← Quay lại trang sách

hai mươi bảy ngày sau

SÁU NGÀY SAU, bốn Chủ Nhật sau Chủ Nhật cuối cùng ấy, Đại Tá và tôi đang cố bắn nhau bằng súng sơn trong khi lộn 900 độ trong lòng máng trượt. “Chúng ta cần nhiều rượu hơn. Và chúng ta cần mượn máy kiểm tra nồng độ cồn của Đại Bàng.”

"Mượn? Mày biết nó ở đâu không?”

“Ờ. Ổng chưa bao giờ kiểm tra mày à?”

“Ừm. Không. Ổng nghĩ tao là thằng mọt sách.”

“Mày là một thằng mọt sách, Bé Bự ạ. Nhưng mày sẽ không để tiểu tiết đó ngăn mày say sưa.” Thật ra, tôi không còn uống say kể từ đêm ấy, và cũng không hứng thú gì mấy để lặp lại.

Rồi tôi suýt huých chỏ vào mặt Đại Tá, vung tay kịch liệt như thể vặn vẹo thân thể đúng cách sẽ hiệu quả như ấn đúng nút điều khiển đúng lúc ảo tưởng khi-chơi-game đã luôn đeo bám Alaska. Nhưng Đại Tá quá tập trung vào trò chơi nên không thèm để ý. “Mày biết làm thế nào, tao hỏi lại, để ăn trộm máy kiểm tra nồng độ cồn trong nhà của Đại Bàng chưa?"

Đại Tá liếc nhìn tôi và nói, “Mày ớn trò này không?” và rồi, không cần nhìn vào màn hình, gã bắn vào giữa hai chân nhân vật trượt ván của tôi với một viên đạn nổ màu xanh. “Nhưng trước tiên, chúng ta phải tìm chút rượu, vì mối tương quan giữa vị chua của ambrosia và rượu của tao đã…”

“BÙM. Biến mất,” tôi kết câu.

Khi tôi mở của, Takumi đang ngồi ở bàn học của cậu ta, tai nghe to đùng bao quanh đầu, gật gù theo điệu nhạc. Cậu ta dường như không nhận ra chúng tôi. “Ê,” tôi nói. Không trả lời. “Takumi!” Không trả lời. “TAKUMI!” cậu ta quay lại và kéo tai nghe xuống. Tôi đóng cửa lại và nói, “Mày có rượu không?”

“Tại sao?” Cậu ta hỏi.

“Ừm, vì tụi tao muốn uống say?” Đại Tá trả lời.

“Tuyệt. Tao tham gia với.”

“Takumi,” Đại Tá bảo. “Chuyện này, bọn tao cần thực hiện riêng với nhau.”

“Không. Tao chán cái lý do đó rồi.” Takumi đứng dậy, đi vào phòng tắm, và trở ra với một chai Gatorade đựng đầy chất lỏng trong suốt. “Tao cất nó trong tủ y tế,” Takumi nói. “Vì cơ bản nó cũng là một loại thuốc.” Cậu ta nhét chai rượu vào túi và đi ra khỏi phòng, để cửa mở đằng sau. Một lúc sau, cậu ta ló đầu quay lại và, nhái giọng ra lệnh trầm ồn của Đại Tá một cách hoàn hảo, “Chúa ơi, mày có đi không thế?”

“Takumi,” Đại Tá nói. “Được. Nghe này, việc tụi tao đang làm hơi nguy hiểm, và tao không muốn mày bị liên lụy. Thật đấy. Nhưng, nghe này, từ ngày mai tụi tao sẽ kể hết mọi chuyện cho mày.”

“Tao chán trò giấu giếm quái quỷ này rồi. Cô ấy cũng là bạn tao mà.”

“Ngày mai. Tao thề đấy.”

Cậu ta kéo chai rượu ra khỏi túi và ném nó cho tôi.

"Ngày mai,” cậu ta bảo.

“Tao không muốn nó biết cho lắm,” tôi nói trong lúc hai đứa quay trở về phòng, chai Gatorade nhét trong túi áo len của tôi. “Nó sẽ ghét tụi mình cho mà xem.”

