rằng chúng, về cơ bản, là của tôi), tôi đã không để ý khi gã không mời tôi đi cùng. Ở trường công, tôi biết vô số người có thói quen phải ghét loại người này hoặc loại người kia, bọn mọt sách ghét lũ học dự bị, vân vân và tôi luôn thấy chuyện đó thật phí thời gian.

Đại Tá không kể tôi nghe buổi trưa gã ở đâu, hoặc buổi tối gã sẽ ở đâu, nhưng gã đã đóng cửa lại lúc đi, nên tôi đoán mình không được chào đón.

Thế thì thôi: Tôi dành cả buổi tối để lướt Web (không phim khiêu dâm, tôi thề) và đọc Những Ngày Cuối Cùng, một cuối sách về Richard Nixon và Watergate. Để ăn tối, tôi hâm nóng một miếng burri-chiên được Đại Tá lén đem ra khỏi căn-tin. Nó gợi tôi nhớ về những đêm ở Florida—ngoại trừ việc đồ ăn ngon hơn và không có máy lạnh. Nằm trên giường đọc sách khiến tôi cảm thấy thân thuộc vô cùng.

Tôi quyết định làm theo điều mà tôi chắc rằng đấy là lời khuyên của mẹ và ngủ một giấc thật ngon trước ngày học đầu tiên. Môn tiếng Pháp II bắt đầu lúc 8:10, nghĩ mình sẽ không mất hơn tám phút để mặc quần áo và đi bộ tới lớp, tôi đặt báo thức lúc 8:02. Tôi tắm rửa, rồi nằm trên giường đợi giấc ngủ đến cứu tôi khỏi cái nóng. Chừng 11:00, tôi nhận ra cánh quạt tí hon gắn trên giường tôi sẽ mát hơn chút xíu nếu tôi cởi áo, và cuối cùng tôi cũng thiếp đi trên tấm đệm, mặc độc chiếc quần lót trên cơ thể.

Một quyết định làm tôi hối hận vài giờ sau đó, khi tỉnh dậy bởi hai bàn tay bị thịt đẫm mồ hôi đang lắc người tôi như điên. Tôi tỉnh hẳn ngay lập tức, ngồi thẳng trên giường, hốt hoảng, và vì lẽ gì đó tôi không thể hiểu được tiếng nói, không thể hiểu được vì sao lại có tiếng nói, mà mấy giờ rồi mới được? Và cuối cùng đầu tôi cũng đủ tỉnh táo để nghe, “Ê nhóc. Đừng bắt tao đá đít mày. Cứ dậy đi,” và rồi từ giường tầng trên, tôi nghe, “Lạy Chúa, Bé Bự. Cứ dậy đi.” Nên tôi ngồi dậy, và lần đầu tiên nhìn thấy ba cái bóng. Hai trong số đó tóm lấy tôi, còn một người giữ lấy hai bên bắp tay tôi, rồi dắt tôi ra khỏi phòng. Trên đường đi, Đại Tá lẩm bẩm, “Chúc vui. Nhẹ nhàng với nó thôi, Kevin.”

Họ dắt tôi, gần như chạy, ra sau tòa nhà nội trú, băng qua sân bóng đá. Sân bóng nhiều cỏ nhưng cũng đầy đá sỏi, và tôi tự hỏi sao không ai biết phép lịch sự thông thường để nhắc tôi mang giày, và tại sao tôi lại mặc quần lót ở ngoài này, hai cái cẳng gà lộ ra cho cả thế giới? Một ngàn viễn cảnh nhục nhã chạy xẹt qua đầu tôi: Thằng lớp mười một mới kìa, Miles Halter, bị còng vào khung thành với mỗi chiếc quần lót. Tôi tưởng tượng họ đưa tôi vào rừng, nơi chúng tôi hình như đang hướng đến, và đánh tôi bầm dập để dòm tôi thật ngầu vào hôm khai giảng. Và suốt quãng thời gian đó, tôi chỉ nhìn chằm chằm xuống dưới chân, vì tôi không muốn nhìn họ và không muốn trượt té, nên tôi cẩn thận từng bước, cố tránh khỏi mấy hòn đá lớn hơn. Phản xạ Chiến-hay-Biến nảy sinh trong tôi hết lần này đến lần khác, nhưng tôi biết chiến hay biến thì cũng chưa từng giúp ích cho tôi trước đó. Họ dẫn tôi đi đường vòng đến bãi biển nhân tạo, và rồi tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra một vụ nhấn nước kinh điển, lỗi thời và tôi bình tĩnh lại. Tôi có thể chịu được.

