← Quay lại trang sách

một trăm hai mươi hai ngày trước

SAU LỚP HỌC CUỐI CÙNG trong tuần đầu tiên ở Culver Creek, tôi bước vào Phòng 43 và bắt gặp một cảnh tượng hiếm thấy: Đại Tá nhỏ con đang ở trần, gã lom khom trên tấm ván ủi quần áo, giày vò một cái áo sơ-mi màu hồng có nút cài ở cổ. Mồ hôi chảy dài từ trán và ngực gã trong lúc gã hì hụi ủi áo, tay phải gã đẩy cái bàn ủi dọc theo chiều dài áo bằng một sự hăng say quyết liệt, khiến hơi thở của gã gần như giống hệt Tiến sĩ Hyde.

“Tao có một cuộc hẹn,” gã giải thích. “Đây là trường hợp khẩn cấp.” Gã dừng lại để lấy hơi. “Mày biết”—thở dốc—“ủi quần áo không?”

Tôi đi đến chỗ cái áo màu hồng. Nó nhăn nhúm như một bà già đã phơi nắng cả thời thanh xuân. Phải chi Đại Tá không vo tròn tất cả mọi thứ và nhét đại chúng vào mấy ngăn tủ. “Tao nghĩ mày chỉ bật nó lên và đè nó lên áo thôi, phải không?” tôi nói. “Tao không biết. Tao thậm chí còn không biết tụi mình có một cái bàn ủi nữa là.”

“Đâu ra. Của thằng Takumi đấy. Nhưng nó cũng chẳng biết ủi áo. Và khi tao hỏi Alaska, con nhỏ bắt đầu la hét, ‘Cậu không được giở cái thói gia trưởng ấy với mình.’ Ôi, lạy Chúa, tao cần hút thuốc. Tao cần hút thuốc, nhưng người tao không thể bốc mùi khi ra mắt bố mẹ Sara. Được, thây kệ. Chúng ta sẽ hút thuốc trong phòng tắm và mở vòi sen lên. Vòi có hơi nước. Hơi nước làm mất vết nhăn đúng không?

"Nhân tiện,” gã nói trong lúc tôi theo gã vô phòng tắm, “nếu mày muốn hút thuốc vào ban ngày, cứ bật vòi sen lên. Khói sẽ theo hơi nước bay ra lỗ thông hơi.”

Dù điều này nghe hơi sai về mặt khoa học, nó có vẻ hiệu quả. Áp suất nước thiếu hụt và vòi sen thấp lè tè làm phòng tắm trở nên vô dụng trong việc tắm rửa, nhưng dùng làm bình phong thì chuẩn khỏi chê.

Khốn khổ thay, nó lại là một cái bàn ủi tệ hại. Đại Tá cố ủi cái áo thêm lần nữa (“Tao sẽ đẩy thật mạnh xem có đỡ chút nào không”) và cuối cùng vẫn mặc nó trong tình trạng nhăn nheo. Gã thắt một chiếc cà-vạt màu xanh dương với họa tiết chim hồng hạc nằm ngang để phối với cái áo.

“Điều duy nhất ông bố cùi bắp của tao dạy,” Đại Tá nói trong khi hai tay thoăn thoắt đan cài chiếc cà-vạt thành một nút thắt hoàn hảo, "là cách thắt cà-vạt. Kì quặc nhỉ, vì tao không thể tưởng tượng ra có dịp nào ổng phải thắt cà-vạt hết.”

Ngay lúc đó, Sara gõ cửa. Tôi đã thấy cô gái một hoặc hai lần trước đó, nhưng Đại Tá chưa bao giờ giới thiệu tôi với cổ và đêm ấy gã cũng không có dịp.

“Ôi Chúa ơi. Anh không ủi được cái áo sao?” cổ vặn vẹo, dù Đại Tá đang đứng trước tấm ván ủi. “Tụi mình sắp đi chơi với bố mẹ em.” Sara trông tuyệt đẹp trong bộ váy mùa hè màu xanh. Mái tóc dài hoe vàng được cột lên thành búi, với một lọn tóc buông xõa ở hai bên. Nhìn cổ như một siêu sao—một cô nàng đỏng đảnh.

“Nghe này, anh cố hết sức rồi. Không phải ai cũng có hầu gái ủi đồ giùm đâu.”

“Chip, cái kiểu ăn nói hoạnh họe ấy làm anh lùn hơn đó.”

“Quỷ thần ơi, tụi mình có thể ra cửa mà không cãi nhau không?”

“Em nói vậy thôi. Là một vở opera đấy. Nó rất quan trọng với bố mẹ em. Mà sao cũng được. Đi thôi.” Tôi muốn lánh đi, nhưng trốn trong nhà tắm nghe hơi tồ, và Sara đang đứng án ở cửa, một tay chống hông, một tay nghịch chìa khóa xe như thể muốn nói, Đi thôi.

“Anh có thể mặc tuxedo và bố mẹ em vẫn sẽ ghét anh!” gã hét lên.

“Không phải lỗi của em! Do anh chọc tức họ!” Đoạn cổ giơ chìa khóa xe trước mặt gã. “Được rồi, hoặc ta đi ngay bây giờ hoặc không đi đâu cả.”

“Cóc cần. Tôi không đi đâu với cô hết,” Đại Tá độp lại.

“Ổn thôi. Buổi tối tốt lành.” Sara đập cửa mạnh đến nỗi cuốn tiểu sử Leo Tolstoy cỡ lớn của tôi (lời trăng trối của ổng: “Sự thật là... ta quan tâm rất nhiều... đến những gì họ...”) rớt khỏi kệ sách và rơi bịch xuống sàn nhà kẻ ca-rô, tựa như tiếng vọng của cánh cửa đóng sầm.

“AAAAAA!!!!!!!!!!!” gã gào to.

“Ra đấy là Sara,” tôi nói.

“Ờ.”

“Nom tốt tính dữ.”

Đại Tá bật cười, gã quì xuống kế tủ lạnh mini và lôi ra một bình gần bốn lít sữa. Gã mở nắp, nhấp một ngụm, nhăn mặt, ho mấy tiếng, rồi ngồi xuống sofa với bình sữa kẹp giữa hai chân.

“Sữa chua rồi hay sao?”

“Ồ, đáng ra tao phải nói sớm hơn. Đây không phải sữa. Nó là hỗn hợp năm phần sữa và một phần vodka. Tao gọi nó là ambrosia. Thức uống thần thánh. Mày không ngửi ra mùi vodka trong sữa, nên Đại bàng không thể bắt tội tao trừ phi ổng uống thử một ngụm. Khuyết điểm của nó là có vị như sữa chua và cồn tẩy rửa, nhưng giờ là tối thứ sáu, Bé Bự ạ, và bạn gái tao là một con quỷ cái. Mày uống không?”

“Tao xin kiếu.” Ngoại trừ vài ngụm sâm-panh mừng Năm Mới dưới sự giám sát chặt chẽ của cha mẹ, tôi thật sự chưa bao giờ uống thứ nước có cồn nào, và “ambrosia” dường như không phải loại đồ uống thích hợp để khởi đầu. Bên ngoài, tôi nghe tiếng bốt điện thoại reng. Tôi thấy ngạc nhiên trước tần suất hiếm hoi của nó, trong khi chỉ có năm bốt điện thoại chia cho 190 đứa học sinh. Chúng tôi không được dùng điện thoại di động, nhưng tôi để ý vài đứa Chiến Binh Ngày Thường lén mang theo. Và hầu hết những đứa không-phải-Chiến-Binh gọi cha mẹ của chúng khá thường xuyên, như tôi, nên các bậc phụ huynh chỉ gọi khi con của họ quên mất.

“Mày không bắt máy à?” Đại Tá hỏi tôi. Tôi không thích bị gã ra lệnh, nhưng tôi cũng không có hứng đánh nhau.

Qua cảnh tranh tối tranh sáng chớp nháy, tôi đi bộ đến bốt điện thoại, nó được khoan vào tường giữa Phòng 44 và 45. Ở hai bên là một tá những số điện thoại và ghi chú riêng tư được viết bằng bút bi và bút lông (205. 555.1584; Tommy đến sân bay 4:20; 773. 573. 6521; ỊG—KuJfs?). Bạn phải thật kiên nhẫn để gọi tới số điện thoại trả tiền. Tôi bắt máy sau tiếng reng thứ chín.