“Ờ, nhưng nó sẽ ghét tụi mình hơn nếu cứ giả vờ là nó không tồn tại,” Đại Tá trả lời.

Mười lăm phút sau, tôi đứng trước cửa nhà Đại Bàng.

Ông cầm một cái muỗng vét bột ra mở cửa, mỉm cười, và nói, “Miles, vào đi. Tôi đang làm bánh kẹp trứng. Trò ăn một cái không?”

“Không ạ, em cảm ơn thầy,” tôi nói, theo Đại Bàng vào bếp.

Công việc của tôi là ngăn ổng vào phòng khách trong ba mươi giây để Đại Tá lấy thiết bị kiểm tra độ cồn mà không bị phát hiện. Tôi ho thật lớn để ra hiệu cho Đại Tá biết là đã an toàn. Đại Bàng cầm bánh kẹp trứng lên và cắn một miếng. “Sao trò lại cất công đến thăm tôi thế này?” Ổng hỏi.

“Em chỉ muốn nói với thầy rằng Đại Tá, ý em là, Chip Martin cậu ấy là bạn cùng phòng của em, thầy biết đấy, cậu ấy đang đánh vật với môn Latin.”

“Chà, trò ấy không đến lớp, theo những gì tôi biết, điều này có thể khiến việc học hành trở nên rất khó khăn.” Ông đi về phía tôi. Tôi ho tiếp, rồi lùi lại, Đại Bàng và tôi như nhảy điệu tango về phía phòng khách.

“À, dạ, cậu ấy thức cả đêm nghĩ về Alaska,” tôi nói, đứng thẳng lưng, cố che mắt Đại Bàng khỏi phòng khách với bờ vai không-rộng-lắm của tôi. “Họ rất thân thiết, thầy biết đấy.”

“Tôi biết điều đó” ổng nói, và trong phòng khách, tiếng giày thể thao của Đại Tá kêu cót két trên sàn gỗ cứng. Đại Bàng nhìn tôi thắc mắc và bước qua một bên. Tôi nhanh chóng nói, “Bếp đang cháy ạ?” và chỉ về phía chảo chiên.

Đại Bàng quay phắt lại, nhìn bếp lửa rõ-ràng-là-không-cháy, rồi lao về phía phòng khách.

Trống trơn. Ông quay lại phía tôi. “Trò đang có âm mưu gì sao, Miles?”

“Không, thưa thầy. Thật đấy. Em chỉ muốn nói về Chip thôi.”

Ông nhướng mày, lộ vẻ hoài nghi. “Ừa, tôi hiểu đây là một mất mát to lớn đối với những người bạn thân của Alaska. Thật tồi tệ. Không gì có thể xoa dịu nỗi đau này, đúng chứ?”

“Vâng ạ.”

“Tôi thông cảm cho Chip. Nhưng sự học là quan trọng. Alaska hẳn cũng muốn, tôi chắc vậy, việc học hành của Chip được tiếp tục suôn sẻ.”

Chắc vậy, tôi nghĩ. Tôi cảm ơn Đại Bàng, và ổng hứa sẽ làm bánh kẹp trứng cho tôi trong tương lai gần, làm tôi lo rằng ổng sẽ cầm bánh kẹp trứng và xuất hiện ở phòng tụi tôi vào một trưa nào đó để phát hiện hai đứa A. lén hút thuốc trong lúc Đại Tá B. lén uống sữa trộn vodka trong bình gần bốn lít.

Được nửa đường về kí túc xá, Đại Tá đuổi kịp tôi. “Mày tỉnh phết, với cái câu ‘bếp đang cháy ạ?’ Nếu mày không hỏi thế, tao đã bị nướng chín rồi. Dù tao đoán giờ mình phải đến lớp Latin. Môn Latin ngu ngốc.”

“Mày lấy được không?” Tôi hỏi.

“Ờ,” Gã nói. “Ờ. Lạy Chúa, cầu trời tối nay ổng không đi kiếm nó. Mà thiệt, ổng sẽ không bao giờ nghi ngờ cái gì. Ai lại ăn cắp một cái máy đo nồng độ cồn chứ?”