Khi chúng tôi đến bờ biển, họ bảo tôi ép hai tay vào sườn, và gã lực lưỡng nhất lấy ra hai cuộn băng dính từ bãi cát. Đôi tay tôi áp sát hai bên như quân lính đứng nghiêm, họ quấn băng khắp người tôi từ vai đến cổ tay. Rồi họ ném tôi xuống đất; cát từ bãi biển nhân tạo làm giảm lực ngã, nhưng tôi vẫn đập đầu. Hai trong số họ kéo chân tôi khép lại trong khi gã kia—Kevin, tôi đã biết, kề khuôn mặt góc cạnh, to bè của hắn lại gần đến nỗi nhúm tóc đẫm gel chĩa ra trên trán hắn đâm thẳng vào mặt tôi, đoạn hắn bảo tôi, “Đây là vì Đại Tá. Mày không nên chơi với thằng khốn đó.” Họ dán chân tôi lại với nhau, từ mắt cá đến bắp đùi. Trông tôi như xác ướp màu bạc. Tôi nói, “Làm ơn, xin đừng,” ngay trước khi họ dán chặt miệng tôi. Rồi họ nhấc tôi lên và ném tôi xuống nước.

Chìm. Tôi đang chìm, nhưng thay vì hoảng sợ hay cảm giác gì khác, tôi nhận ra “Làm ơn, xin đừng” là một lời trăng trối tệ hại. Nhưng rồi phép màu của nhân loại sức nổi của chúng ta xuất hiện, và trong lúc thấy mình nổi dần lên mặt nước, tôi vặn vẹo qua lại hết mức có thể để bầu không khí buổi đêm ấm áp sẽ ập vào mũi trước, và tôi hít thở. Tôi không chết và sẽ không chết.

Chà, tôi nghĩ, cũng không tệ lắm.

Nhưng vẫn còn chút vấn đề về việc bơi vào bờ trước khi trời sáng. Trước tiên, phải xác định vị trí đối mặt với bờ biển. Nếu tôi nghiêng đầu quá nhiều, cả người tôi sẽ bắt đầu quay theo, và trong bản danh sách dài ngoằng những cách chết khó đỡ, “chết sấp mặt trong chiếc quần lót trắng ướt đẫm” nằm ở thứ hạng khá cao. Nên thay vào đó tôi đảo mắt và ngửa cổ ra sau, mắt gần như chìm dưới nước, cho đến khi nhìn thấy bờ—cách chưa đến ba mét—ở ngay sau đầu. Tôi bắt đầu bơi, một chàng tiên cá đuôi bạc không tay, chỉ dùng mỗi hông để tạo chuyển động, đến khi mông tôi cạ lên đáy hồ nhớp bùn. Tôi quay lại và dùng eo và hông để lăn đúng ba lần tới lúc trôi vào bờ, gần một cái khăn xanh tơi tả. Họ để khăn lại cho tôi. Ân cần chưa kìa.

Nước thấm xuống băng dính và nới lỏng dây siết trên da, nhưng băng quấn quanh người tôi thành ba lớp chặt thít, buộc tôi phải giãy giụa như cá mắc cạn. Cuối cùng nó cũng giãn đủ để tôi trượt tay trái ra khỏi ngực và xé toạc lớp băng.

Tôi quấn cái khăn đầy cát quanh người. Tôi không muốn về phòng và gặp Chip, vì tôi không rõ ý của Kevin là gì—có thể nếu tôi về phòng, họ sẽ chờ và xử tử tôi thật; có lẽ tôi cần phải cho họ thấy, “Được. Tao hiểu rồi. Nó chỉ là bạn cùng phòng, không phải bạn tao.” Mà dù sao, tôi cũng không thấy thân thiết mấy với Đại Tá. Chúc vui, gã đã nói. Ờ, tôi nghĩ. Vui dữ thần.

Nên tôi đến phòng Alaska. Tôi không biết lúc đó là mấy giờ, nhưng tôi có thể thấy ánh đèn lờ mờ bên dưới cửa phòng. Tôi gõ nhè nhẹ.

“Đây,” cô ấy cất tiếng, và tôi bước vào, ướt như chuột lột và lấm lem cát và trên người chỉ có mỗi cái khăn cùng quần lót ướt nhẹp. Rõ ràng đây không phải cách bạn muốn cô nàng nóng bỏng nhất thế giới nhìn thấy bạn, nhưng tôi đoán cô ấy có thể giải thích cho tôi chuyện gì vừa xảy ra.

Cô ấy đặt sách xuống và ra khỏi giường với tấm mền quấn quanh vai. Trong thoáng chốc, trông cô có vẻ lo lắng. Cô ấy giống như cô gái tôi đã gặp hôm qua, cô gái đã khen tôi dễ thương và tràn đầy sự sống và sự ngây ngô và thông thái. Rồi cô ấy bật cười.