“Cậu bảo Chip đến hộ tôi được không?’’ Sara hỏi. Nghe như cổ đang dùng điện thoại di động.

“Ờ, chờ chút.”

Tôi quay lại, và gã đã ở ngay sau lưng, như thể gã biết trước rằng đấy là cổ. Tôi đưa gã ống nghe rồi đi về phòng.

Một phút sau, một câu gồm năm từ vọng tới phòng chúng tôi qua bầu không khí dày đặc, yên tĩnh ở Alabama vào sập tối. “Cô cũng tồi chẳng kém!” Đại Tá hét lên.

Gã trở về phòng, ngồi xuống với bình ambrosia và bảo tôi, “Cổ nói tao mách lẻo thằng Paul với con Marya. Đấy là những gì tụi Chiến Binh kháo nhau. Rằng tao mách lẻo tụi nó. Tao. Đấy là lí do có nước tiểu trong giày. Đấy là lí do bọn nó suýt giết mày. Vì mày ở với tao, và tụi nó gọi tao là thằng phản bội.”

Tôi cố nhớ xem Paul và Marya là ai. Hai cái tên quen quen, nhưng tôi đã nghe quá nhiều tên trong suốt tuần qua, và tôi không thể gán cho “Paul” và “Marya” một khuôn mặt nào cả. Đoạn tôi hiểu ra: Tôi chưa bao giờ gặp họ. Họ bị đuổi học năm ngoái vì phạm phải Tam Tội.

“Mày quen cổ bao lâu rồi?” Tôi hỏi.

“Chín tháng. Tụi tao chưa bao giờ hòa thuận. Ý tao là, tao còn chẳng thích cổ tẹo nào. Kiểu, bố mẹ tao ấy, bố tao sẽ tức giận, rồi ổng sẽ đánh mẹ tao dã man. Xong ổng sẽ lại vui vẻ, và họ sẽ có một giai đoạn như kì trăng mật. Nhưng tao chưa từng có một kì trăng mật với Sara. Quỷ thần ơi, sao cổ có thể nghĩ tao là một thằng phản bội chứ? Tao biết, tao biết: Sao tụi tao không chia tay đi?” Gã đưa tay vò tóc, nắm một nhúm trên đầu, rồi bảo, “Tao đoán tao ở bên cổ vì cổ ở bên tao. Và đấy không phải một điều dễ dàng. Tao là một thằng bạn trai tồi, cổ là một cô bạn gái tồi. Chúng tao rất xứng với nhau."

“Nhưng…”

“Tao không thể tin là tụi nó nghĩ như thế,” gã nói trong lúc đi đến kệ sách và lôi cuốn niên giám ra. Gã hớp một ngụm lớn ambrosia. “Lũ Chiến Binh Ngày Thường chết tiệt. Chắc chắn một trong số chúng đã mách lẻo Paul và Marya rồi đổ cho tao để giấu tội. Thôi kệ, đêm nay rất tốt để ở nhà. Ở nhà với Bé Bự và ambrosia.”

“Tao vẫn…” tôi lên tiếng, muốn nói rằng tôi không hiểu sao gã có thể hôn một người đã tin rằng gã là kẻ phản bội vốn là điều tệ hại nhất thế gian, nhưng Đại Tá đã ngắt lời tôi.

“Mày đừng nói về chuyện này nữa. Mày biết thủ đô của Sierra Leone là gì không?”

“Không.”

“Tao cũng thế,” gã bảo, “nhưng tao định sẽ tìm ra.” Và chỉ vậy, gã chúi mũi xuống cuốn niên giám, và cuộc nói chuyện kết thúc.

một trăm mười ngày trước

CHUYỆN THEO KỊP BÀI VỞ hóa ra dễ hơn tôi tưởng. Khuynh hướng ngồi nhà đọc sách của tôi rốt cuộc lại đem đến lợi thế khác biệt so với một học sinh trung bình ở Culver Creek. Tầm tuần thứ ba trông trường, khá nhiều đứa đã bị cháy nắng thành vàng nâu như món burri-chién sau những ngày buôn chuyện ngoài trời trong giờ tự học ngoài sân kí túc xá không bóng râm. Nhưng da tôi còn chả thèm hồng lên: Tôi ngồi học trong phòng.

Và tôi lắng nghe bài giảng nữa, nhưng sáng hôm thứ tư ấy, khi Tiến sĩ Hyde khới sự nói về việc những người theo đạo Phật tin rằng, tất cả mọi thứ đều có liên quan đến nhau, tôi lại đang nhìn ra ngoài của sổ. Tôi đang nhìn về ngọn đồi rậm rạp, thoai thoải bên kia hồ. Và từ lớp học của ông Hyde, cảnh vật có vẻ gắn kết với nhau: Những hàng cây bao trùm ngọn đồi, và hệt như lúc tôi không nhận ra sợi chỉ mảnh vắt ngang cái áo ba lỗ ôm sát người mà Alaska mặc hôm đó, tôi lại càng khó trông rõ từng hàng cây giữa cả cánh rừng rậm rạp, tất cả đan xen vào nhau một cách phức tạp đến nỗi không lí nào có thể phân biệt được một cái cây tách biệt khỏi ngọn đồi. Đoạn tôi nghe thấy tên mình, và tỏi biết mình đang gặp rắc rối.

“Cậu Halter,” Ông già nói. “Tôi ở đây, gào nát phổi để cậu mở mang đầu óc. Vậy mà hình như thứ gì đó ngoài kia đã khiến cậu mê mẩn theo cách mà tôi không thế làm. Nói tôi nghe: Cậu đã phát hiện điều gì ngoài ấy?”

Giờ tôi thấy hơi thở mình đứt quãng, cả lớp chăm chú nhìn theo, tạ ơn Chúa vì họ không phải là tôi. Tiến Sĩ Hyde đã làm điều này ba lần, đá đít học sinh khỏi lớp vì không chú ý nghe giảng hoặc chuyền thư cho nhau.

“Ưm, em chỉ nhìn ra, ưm, ngọn đồi ở ngoài và nghĩ về, ưm, cây và rừng, như thầy vừa giảng, về cách…”

Ông Già, rõ ràng không chịu được kiểu phát âm lúng búng, cắt ngang lời tôi. “Tôi sẽ phải yêu cầu cậu ra khỏi lớp, cậu Halter, để cậu được ra ngoài và khám phá mối quan hệ giữa ưm-cây và ưm-rừng. Và ngày mai, khi cậu sẵn sàng học môn này một cách nghiêm túc, tôi sẽ chào đón cậu trở lại.”

Tôi ngồi yên, bút cầm trên tay, tập chép bài mở toang, mặt tôi đỏ lừ và cằm tôi nhô ra như bị móm, một mẹo cũ tôi học được để trông không rầu rĩ hay lo sợ. Tôi nghe tiếng ghế di chuyển ở hai hàng phía sau và quay lại để thấy Alaska đứng dậy, quàng ba-lô qua một bên vai.

“Em xin lỗi, nhưng thật vớ vẩn. Thầy không thể đuổi cậu ấy ra khỏi lớp. Thầy luyên thuyên suốt một tiếng liền mỗi ngày, và chúng em không được phép nhìn ra ngoài cửa sổ?”

Ông già nhìn Alaska như con bò nhìn đấu sĩ, rồi đưa tay lên khuôn mặt chảy xệ của mình và chầm chậm xoa đám râu bạc lởm chởm trên má. “Năm mươi phút một ngày, năm ngày một tuần, các em phải tuân theo luật của tôi. Hoặc các em sẽ rớt môn. Lựa chọn là của các em. Giờ cả hai ra ngoài đi.”

Tôi nhét tập vào ba-lô và bước ra, cảm thấy xấu hổ. Sau khi cửa đóng lại, có người vỗ vai trái của tôi. Tôi quay lại, nhưng không có ai cả. Rồi tôi quay sang hướng đối diện, và Alaska đang cười với tôi, lớp da giữa mắt và thái dương kéo thành hình ngôi sao tỏa sáng. “Chiêu trò cũ rích,” cô ấy nói, “nhưng ai cũng mắc lừa.”