Vào hai giờ sáng, Đại Tá uống ly vodka thứ sáu, nhăn mặt, đoạn huơ tay về phía chai Mountain Dew tôi đang uống. Tôi đưa nó cho gã, và gã uống một ngụm lớn.

“Tao không nghĩ ngày mai mình có thể đến lớp Latin,” gã nói. Giọng gã hơi lè nhè, như thể lưỡi đã bị bỏng. “Một lần nữa thôi,” tôi van nài.

“Được rồi. Nhưng tới đây thôi nhé.” Gã rót một chút vodka vào một cái ly giấy, nuốt ực, trề môi, và siết chặt nắm tay. “Ôi Chúa ơi, kinh quá. Uống với sữa đỡ hơn nhiều. Đống này phải được hai mươi bốn điểm đó.”

“Chúng ta phải chờ mười lăm phút sau ly cuối của mày mới kiểm tra,” tôi nói sau khi đã tải hướng dẫn sử dụng máy đo nồng độ cồn từ Internet xuống. “Mày thấy say chưa?” “Nếu cơn say là bánh quy, tao sẽ là hiệu Famous Amos.” Chúng tôi bật cười. “Bớ Chip! Còn gì vui hơn nữa,” tôi nói.

“Thứ lỗi cho tao. Tao không tỉnh táo.”

Tôi giữ máy đo nồng độ cồn trong tay, một cái máy màu bạc bóng loáng cỡ một cái điều khiển nhỏ. Bên dưới màn hình LCD là một cái lỗ bé tí. Tôi thổi vào đó để kiểm tra: 0.00, nó hiện ra. Tôi đoán máy vẫn hoạt động.

Sau muời lăm phút, tôi đưa máy cho Đại Tá. “Thổi thật mạnh vào đó ít nhất hai giây,” tôi nói.

Đại Tá phồng má, gã thổi một hơi mạnh và dài vào cái lỗ, khuôn mặt dần đỏ bùng.

.16. “Ôi không,” Đại Tá nói. “Chúa ơi.”

“Mày được hai phần ba quãng đường rồi,” tôi khuyến khích gã.

“Ừa, nhưng tao được hai phần ba quãng đường đến nôn ọe.”

“Ờ, rõ ràng là được mà. Cô ấy làm được. Coi nào! Mày uống hơn một đứa con gái được mà, đúng không?”

“Đưa tao chai Mountain Dew,” gã đanh mặt nói.

Và rồi tôi nghe tiếng bước chân ngoài cửa. Những tiếng bước chân. Chúng tôi chờ đến 1:00 sáng để bật đèn, nghĩ rằng mọi người đã ngủ từ lâu, đằng nào cũng là tối ngày thường, nhưng những tiếng bước chân, chết tiệt, và trong lúc Đại Tá nhìn tôi thắc mắc, tôi giật lấy máy đo nồng độ từ gã và nhét nó vào giữa đống đệm mút của ghế sofa và gom ly giấy và chai Gatorade đựng vodka rồi lùa chúng xuống dưới BÀN CÀ PHÊ, và tôi rút một điếu thuốc khỏi hộp rồi đốt nó ngay lập tức, mong rằng mùi khói sẽ át hết mùi rượu. Tôi phà khói mà không hít vào, cố phủ kín căn phòng, và tôi sắp quay lại sofa thì ba tiếng gõ cửa gấp rút vang lên và Đại Tá nhìn tôi, hai mắt mở to, tương lai bất chợt u tối hiện ra trước mắt gã, và tôi thì thầm, “Khóc đi,” trong lúc Đại Bàng vặn tay nắm cửa.

Đại Tá khom người tới, đầu vùi vào giữa gối, đôi vai run run, và tôi vòng tay ôm gã trong lúc Đại Bàng bước vào.

“Em xin lỗi,” tôi nói trước khi Đại Bàng kịp mở miệng. “Đêm nay cậu ấy rất buồn.”

“Trò đang hút thuốc sao?” Đại Bàng hỏi. "Trong phòng? Bốn tiếng sau khi tắt đèn?”