“Mình đoán cậu vừa đi bơi hử?” và cô ấy nói thế với sự cay độc thản nhiên đến mức tôi tưởng mọi người đều đã biết, và tôi tự hỏi sao cái trường quái quỷ này lại đồng ý nhấn chìm Miles Halter trước với nhau. Nhưng Alaska thích Đại Tá, và trong phút giây bối rối, tôi chỉ đờ đẫn nhìn cô, thậm chí không biết phải hỏi gì.

“Cho mình xin đi,” cô ấy nói. “Thôi nào. Cậu biết gì không? Có người gặp rắc rối thật sự đấy. Mình gặp rắc rối thật sự đấy. Mẹ cậu không có ở đây đâu, nên ráng chịu đi, ông tướng.”

Tôi đi mà không nói một lời với cô ấy và trở về phòng, dập cửa sau lưng, đánh thức Đại Tá, đoạn giậm chân vào phòng tắm. Tôi vào đấy để gột rửa tảo và nước hồ khỏi người, nhưng cái vòi hoa sen lố lăng vô dụng quá thể, và tại sao Alaska và Kevin và mấy tên kia chưa gì đã ghét tôi? Sau khi tắm xong, tôi lau khô người và vào phòng tìm quần áo. “Thế,” gã nói. “Mày làm gì lâu vậy? Lạc đường à?”

“Họ nói là tại mày,” tôi đáp, giọng không giấu nổi vẻ bực tức. “Họ nói tao không nên chơi với mày.”

“Cái gì? Không, ai cũng bị vậy hết,” Đại Tá nói. “Tao bị rồi. Tụi nó ném mày xuống hồ. Mày bơi ra. Mày đi bộ về.”

“Tao đâu có bơi dễ vậy,” tôi khẽ nói, kéo quần soóc jean mặc bên dưới khăn. “Họ quấn người tao bằng băng keo. Tao cử động còn không nổi, thiệt đó.”

“Khoan. Khoan,” gã nói, rồi nhảy khỏi giường, nhìn chằm chằm tôi trong bóng tối. “Tụi nó quấn băng keo mày? Như thế nào?” và tôi cho gã thấy: Tôi đứng như xác ướp, hai chân chụm vào nhau và hai tay ép sát sườn, và cho gã thấy họ quấn người tôi ra sao. Rồi tôi ngã phịch xuống ghế.

“Quỷ thần ơi! Mày có thể chết đuối! Tụi nó chỉ được quăng mày xuống nước với cái quần lót rồi chạy thôi!” gã hét lên. “Tụi nó nghĩ cái quỷ gì vậy? Là ai? Kevin Richman rồi ai nữa? Mày nhớ mặt tụi nó không?”

“Có, tao nghĩ thế.”

“Tụi nó chơi vậy làm quái gì nhỉ?” gã thắc mắc.

“Mày có làm gì tụi nó không?” tôi hỏi.

“Không, nhưng giờ tao chắc như đinh đóng cột là có. Chúng ta sẽ trả đũa tụi nó.”

“Không có gì nghiêm trọng đâu. Tao thoát ra được rồi.”

“Mày có thể đã chết." Và tôi đoán là đúng. Nhưng tôi đã không chết.

“Chà, có lẽ ngày mai tao chỉ cần tới gặp Đại Bàng và méc ổng,” tôi nói.

“Tuyệt đối không được,” gã trả lời. Gã đi tới chỗ cái quần soóc nhàu nhĩ trên sàn và lôi ra một gói thuốc. Gã đốt hai điếu và đưa tôi một điếu. Tôi hút hết cái quỷ đó. “Mày sẽ không làm thế,” gã nói tiếp, “vì đấy không phải cách xử lý rắc rối ở đây. Với lại, mày không muốn mang tiếng mách lẻo đâu. Nhưng chúng ta sẽ xử lũ khốn đó, Bé Bự. Tao hứa với mày. Tụi nó sẽ hối hận vì đã bắt nạt một trong số bạn bè của tao.”

Và nếu Đại Tá nghĩ rằng gọi tôi là bạn sẽ khiến tôi theo phe gã, thì, ờ, gã đã đúng. “Tối nay Alaska hơi thô lỗ với tao,” tôi nói. Tôi ngả người về trước, mở một ngăn bàn trống và dùng tạm nó như gạt tàn.

“Tao nói rồi, nó ẩm ương lắm.”

Tôi mặc áo thun, quần soóc và mang vớ đi ngủ. Không cần biết trời nóng thế nào, tôi đã quyết tâm, tôi sẽ mặc quần áo đi ngủ mỗi đêm ở Creek, cảm thấy—chắc là lần đầu tiên trong đời—sợ hãi và phấn khích khi sống ở