Tôi gượng cười, nhưng tôi không thể thôi nghĩ về Tiến sĩ Hyde. Chuyện này còn tệ hơn Sự Cố Băng Dính, vì tôi biết thừa mấy thằng Kevin Richman trên thế giới không ưng tôi. Nhưng các giáo viên của tôi luôn là thành viên mang thẻ của Hội Những Người Hâm Mộ Miles Halter.

“Mình đã bảo cậu ông ta đáng ghét lắm mà,” cô ấy nói.

“Mình vẫn nghĩ ổng là thiên tài. Ổng nói đúng. Mình đã không nghe giảng.”

“Phải, nhưng ổng đâu cần khó chịu như vậy. Bộ ổng cần làm nhục cậu để chứng tỏ uy quyền à!? Dù sao đi nữa,” cô ấy tiếp tục, “thiên tài thực thụ là những tác giả: Yeats, Picasso, García Márquez: thiên tài. Tiến sĩ Hyde: một ông già chua chát.”

Đoạn cô ấy tuyên bố chúng tôi sẽ đi tìm cỏ bốn lá đến khi tiết học kết thúc và chúng tôi có thể đi hút thuốc với Đại Tá và Takumi, “mà cả hai,” cô đế thêm, “đều là bọn cùi bắp vì đã không bỏ ra khỏi lớp ngay sau chúng ta.”

Khi Alaska Young ngồi khoanh chân rồi cúi người về phía trước trên một trảng cỏ ba lá mỏng manh và xanh mướt theo mùa, để lộ làn da nhợt nhạt quanh bộ ngực cỡ bự, xét về mặt tâm lý con người mà nói thì rõ là tôi không thể tham gia tìm kiếm cùng cô ấy được. Tôi đã gặp đủ rắc rối vì nhìn vào những chỗ không nên rồi, nhưng mà...

Sau chừng hai phút cào xới xuyên trảng cỏ với mười đầu móng tay thon dài nhuốm bẩn, Alaska tóm lấy một ngọn cỏ với ba lá to tròn và một lá thứ tư nhỏ xíu, còi cọc rồi ngẩng lên nhìn tôi, không kịp để tôi dời mắt ra chỗ khác.

“Dù rõ ràng cậu không giúp gì trông việc tìm cỏ bốn lá, đồ dê xồm,” cô ấy thản nhiên nói, “mình vẫn sẽ cho cậu ngọn cỏ này. Ngoại trừ chuyện may mắn chỉ dành cho lũ dở hơi.” Cỏ ấy kẹp cái lá nhỏ giữa móng ngón cái và ngón trỏ rồi ngắt nó. “Xong,” cô nói với ngọn cỏ trông lúc thả nó rơi xuống đất. “Giờ cậu không còn là một thằng lập dị bẩm sinh nữa.”

“Ừm, cảm ơn,” tôi đáp. Chuông vang lên, và Takumi và Đại Tá lao ra khỏi cửa trước tiên. Alaska nhìn họ chằm chặp.

“Gì?” Đại Tá hỏi. Nhưng cô ấy chỉ đảo mắt và bắt đầu rảo bước. Chúng tôi lặng lẽ theo sau đến hết kí túc xá rồi băng qua sân bóng. Cả bọn chui vào rừng, lần theo lối đi mờ nhạt quanh hồ tới khi đụng phải đường đất. Đại Tá bắt kịp Alaska, và họ bắt đầu cãi nhau về chuyện gì đó khẽ khàng đến nỗi tôi không nghe ra từ nào ngoài vẻ bực tức lẫn nhau, sau cùng tôi mới hỏi Takumi chúng tôi đang đi đâu.

“Đường này dẫn tới chuồng bò,” cậu ta nói. “Nên có thể là nơi đó. Nhưng chắc là trũng hút thuốc. Rồi mày sẽ thấy.”

Ở đây, rừng cây là thứ hoàn toàn khác hẳn lúc nhìn từ lớp học của Tiến Sĩ Hyde. Mặt đất dày đặc những nhánh cây gãy, lá thông thối rữa cùng bụi xanh đầy gai; lối đi uốn quanh những hàng thông cao lớn, khẳng khiu, mấy tán lá tua rua của chúng tạo thành bóng rám lỗ chỗ tránh ngày nắng gắt. Và những cây sồi và cây thích nhỏ hơn, cứ tưởng vô hình bên dưới tàn thông oai nghiêm khi nhìn từ phòng học, cho thấy dấu hiệu của mùa thu khó đoán: Những chiếc lá còn xanh của chúng đã bắt đầu rủ xuống.

Chúng tôi đến một cây cầu gỗ ọp ẹp, chỉ là tấm ván dày lót trên nền bê-tông bắc ngang Culver Creek, con lạch uốn lượn bên dưới chảy vòng vèo quanh khu ngoại ô của khuôn viên. Ở phía xa cây cầu, có một lối đi tí hon dẫn xuống một triền dốc. Nó thậm chí còn không giống một lối đi ngoài loạt dấu hiệu cành cây bị gãy ở đây, một vạt cỏ bị đạp ở kia là trước đây từng có người đi qua. Trong lúc lần lượt đi xuống, Alaska, Đại Tá và Takumi đều cầm lấy một cành cây thích, chuyền cho nhau đến khi tôi, kẻ cuối cùng trông hàng, bẻ gãy nó rồi quăng ra phía sau. Và kia, bên dưới cây cầu, là một ốc đảo. Một phiến bê-tông mỏng, rộng một mét dài ba mét, với những cái ghế nhựa màu xanh bị lấy cắp từ một phòng học nào đó rất lâu về trước. Được con lạch và bóng râm của cây cầu làm mát, lần đầu tiên trông suốt nhiều tuần liền, tôi mới thấy đỡ nóng.

Đại Tá mời thuốc. Takumi từ chối; hai đứa còn lại châm lửa.

“Ý mình là ổng không có quyền lên giọng với tụi mình,” Alaska nói, tiếp nối cuộc trò chuyện với Đại Tá. “Bé Bự đã thôi nhìn ra ngoài cửa sổ, và mình đã thôi chửi rủa ổng, nhưng ổng là một thầy giáo tồi, và cậu không thể thuyết phục mình nghĩ khác.”

“Được,” Đại Tá bảo. “Nhưng đừng gây chuyện nữa. Lạy Chúa, cậu suýt giết lão già tội nghiệp ấy đấy.”

“Thiệt luôn, cậu không bao giờ thắng khi chống đối ông Hyde đâu,” Takumi góp lời. “Ông sẽ ăn tươi nuốt sống cậu, thải cậu ra, rồi tè lên bãi phân. Nhân tiện, đó vốn là thứ chúng ta nên làm với cái đứa bán đứng Marya. Có ai nghe gì không?”

“Chắc là đứa Chiến Binh Ngày Thường nào đó,” Alaska nói. “Nhưng rõ ràng tụi nó nghĩ thủ phạm là Đại Tá. Nên ai mà biết. Có lẽ Đại Bàng chỉ gặp may. Nhỏ đó quá ngu; nó bị bắt; bị đuổi học; xong đời. Đấy là những gì sẽ xảy ra khi cậu ngu ngốc và bị bắt.” Alaska cong môi thành hình chữ o, cử động miệng như con cá vàng đớp mồi, cố gắng thổi vòng khói mà chẳng được.

“Oa,” Takumi nói, “nếu sau này tôi bị đuổi học, nhớ nhắc tôi tự lực cánh sinh nhé, vì tôi chắc chắn không nhờ vả gì cậu được.”

“Đừng có điên,” cô ấy đáp, không hẳn tức giận mà có vẻ gạt ngang. “Mình không hiểu vì sao cậu lại ám ảnh với chuyện tìm hiểu mọi việc đang diễn ra ở đây đến vậy, như thể chúng ta phải làm sáng tỏ tất cả bí ẩn. Lạy Chúa, xong rồi, Takumi, cậu thôi cái trò đánh cắp rắc rối của người khác và tự tạo vài cái cho chính mình đi.” Takumi định mở miệng lần nữa, nhưng Alaska giơ tay như muốn gạt bỏ câu chuyện.