Tôi bỏ điếu thuốc vào lon nước ngọt uống dở. “Em xin lỗi thầy. Em chỉ cố thức cùng cậu ấy.”

Đại Bàng đi tới sofa, và tôi thấy Đại Tá bắt đầu đứng dậy, nhưng tôi đè vai gã xuống, vì nếu Đại Bàng ngửi thấy hơi thở của Đại Tá thì chúng tôi chắc chắn sẽ tiêu đời. “Miles,” Đại Bàng nói. “Tôi hiểu quãng thời gian này rất khó khăn với trò. Nhưng trò phải tôn trọng luật lệ của ngôi trường này, hoặc trò sẽ trúng tuyển vào một nơi khác. Tôi sẽ gặp trò ở Ban Bồi Thẩm ngày mai. Tôi có thể làm gì cho em không, Chip?”

Vẫn không ngẩng đầu lên, Đại Tá trả lời bằng giọng run run, nghẹn ngào, “Không, thưa thầy. Em chỉ mừng vì đã có Miles.”

“Chà, tôi cũng vậy,” Đại Bàng nói. “Có lẽ em nên khuyên khích trò ấy sống trong khuôn khổ hơn, đừng để trò ấy vấp phải nguy cơ bị đuổi học.”

“Vâng, thưa thầy,” Đại Tá đáp.

“Hai trò có thể để đèn đến khi sẵn sàng đi ngủ. Hẹn gặp trò ngày mai, Miles.”

“Chúc thầy ngủ ngon,” tôi nói, tưởng tượng cảnh Đại Tá đem thiết bị đo nồng độ cồn trả lại nhà Đại Bàng trong lúc tôi bị xét xử ở Ban Bồi Thẩm. Trong lúc Đại Bàng đóng cửa lại, Đại Tá đứng phắt dậy, mỉm cười với tôi, vẫn lo rằng Đại Bàng có thể ở ngoài cửa, gã thì thầm, “Mày chơi đẹp đấy.”

“Tao học từ bậc thầy giỏi nhất mà,” tôi nói. “Giờ uống đi.”

Một tiếng sau, chai Gatorade đã gần hết, Đại Tá đạt.24.

“Tạ ơn Chúa Giê-su!” gã reo to, rồi thêm vào. “Tệ quá. Chẳng phải buổi nhậu vui vẻ gì.”

Tôi đứng lên và dẹp BÀN CÀ PHÊ qua một bên để Đại Tá có thể dọc lui căn phòng mà không đụng phải vật cản, rồi nói, “Được, mày đứng được không?”

Đại Tá chống tay lên lớp đệm mút và bắt đầu nhổm dậy, nhưng lại ngã tiếp xuống ghế, gã nằm ngửa ra. “Phòng quay quay,” gã nhận xét. “Tao nôn đây.”

“Đừng nôn. Hư bột hư đường hết.”

Tôi quyết định sẽ thử độ tỉnh táo của gã, như cảnh sát hay làm. “Được rồi. Lại đây và cố đi thẳng xem.” Gã lăn khỏi sofa và ngả xuống sàn, và tôi xốc nách gã đứng dậy. Tôi đặt gã đứng giữa hai ô vuông trên sàn sơn. “Đi theo đường gạch đó. Đi thẳng, từ ngón đến gót chân.” Gã nhấc một chân và ngay lập tức nghiêng sang bên trái, hai tay huơ loạn xạ. Gã bước một bước loạng choạng, có hơi lắc lư, như thể hai chân gã không thể đáp đất thẳng hàng. Gã thoáng lấy lại thăng bằng, rồi lùi lại một bước và ngã xuống ghế. “Tao thua,” gã nói tỉnh queo.

“Được, trường nhìn của mày thế nào?”

“Trường học gì của tao cơ?”

“Nhìn tao đi. Mày thấy một, hay hai người? Mày có thể vô tình tông phải tao nếu tao là một cái xe cảnh sát không?” “Mọi thứ xoay như chong chóng, nhưng tao không nghĩ vậy. Tệ quá. Nó đã như thế này sao?”

“Hẳn vậy. Mày lái xe nổi không?”