Tôi không nói gì, tôi không biết Marya, với lại, “yên lặng lắng nghe” là chiến thuật ngoại giao phổ biến của tôi.

“Dù sao thì,” Alaska nói với tôi. “Mình nghĩ cách ổng đối xử với cậu thật tệ lậu. Mình muốn khóc luôn. Mình chỉ muốn hôn cậu và giúp cậu thấy khá hơn.”

“Buồn là cậu đã không làm thế,” tôi thản nhiên nói, và họ bật cười

“Cậu đáng yêu quá,” cô ấy nói, và tôi cảm nhận được ánh nhìn mãnh liệt của cô và bối rối quay đi. “Tiếc quá, mình yêu bạn trai mình.” Tôi nhìn chằm chằm vào đống rễ cây chằng chịt bên bờ lạch, cố tỏ vẻ như mình không vừa được gọi là đáng yêu.

Takumi cũng không tin, và cậu ta đi đến chỗ tôi, đưa tay vò tóc tôi, và bắt đầu đọc rap cho Alaska nghe. “Ừa, Bé Bự rất đáng yêu/ Nhưng cậu thích quái chiêu / Nên Jake mới dễ chịu/ Vì cậu ta rất chết tiệt. Chết tiệt. Suýt nữa mình có bốn từ vần với đáng yêu rồi. Nhưng tất cả những gì mình nghĩ được là đàng điệu, mà nó thậm chí còn không phải một từ.”

Akska bật cười. “Cậu làm mình hết giận rồi. Chúa ơi, đọc rap gợi tình phết. Bé Bự, cậu có biết mình đang ở cùng em-xi đỉnh nhất bang Alabama chưa?”

“Ưm, không.”

“Nổi nhạc lên, Đại Tá Tai Ương,” Takumi hô vang, và tôi bật cười trước ý nghĩ một gã thấp bé và ngớ ngẩn như Đại Tá cũng có nghệ danh rap. Đại Tá khum tay đặt lên miệng và bắt đầu tạo ra mấy âm thanh lô bịch mà tôi đoán là nhạc miệng. Bình-bịch. Bình-bìnhbình-bịch.Takumi cười phá lên.

“Bên bờ sông hôm nay, cậu muốn thấy tôi chứng tỏ?/ Nếu làn khói là que kem, thì tôi sẽ liếm nó/ Tôi đặt vần lạc hậu tựa người La Mã thuở hồng hoang/ Đại Tá bắt nhịp buồn như Arthur Miller viết về Willy Loman/ Đôi khi tôi bị gọi là một ông bầu đa đoan/ Tôi có thể rap nhanh và rap chậm, thưa ông bạn.”

Cậu ta dừng lại, hít một hơi, rồi kết thúc.

“Như Emily Dickinson, tôi không sợ vần méo/ Và đấy là kết thúc của đoạn này, em-xi xin chốt kèo.”

Tôi không biết phân biệt vần méo với vần thường, nhưng tôi đại để cũng ấn tượng. Chúng tôi khẽ vỗ tay hoan hô Takumi. Alaska hút hết điếu thuốc và búng nó ra sông. “Sao cậu hút nhanh dữ vậy?” tôi hỏi.

Cô ấy nhìn tôi cười toe toét, và nụ cười toe toét trên khuôn mặt thon gọn của cô đáng lẽ đã trông thật dở hơi nếu không phải vì màu xanh lục bảo thanh tao tuyệt mĩ trong đôi mắt. Cô ấy cười với tất cả sự hào hứng của một đứa trẻ vào buổi sáng Giáng Sinh và nói, “Các cậu hút để thưởng thức. Mình hút để chết.”

một trăm lẻ chín ngày trước

BỮA TỐI Ở CĂN-TIN vào hôm sau là thịt bò xay nướng xốt cà chua, một trong những món hiếm có không bị chiên ngập dầu, và, có lẽ bởi vì vậy mà nó là thất bại ê chề nhất của Maureen, một hỗn hợp dai nhách đẫm nước xốt có hình dạng và mùi vị chẳng giống thịt bò chút nào. Alaska có một chiếc xe, dù tôi chưa bao giờ ngồi vào đấy, và cô ấy đề nghị chở tôi và Đại Tá đến McDonald’s, nhưng Đại Tá hết sạch tiền, và tôi cũng không có bộn, tại tôi phải liên tục trả cho thói quen hút thuốc xa hoa của gã.

Nên thay vào đó Đại Tá và tôi hâm lại món burri-chiên đã để qua hai ngày. Khác với, ví dụ, khoai tây chiên, một cuốn burri-chiên hâm nóng không hề đánh mất hương vị cũng như độ giòn đã đời của nó sau đó đã khiến Đại Tá khăng khăng đòi đến xem trận bóng rổ đầu tiên trong mùa giải của Creek.

“Bóng rổ vào mùa thu?” tôi hỏi Đại Tá. “Tao không rành về thể thao lắm, nhưng không phải đấy là lúc chơi bóng bầu dục sao?”

“Mấy trường trong liên đoàn của chúng ta quá nhỏ không lập thành đội bóng bầu dục được, nên chúng ta chơi bóng rổ vào mùa thu. Mặc dù, bạn tao ơi, đội bóng bầu dục của Culver Creek chắc chỉ để trưng cho có. Cái thằng ốm yếu nhà mày biết đâu sẽ được vào đội hình chính thức. Nói chung là, mấy trận bóng rổ tuyệt lắm.”

Tôi ghét thể thao. Tôi ghét thể thao, và tôi ghét những kẻ chơi chúng, và tôi ghét những kẻ xem chúng, và tôi ghét những kẻ không ghét kẻ xem hoặc chơi chúng. Năm tôi học lớp ba, năm cuối cùng bạn còn chơi bóng mềm, mẹ tôi muốn tôi kết bạn, nên bà ép tôi tham gia câu lạc bộ Cướp Biển Orlando. Đúng là tôi đã kết bạn với một đám nhóc mẫu giáo, mà điều này chẳng thể nâng cấp địa vị xã hội của tôi với bạn cùng trang lứa. Năm ấy suýt nữa thì tôi được vào đội siêu-sao bóng mềm, chủ yếu vì tôi cao hơn hẳn mấy tuyển thủ còn lại. Thằng nhóc chiếm chỗ tôi, Clay Wurtzel, chỉ có một tay. Tôi là một đứa lớp ba cao vượt trội đầy đủ hai tay, và tôi bị đánh bại bởi thằng mẫu giáo Clay Wurtzel. Và hoàn toàn không phải vì lòng thương hại một thằng bé khuyết tật. Clay Wurtzel đánh bóng rất tốt, trong khi thi thoảng tôi còn đánh hụt trái bóng vẫn còn nằm trên cột phát. Một trong những lý do khiến tôi hứng thú với Culver Creek nhất là cha bảo đảm với tôi rằng họ không yêu cầu về thể lực.

“Chỉ có duy nhất một lần tao gạt bỏ nỗi căm thù cháy bỏng của mình với lũ Chiến Binh Ngày Thường, và câu lạc bộ đồng quê chết giẫm của tụi nó,” Đại Tá bảo tôi. “Và đấy là khi chúng nó bật điều hòa trong phòng thể dục cho một trận đấu bóng rổ lỗi thời kiểu Culver Creek. Mày không được bỏ lỡ trận đấu đầu tiên của năm.”

Trông lúc đi tới phòng thể dục rộng như nhà để máy bay, tôi đã thấy nhưng chưa bao giờ nghĩ chuyện đến gần, Đại Tá giải thích cho tôi điều quan trọng nhất về đội bóng rổ của trường: Họ chơi không giỏi lắm. ‘‘Ngôi Sao”của cả đội, Đại Tá bảo, là một đàn anh lớp mười hai tên Hank Walsten, chơi ở vị trí tiền đạo chính dù chỉ cao một mét bảy mươi hai. Nguyên do chủ yếu Hank nổi tiếng khắp trường, tôi đã biết trước, là anh ta luôn phê cỏ, và Đại Tá kể rằng suốt bốn năm liền, Hank chưa bao giờ bắt đầu một trận nào trong trạng thái tỉnh táo.

“Nó nghiện cỏ như Alaska nghiện làm tình,” Đại Tá so sánh. “Đấy là thằng cha đã chế tạo tẩu hút cần chỉ bằng nòng súng hơi, một trái lê chín, và một tấm ảnh Anna Kournikova giấy bóng cỡ tám-mươi. Một tên ngu độn, nhưng mày phải ngưỡng mộ lòng tận tụy sắt son của thằng cha với màn chơi thuốc quá liều.”

Từ Hank, Đại Tá tiếp tục, bạn cứ đếm xuống đến khi đụng Wilson Carbod, tuyển thủ trung phong, cao tầm một mét tám hai. “Trường này tệ vãi,” Đại Tá chê bôi, “chúng ta thậm chí còn không có linh vật. Tao gọi cả bọn là Culver Creek Vô Danh.”

“Vậy là họ chơi rất dở?” tôi hỏi. Tôi không hiểu rõ ý nghĩa của việc xem đội bóng kém tắm của mình bị đánh bại, dù dàn máy điều hòa đã đủ làm lí do cho tôi.

“Ờ, dở lắm,” Đại Tá đáp lời. Nhưng chúng ta luôn hạ đo ván bọn trường đui-điếc.” Có vẻ môn bỏng rổ không phải là ưu tiên hàng đầu của Trường Alabama dành cho Trẻ Đui Điếc, thành thử chúng tôi thường kết thúc mùa giải với chiến thắng độc nhất.

Khi chúng tôi đến nơi, sân tập đã chật ních với hầu hết học sinh ở Culver Creek. Tôi nhận ra, ngay lập tức, ba cô gái mang phong cách gothic ở Creek đang kẻ lại viền mắt trong lúc ngồi ở hàng ghế trên cùng trong phòng thể dục. Hồi còn ở nhà, tôi chưa bao giờ tham dự một trận đấu bóng rổ, nhưng tôi đồ rằng đám đông ở đó không đông đến thế này. Dẫu vậy, tôi vẫn ngạc nhiên khi người ngồi trên hàng ghế ngay trước mặt tôi không ai khác chính là Kevin Richman, trông khi đội cổ động của trường đối thủ (màu đại diện của họ vô phước lại là màu nâu đất và màu vàng của nước tiểu khô) cố kích động khu vực đội khách mời ít ỏi lẫn trong đám đông. Kevin quay lại và liếc Đại Tá.

Như phần lớn những thằng Chiến Binh khác, Kevin ăn mặc rất trịch thượng, nhìn hắn y chang một gã luật sư thích đánh golf tương lai. Và tóc của hắn, vốn là một đống bùi nhùi màu vàng, được cắt ngắn ở hai bên và chỉa tứ tung trên đỉnh đầu, lúc nào cũng mướt rượt gel như bị ướt đẫm. Tôi không ghét hắn đến mức giống Đại Tá, dĩ nhiên, vì Đại Tá bẩm sinh đã ghét hắn, và cái sự ghét bẩm sinh nó mạnh gấp tỉ lần cái sự ghét “Thằng kia, giá như mày đừng quấn tao như xác ướp và quăng tao xuống hồ.” Dẫu vậy, tôi vẫn cố nhìn hắn hăm dọa lúc hắn nhìn

Đại Tá, nhưng thật khó có thể quên đưọc rằng thằng cha này vừa nhìn thấy cái mông lép kẹp trông chiếc quần lót độc nhất của tôi chỉ vài tuần trước.

“Mày mách lẻo Paul và Marya. Bọn tao trả đũa mày. Đình chiến?” Kevin hỏi.

“Tao không có mách lẻo tụi nó. Bé Bự đây chắc chắn không mách lẻo tụi nó, nhưng tụi mày tự lôi nó vào. Đình chiến? Ừmmm, để tao trưng cầu dân ý cái đã.” Đội cổ động ngồi xuống, ôm mấy cục bông xù vào sát ngực như đang cầu nguyện. “Ê Bé Bự,” Đại Tá cất tiếng. “Mày muốn đình chiến không?”

“Nó làm tao nhớ đến hồi quân Đức lệnh cho quân Mỹ đầu hàng ở trận Bulge,” tôi nói. “Tao đoán mình sẽ đáp lại đề nghị đình chiến này bằng câu trả lời của Tướng McAuliffe khi đó: Còn lâu.”

“Sao mày lại muốn giết thằng này hả, Kevin? Nó là một thiên tài. Còn lâu tao mới đình chiến.”

“Thôi nào ông bạn. Tao biết mày đã mách lẻo, và tụi tao phải bênh vực bạn mình, và giờ thì xong rồi. Kết ở đây đi.” Hắn có vẻ chân thành, chắc vì sợ mấy trò nghịch phá có tiếng của Đại Tá.

“Tao thỏa thuận với mày. Mày chọn ra một cố tổng thống Mỹ. Nếu Bé Bự không biết lời trăng trối của ổng, thì đình chiến. Còn nếu nó biết, mày phải dành cả cuộc đời còn lại để hối hận vì đã tè vào giày của tao.”

“Mày điên à?”

“Thế thôi, khỏi đình chiến,” Đại Tá độp lại.

“Được. Millard Fillmore,” Kevin nói. Đại Tá sốt ruột nhìn tôi, ánh mắt như muốn nói, Ông đó là tổng thống à? Tôi chỉ cười.

“Lúc Fillmore hấp hối, ổng đói rã ruột. Nhưng bác sĩ đang cố làm ổng hạ sốt hay gì đó. Fillmore cứ luôn miệng đòi ăn, nên cuối cùng bác sĩ mới đút cho ổng một muỗng súp nhỏ. Rồi với vẻ mỉa mai, Fillmore bảo, ‘Khẩu phần chuẩn đấy,’ rồi ngỏm. Không đình chiến.”

Kevin đảo mắt và bỏ đi, và tôi chợt nhận ra mình có thể bịa đại một lời trăng trối cho Millard Pillmore và Kevin vẫn sẽ tin sái cổ nếu tôi cứ nói bằng cái giọng bình tĩnh đó, vẻ tự tin của Đại Tá đã lây sang tôi.

“Đấy là giây phút ngầu xị đầu tiên của mày!” Đại Tá bật cười. “Nhưng đúng là tao đã đưa mày một mục tiêu dễ dàng. Vậy đó. Làm tốt lắm.”

Xui cho Culver Creek Vô Danh, chúng tôi không đấu với trường đui điếc. Chúng tôi đấu với một trường dòng nào đấy ở dưới phố Birmingham, một đội đầy những thằng khỉ đột bự con râu ria xồm xoàm và cực ghét chuyện bị đánh mà không trả đũa.

Cuối hiệp đầu tiên: 20-4

Và đấy là lúc cuộc vui bắt đầu. Đại Tá dẫn đầu mọi lời cổ vũ.

“Bánh bắp!” gã hét to.

“THỊT GÀ!” đám đông đáp trả.

“Cơm!”

“ĐẬU!”

Và rồi, tất cả đồng thanh: “ĐIỂM SAT CỦA TỤI TAO CAO HƠN.”

“Lên lên lên là lên nóc nhà!” Đại Tá gào toáng lên.

“RỒI TỤI MÀY SẼ LUỒN CÚI BỌN TA!”

Đội cổ động đối thủ cố độp lại câu của chúng tôi bằng “Mái nhà, mái nhà, mái nhà đang bắt lửa! Cứ say sưa đi rồi xuống địa ngục cho chừa,” nhưng chúng tôi lúc nào cũng trội hơn tụi nó.

“Bán!”

“MUA!”

“Đổi!”

“CHÁC!”

“TỤI MÀY BỰ HƠN, NHƯNG BỌN TAO GIỎI HƠN!”

Mỗi khi đội khách mời được ném phạt trên hầu hết các sân banh của cả nước, cổ động viên sẽ rất ồn ào, hò hét và giẫm chân. Chẳng tác dụng gì, vì tuyển thủ đã học được cách lọc tiếng ồn. Ở Culver Creek, chúng tôi có chiến thuật hiệu quả hơn. Đầu tiên, mọi người sẽ hét to như một trận đấu bình thường. Nhưng rồi cả đám nói, “Suỵt!” và im lặng như tờ. Ngay khi đối thủ đáng ghét của chúng tôi dùng đập bóng và chuẩn bị ném, Đại Tá sẽ đứng dậy và gào lên câu gì đó. Ví dụ:

“Lạy Chúa lòng lành, xin anh cạo lông lưng đi!” Hoặc:

“Tôi cần được cứu rỗi. Anh có thể chăm sóc tôi sau cú ném không?!”

Gần cuối hiệp ba, huấn luyện viên bên trường dòng kêu gọi hội ý và phàn nàn với trọng tài về Đại Tá, ổng tức tối chỉ về phía gã. Tỉ số đang là 56-13. Đại Tá đứng dậy. “Sao?! Ông có vấn đề gì với tôi à!?”

Huấn luyện viên hét lên, “Mày đang làm phiền tuyển thủ của tao!”

“THÌ ĐÚNG LẢ VẬY MÀ, BIẾT TUỐT!” Đại Tá gào lại. Trọng tài đi tới và đuổi cổ gã khỏi phòng. Tôi đi theo sau.

“Tao bị đuổi ra ba mươi bảy trận liên tiếp rồi,” gã bảo. “Vãi.”

“Ờ. Một hai lần tao phải thật sự rồ lên. Có lần tao chạy ra sân khi chỉ còn 11 giây và giật bóng khỏi tay đối thủ. Không hay cho lắm. Nhưng, mày biết đấy. Tao phải giữ gìn danh tiếng của mình.”

Đại Tá chạy trước tôi, khoái chí trước việc mình bị đuổi, và tôi vội theo sau, lần theo dấu chân gã. Tôi muốn trở thành một trong số những người có danh tiếng để giữ gìn, những người đầu đội trời chân đạp đất. Nhưng tạm thời, ít nhất tôi cũng quen biết những người như thế, và họ cần tôi, như sao chổi cần đuôi.

một trăm lẻ tám ngày trước

NGÀY HÔM SAU, Tiến Sĩ Hyde yêu cầu tôi ở lại sau giờ học. Đứng trước ông Hyde, lần đầu tiên tôi nhận ra lưng ổng gù thế nào, và bỗng nhiên nhìn ổng thật buồn bã và có chút già nua. “Trò thích lớp này, đúng không?” ổng hỏi.

“Vâng thưa thầy.”

“Trò còn cả đời để chiêm nghiệm sự thấu hiểu về liên kết của nhà Phật.” Ông nói từng câu như thể đã viết nó xuống, học thuộc lòng, và giờ chỉ đang đọc lại. “Nhưng trông lúc nhìn ra cửa sổ, trò đã lỡ mất cơ hội khám phá một đức tin Phật Giáo khác cũng thú vị không kém là tận hưởng hiện tại tùng phút giây, là thực sự tồn tại. Tồn tại trông lớp này. Và rồi, khi nó kết thúc, hãy tồn tại ở ngoài kia,” ổng nói, hất đầu hướng về phía mặt hồ và xa hơn nữa.

“Vâng thưa thầy.”

một trăm lẻ một ngày trước

VÀO BUỔI SÁNG ĐẦU TIÊN của tháng Mười, tôi phát hiện có gì đó không ổn ngay sau khi vừa đủ tỉnh ngủ để tắt báo thức. Mùi của cái giường rất lạ. Và tôi thấy khó chịu. Tôi mất một phút lơ mơ để nhận ra: Tôi lạnh. Hoặc, ít nhất thì, cái quạt nhỏ đính trên giường tôi đột nhiên không cần thiết nữa. “Lạnh quá!” Tôi hét lên.

“Lạy Chúa, mấy giờ rồi?” tôi nghe tiếng nói từ phía trên.

“Tám giờ bốn phút,” tôi đáp.

Đại Tá, gã không có báo thức nhưng gần như luôn thức dậy đi tắm trước khi đồng hồ của tôi reng, vung đôi chân ngắn ngủn qua mép giường, nhảy xuống, rồi chạy tới tủ quần áo. “Tao đoán là tao lỡ buổi tắm sáng rồi,” gã nói trong lúc tròng cái áo thun ĐỘI BÓNG CHÀY CULVER CREEK màu xanh lá cây và một cái quần soóc vào. “Ôi chà. Để mai tính. Và không lạnh. Cỡ hai mươi sáu độ thôi.”

Mừng vì đã ăn bận đầy đủ khi ngủ, tôi chỉ mang giày vào, đoạn Đại Tá và tôi chạy bộ đến lớp. Tôi ngồi lên ghế khi còn độ hai chục giây. Sau nửa tiết học, Madame O’Malley quay lưng viết gì đó bằng tiếng Pháp trên bảng đen, và Alaska chuyền cho tôi một mẩu giấy.

Kiểu đầu tổ quạ đẹp đấy. Trưa nay học ở McDonald’s nhé?

Chúng tôi chỉ còn hai ngày nữa là đến bài kiểm tra quan trọng đầu tiên của môn toán học dự bị, nên Alaska túm đại sáu đứa cùng môn mà cô ấy cho rằng không phải Chiến Binh Ngày Thường rồi nhét cả đám vào cái xe màu xanh hai cửa tí hon của cô. May sao, một em lớp mười xinh xắn tên Lara lại ngồi lên lòng tôi. Lara sinh ra ở Nga hay đâu đó, và giọng em lơ lớ. Vì chúng tôi chỉ cách trò làm tình bốn lớp quần áo, nên tôi nhân cơ hội tự giới thiệu.

“Em biết anh mà.” Em mỉm cười. “Anh là bạn của Alaska ở FlowReeda.”

“Ừ. Em chuẩn bị nghe nhiều câu rất ngu nhé, vì anh dốt toán lắm,” tôi bảo.

Em toan trả lời, nhưng rồi em ngã ngửa vào người tôi khi Alaska phóng xe khỏi bãi đỗ.

“Mấy nhóc, đây là Blue Citrus. Tôi đặt như thế vì nó là quả chanh,’’ Alaska giới thiệu. “Blue Citrus, đây là lũ nhóc. Mọi người có thể thắt dây an toàn vào, nếu tìm thấy chúng. Bé Bự, cậu có thể làm dây an toàn cho Lara.” Alaska bù đắp tốc độ thiếu hụt của chiếc xe bằng cách từ chối bỏ chân ra khỏi chân ga, mặc xác mọi hậu quả. Trước khi chúng tôi kịp ra khỏi trường học, Lara đã lảo đảo như điên mỗi lần Alaska quẹo gấp, nên tôi làm theo lời khuyên của Alaska và vòng tay ôm eo Lara.

“Cảm ơn anh,” em nói, gần như thỏ thẻ.

Sau khi phóng liều ba dặm đến McDonald’s, chúng tôi gọi bảy phần khoai tây chiên cỡ lớn để ăn chung rồi ra ngoài ngồi trên bãi cỏ. Chúng tôi ngồi quây tròn quanh khay để khoai, và Alaska dạy cả lớp, vừa hút thuốc vừa ăn.

Chẳng khác nào một giáo viên tận tụy, cô ấy không để ngắt quãng chút nào. Cô hút thuốc và giảng bài và ăn khoai suốt một tiếng không ngừng, và tôi ghi nguệch ngoạc trong sổ khi những chùm tiếp tuyến và cosine loạn xạ bắt đầu dễ hiểu. Nhưng không phải ai cũng may mắn như vậy.

Lúc Alaska giảng qua một nội dung khá rõ ràng về phương trình tuyến, thằng cha nghiện/du côn Hank Walsten cắt ngang, “Khoan, khoan. Tao không hiểu.”

“Đấy là vì anh chỉ có tám tế bào não hoạt động.” “Nghiên cứu cho thấy ma túy tốt cho sức khỏe hơn thuốc lá,” Hank nói.

Alaska nuốt một ngụm lớn khoai chiên, hút một hơi thuốc, rồi phà khói vào mặt Hank. “Có thể tôi chết trẻ,” cô ấy bảo. “Nhưng tôi chết khi vẫn thông minh. Giờ, quay lại chùm tiếp tuyến.”

một trăm ngày trước

KHÔNG MUỐN HỎI một câu quá hiển nhiên đâu, nhưng sao lại là Alaska” tôi hỏi. Tôi mới nhận bài kiểm tra toán học dự bị về và đắm chìm trong ngưỡng mộ dành cho Alaska, vì bài giảng của cô đã dọn đường cho tôi đến với con B-cộng. Cô ấy và tôi ngồi trong phòng TV xem kênh MTV vào một ngày thứ Bảy âm u ảm đạm. Phòng TV có mùi ẩm mốc ngai ngái từ dàn sofa của các đời học sinh Culver Creek trước để lại và có lẽ vì thế mà nó luôn vắng vẻ. Alaska uống một ngụm Mountain Dew rồi nắm lấy tay tôi.

“Rồi cậu sẽ hỏi thôi. Thế này, hồi mình còn nhỏ, mẹ mình đại khái là dân hippie. Cậu biết đấy, bà mặc mấy cái áo len quá khổ tự đan, hít cần vô tội vạ, vân vân. Và bố mình là dân Cộng Hòa điển hình, nên khi mình ra đời, mẹ muốn đặt tên mình là Harmony Springs Young, còn bố thì thích tên Mary Frances Young.” Vừa nói, đầu cô ấy vừa lắc lư theo giai điệu trên MTV, dù bài hát là kiểu nhạc pop công nghiệp mà cô ấy luôn miệng bảo ghét.

“Nên thay vì đặt tên mình là Harmony hay Mary, họ nhất trí để mình tự chọn. Nên lúc nhỏ, họ gọi mình là Mary. Ý mình là, họ gọi mình là con yêu ơi các thứ, nhưng trên giấy tờ ở trường này nọ, họ viết là Mary Young. Rồi vào sinh nhật năm bảy tuổi, quà của mình là quyền được đặt tên. Thích nhỉ? Nên mình nghiên cứu quả địa cầu của bố cả ngày để chọn ra một cái tên thật oách. Và lựa chọn đầu tiên của mình là Chad, một nước ở châu Phi. Nhưng rồi bố nói đấy là tên con trai, nên mình đổi thành Alaska.”

Tôi ước cha mẹ đã để tôi tự chọn tên. Nhưng họ đã đi trước và chọn cái tên duy nhất mà trưởng nam nhà Halter đã được đặt suốt một thế kỉ. “Nhưng sao lại là Alaska?” Tôi hỏi.

Cô ấy nhếch mép phải lên cười. “Thì, về sau, mình biết được ý nghĩa của nó. Ấy là một từ thuộc ngôn ngữ Aleut, Alyeska. ‘Nơi sóng biển vỗ bờ,’ và mình thích lắm. Nhưng hồi đó mình chỉ thấy Alaska trên quả địa cầu. Và nó rất lớn, như thứ mình muốn trở thành như vậy. Và nó xa Trạm Vine tít tắp, như nơi mình muốn đi.”

Tôi bật cười. “Và bây giờ cậu đã khôn lớn lẫn ở khá xa nhà,” tôi mỉm cười. “Nên chúc mừng nhé.” Cô ấy thôi không lắc lư nữa và buông bàn tay (không may đã ướt đẫm mồ hôi) của tôi ra.

“Không dễ trốn thoát đâu,” cô ấy nói nghiêm túc, mắt nhìn chằm chằm vào tôi như thế tôi biết lối ra nhưng không chịu nói. Đoạn cô ấy đột ngột đổi chủ đề. Sau đại học, cậu biết mình muốn làm gì không? Dạy trẻ khuyết tật. Mình là một giáo viên giỏi, đúng không? Khỉ gió, nếu mình có thể dạy cậu toán học dự bị, mình có thể dạy bất kì ai. Như trẻ tự kỉ chẳng hạn.”

Alaska nói, khẽ khàng và trầm ngâm, tựa hồ đang tiết lộ cho tôi một bí mật, và tôi nghiêng người về phía cô ấy, thốt nhiên choáng ngợp trước cảm giác rằng cả hai phải hôn nhau, rằng chúng tôi phải hôn nhau ngay bây giờ trên cái ghế sofa màu cam rệu rã với những vệt thuốc lá cháy sém và hàng lớp bụi lưu niên. Và tôi đã có thể làm thế: Tôi đã có thể cứ rướn người về trước đến khi phải nghiêng đầu để tránh cái mũi hếch của cô ấy, và tôi đã có thể bất ngờ cảm nhận đôi môi mềm mịn của cô. Tôi đã có thể. Nhưng rồi cô ấy sực tỉnh.

“Không,” cô ấy nói, và thoạt tiên tôi không biết cô ấy đang đọc to tâm tưởng cuồng hôn của tôi hay tự nói với bản thân nữa. Cô ấy tránh khỏi tôi và nói nhỏ, chắc chỉ để mình nghe, “Chúa ơi, mình sẽ không trở thành loại người chỉ biết ngồi yên và tính trước. Mình sẽ bắt tay vào làm luôn. Vọng tướng về tương lai cũng là một dạng hoài niệm.”

“Hử?” tôi thắc mắc.

“Cậu mắc kẹt cả đời trong mê hồn trận, nghĩ đến ngày nào đó cậu sẽ thoát khỏi nó, và nó tuyệt vời đến thế nào, và vọng tướng tương lai ấy cho cậu động lực sống, nhung cậu không bao giờ thực hiện. Cậu chỉ dùng tương lai để trốn tránh thực tại.”

Tôi đoán cô ấy nói có lý. Tôi đã tưởng tượng cuộc sống ở Creek sẽ thú vị hơn ở nhà thực tế, bài tập còn nhiều hơn những chuyên phiêu lưu, nhưng nếu tôi không tưởng tượng, tôi đã chẳng bao giờ đến được Creek.

Cô ấy quay lại với cái TV, giờ đang là quảng cáo xe, và đùa rằng Blue Citrus cần một quảng cáo xe riêng. Cô ấy bắt chước chất giọng trầm ấm, nồng nhiệt của người thuyết minh rồi cất tiếng, “Nó nhỏ, nó chậm, và nó tàn tạ, nhưng vẫn chạy được. Thi thoảng. Blue Citrus: Đến Gặp Người Bán Xe Cũ ở Địa Phương.” Nhưng tôi muốn hỏi thêm về cô ấy và Trạm Vine và tương lai.

“Đôi khi mình không hiểu cậu,” tôi nói.

Cô ấy thậm chí chẳng buồn liếc sang tôi. Cô ấy chỉ cười với cái tivi rồi bảo, “Cậu không bao giờ hiểu mình. Đấy là vấn đề.”

chín mươi chín ngày trước

TÔI NẰM TRÊN GIƯỜNG gần như cả ngày hôm sau, mải mê với thế giới hư cấu chán ngắt của Ethan Frome, trong khi Đại Tá ngồi trên bàn, tìm hiểu bí ẩn của phương trình vi phân hay gì đó. Dù chúng tôi đã cố hạn chế khoản giải lao hút thuốc trong phòng tắm, hai thằng vẫn hết sạch thuốc lá trước khi trời tối, thế là phải tới phòng Alaska. Cô ấy đang nằm đọc sách trên sàn.

“Đi hút thuốc thôi,” gã rủ rê.

“Cậu hết thuốc lá rồi đúng không?” Alaska hỏi, không thèm ngẩng mặt lên.

“Ờ. Phải.”

“Có năm đô-la chứ?” có ấy hỏi.

“Không.”

“Bé Bự?” cô ấy lại hỏi.

“Đây, được rồi.” Tôi móc từ ví ra năm đô-la, và Alaska đưa tôi một gói hai mươi điếu Marlboro Lights. Tôi biết mình sẽ hút chừng năm điếu, nhưng chừng nào tôi còn trợ cấp cho vụ hút hít này, Đại Tá sẽ không tấn công tôi vì cái tội con nhà giàu, một thằng Chiến Binh Ngày Thường không tình cờ sống ở Birmingham.

Chúng tôi kéo theo Takumi đến bờ hồ, nấp sau mấy cái cây, cười khanh khách. Đại Tá nhả vòng khói, và Takumi bảo trông chúng thật “tự phụ,” trong khi Alaska di tay theo vòng khói, chọc thủng chúng như con nít làm nổ bong bóng.

Rồi chúng tôi nghe tiếng một nhành cầy gãy. Có thể là một con hươu, nhưng Đại Tá vẫn bỏ chạy. Giọng nói vang lên ngay phía sau chúng tôi, “Không được chạy, Chipper,” và Đại Tá đứng yên, quay lại, rồi bối rối trở về chỗ chúng tôi.

Đại Bàng chậm rãi đi về phía chúng tôi, môi ổng trề ra giận dữ. Ổng mặc áo sơ-mi trắng và thắt cà-vạt đen, như mọi khi. Ổng lần lượt quăng cho từng đứa Ánh Mắt Kết Tội.

“Mấy trò bốc mùi như một cánh đồng thuốc lá đang cháy ở Bắc Carolina,” ổng nói.

Chúng tôi đứng im. Tôi thấy tệ hại vô cùng, như thể vừa bị bắt gặp đang trốn khỏi hiện trường giết người. Ổng sẽ gọi cha mẹ tôi sao?

“Tôi sẽ gặp mấy trò ở Ban Bồi Thẩm vào năm giờ ngày hôm sau,” ổng tuyên bố rồi bỏ đi. Alaska khom người nhặt điếu thuốc mình vừa vất đi và hút tiếp. Đại Bàng quay phắt lại, giác quan thứ sáu của ổng phát hiện được Thái Độ Bất Phục Trước Nhà Cầm Quyền. Alaska quăng điếu thuốc xuống rồi giẫm lên nó. Đại Bàng lắc đầu, và dù ổng đang điên tiết, tôi thề là mình đã thấy ổng cười.

“Ông quí mình,” Alaska nói với tôi trong lúc trở về kí túc xá. “Ông cũng quí tất cả các cậu. Nhưng ổng yêu trường hơn. Thế mới nên chuyện. Ông nghĩ bắt phạt cả đám là tốt cho cả trường lẫn chúng ta. Đấy là một cuộc chiến bất diệt, Bé Bự ạ. Người Tốt đấu với Kẻ Xấu.”

“Với một cô gái vừa bị bắt quả tang thì cậu triết lí quá đấy,” tôi bảo cô ấy.

“Đôi khi cậu phải thua một trận. Nhưng sự gian manh sẽ luôn chiến thắng."

chín mươi tám ngày trước

MỘT TRONG NHỮNG ĐIỀU ĐỘC ĐÁO của Culver Creek là Ban Bồi Thẩm. Mỗi học kì, trường sẽ chọn ra mười hai học sinh, mỗi lớp ba đứa, để hoạt động trong Ban Bồi Thẩm. Ban Bồi Thẩm sẽ đưa ra hình phạt đích đáng cho những tội chưa đến mức đuổi học, đủ mọi thể loại từ ở quá giờ giới nghiêm đến hút thuốc. Thường là tội lén hút thuốc hoặc ở lại phòng nữ sinh sau bảy giờ. Nên bạn đến gặp Ban Bồi Thẩm, giải trình, rồi họ trừng phạt bạn. Đại Bàng sẽ là thẩm phán, và ổng có quyền bác bỏ phán quyết của Ban Bồi Thẩm (như hệ thống tòa án ngoài đời của Mỹ), nhưng ổng hầu như chưa từng làm thế.

Tôi tới Phòng Học 4 ngay sau tiết cuối cùng, sớm hơn bốn mươi phút cho chắc ăn. Tôi ngồi dựa tường trên hành lang và đọc sách Lịch Sử Nước Mỹ (như một kiểu trị liệu cho bản thân, thành thật mà nói thì vậy) đến khi Alaska xuất hiện và ngồi xuống cạnh tôi. Cô ấy đang cắn môi dưới, và tôi hỏi cô ấy có lo lắng không.

“Ừ, có. Nghe này, cậu cứ ngồi yên và đừng nói gì hết,” cô ấy bảo. "Cậu không cần phải lo. Nhưng đây là lần thứ bảy mình bị bắt vì hút thuốc. Mình chỉ không muốn, sao cũng được. Mình chỉ không muốn bố mình buồn.”

“Mẹ cậu hút thuốc hay gì à?” tôi hỏi.

"Hết rồi,” Alaska nói. “Không sao. Cậu sẽ không sao đâu.”

Tôi đã không lo lắng cho tới khi đã 4:50 và Đại Tá lẫn Takumi vẫn vắng mặt. Thành viên Ban Bồi Thẩm lần lượt xuất hiện, họ đi qua chúng tôi mà không nhìn, điều này càng khiến tôi thấy tệ hơn. Tôi đếm đủ mười hai người lúc 4:56, cộng thêm Đại Bàng.

Vào 4:58, Đại Tá và Takumi rẽ sang dãy phòng học.

Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế. Takumi mặc áo sơ-mi trắng cổ cứng với cà-vạt đỏ có họa tiết hoa đen; Đại Tá mặc lại cái áo sơ-mi màu hồng nhăn nhúm cùng cà-vạt hồng hạc của gã. Cả hai bước song hành, ngẩng đầu ưỡn ngực, như những anh hùng trong phim hành động. Tôi nghe Alaska thở dài. “Đại Tá đang đi kiểu Napoleon.” “Sẽ ổn thôi,” Đại Tá bảo tôi. “Mày chỉ cần im lặng.” Cả bọn bước vào, hai đứa thắt cà-vạt, hai đứa mặc áo thun cũ và Đại Bàng đập một phát búa mạnh trời thần lên dãy ghế trước ổng. Ban Bồi Thẩm ngồi thành hàng sau một chiếc bàn hình chữ nhật. Ở trước căn phòng, ngay sát bảng đen, là bốn cái ghế. Chúng tôi ngồi xuống, và Đại Tá giải thích chính xác những gì đã xảy ra.

“Alaska và tôi đang hút thuốc cạnh bờ hồ. Chúng tôi thường hút ở ngoài trường nhưng quên mất. Chúng tôi xin lỗi. Việc này sẽ không tái diễn đâu.”

Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra. Nhưng tôi biết bổn phận của mình: ngồi yên và ngậm miệng. Một trong các thành viên nhìn Takumi rồi hỏi, “Còn cậu và Halter?” “Chúng tôi đi theo họ,” Takumi bình tĩnh trả lời.

Tên nhóc quay sang Đại Bàng và hỏi, “Thầy có thấy ai hút thuốc không?”

“Tôi chỉ thấy mỗi Alaska, nhưng Chip đã bỏ chạy, một điều tôi thấy rất hèn nhát, cũng như lề thói trốn tránh của Miles và Takumi,” Đại Bàng nói, dùng Ánh Mắt Kết Tội để nhìn tôi. Tôi không muốn tỏ ra tội lỗi, nhưng tôi không thể đối mặt với ổng, nên tôi chỉ nhìn xuống tay mình.

Đại Tá nghiến răng, như thể nói dối khiến gã đau đớn. “Đấy là sự thật, thưa thầy.”

Đại Bàng hỏi có ai trông chúng tôi muốn nói gì không, rồi còn thắc mắc gì nữa không, đoạn ổng kêu chúng tôi ra ngoài.

“Chuyện quái gì thế?” tôi hỏi Takumi khi ra ngoài.

“Cứ ngồi yên thôi, Bé Bự.”

Tại sao Alaska lại thú tội trong khi cô ấy đã gặp rắc rối rất nhiều lần? Sao lại là Đại Tá, gã thật sự không được dính vào rắc rối nghiêm trọng nào nữa? Sao không phải là tôi? Tôi chưa bao giờ bị bắt quả tang cái gì. Tôi có ít cái để mất nhất. Sau vài phút, Đại Bàng bước ra rồi tỏ ý gọi chúng tôi vào trong.

“Alaska và Chip,” một thành viên Ban Bồi Thẩm nói, “hai người bị phạt mười giờ lao động, rửa chén trong căn-tin và sẽ chính thức bị gọi về nhà sau một lần tái phạm nữa. Takumi và Miles, không có luật nào cấm nhìn người khác hút thuốc, nhưng Ban Bồi Thấm sẽ ghi nhớ việc này nếu các cậu lại phá luật. Công bằng chứ?”

“Công bằng," Alaska vội vã đáp, rõ ràng rất nhẹ nhõm. Trên đường trở về, Đại Bàng quay người tôi lại. “Đừng quá lạm dụng những đặc quyền của trò ở trường này, nhóc ạ, hoặc trò sẽ hối hận.” Tôi gật đầu.