“Ôi lạy Chúa, không. Không. Không. Nó đã say bí tỉ.”

“Ờ.”

“Chúng ta ngu thật.”

“Ờ.”

“Đầu tao quay mòng mòng. Nhưng không. Không xe cảnh sát gì sất. Tao vẫn nhìn được.”

“Chứng cứ của mày đó.”

“Có thể nó ngủ gục. Tao buồn ngủ quá.”

“Chúng ta sẽ tìm ra,” tôi nói, cố diễn thay vai mà Đại Tá luôn diễn vì tôi.

“Không phải tối nay,” gã trả lời. “Tối nay, chúng ta sẽ nôn một chút, rồi chúng ta sẽ ngủ cho qua cơn say.” “Đừng quên tiết Latin.”

“Phải. Latin chết tiệt.”

hai mươi tám ngày sau

ĐẠI TÁ LẾT ĐƯỢC TỚI LỚP Latin vào sáng hôm sau “Giờ tao thấy rất đỉnh, vì tao vẫn còn say. Nhưng cầu Chúa giúp tao vượt qua mấy tiếng sắp tới” và tôi làm bài kiểm tra Tiếng Pháp mà tôi đã học un petit peu. Tôi làm trắc nghiệm khá ổn (mấy câu hỏi kiểu thì-nào-đúng-trong-câu), nhưng câu hỏi luận văn, Trong Le Petit Prince, ý nghĩa của bông hoa hồng là gì? Làm tôi hơi bối rối.

Nếu tôi đã đọc qua Hoàng Tử Bé bằng tiếng Anh hoặc Pháp, tôi đoán câu hỏi này đã dễ hơn. Không may thay, tôi đã dành cả tối để chuốc rượu Đại Tá. Nên tôi trả lời, Elle symbolise l'amour (“Nó đại diện cho tình yêu”). Madame O’Malley đã chừa hẳn một trang giấy cho chúng tôi trả lời câu hỏi đó, nhưng tôi nghĩ tôi sẽ trả lời đầy đủ trong ba chữ.

Tôi học hành vừa đủ chăm để đạt điểm B-trừ và không làm cha mẹ lo lắng, nhưng giờ tôi không quan tâm nữa. Ý nghĩa của bông hoa hồng? Tôi nghĩ. Ai mà biết? Ý nghĩa của hoa tulip trắng là gì? Đấy mới là câu hỏi đáng trả lời.

Sau khi bị thuyết giáo và phạt mười giờ lao động công ích ở Ban Bồi Thẩm, tôi quay về Phòng 43 để nghe Đại Tá kể cho Takumi mọi chuyện—chà, mọi chuyện trừ nụ hôn. Tôi đi vào lúc Đại Tá nói, “Nên tụi tao giúp nó rời trường.”

“Tụi mày đã đốt pháo," Cậu ta nói.

“Sao mày biết vụ pháo hoa?”

“Tao đã điều tra một chút,” Takumi trả lời. “Ừa, dù sao đi nữa, đúng là ngu. Đáng ra tụi mày không nên làm thế. Nhưng tất cả chúng ta đều để cô ấy đi, thật sự,” cậu ta nói, và tôi tự hỏi ý của cậu ta là cái quái gì, nhưng tôi không kịp hỏi thì cậu ta nói với tôi, “Nên mày nghĩ đó là một vụ tự tử?”

“Có thể,” tôi nói. “Mọi thứ đều là có thể, không phải sao”

Đại Tá đút tay vào túi áo tìm hộp thuốc, “Ừ, một câu nữa đây: Có thể Jake biết câu trả lời,” gã nói. “Tụi tao đã thử hết chiến thuật rồi, nên ngày mai tao sẽ gọi anh ta, đồng ý?”

Tôi cũng muốn biết câu trả lời, ngoại trừ một vài câu hỏi. “Ừ, đồng ý,” tôi nói. “Nhưng nghe này, đừng kể cho tao những thứ không liên quan. Tao không muốn biết gì hết trừ phi nó sẽ giúp tao biết cô ấy đang đi đâu và tại sao.”

“Nói thật thì tao cũng vậy,” Takumi bảo. “Tao nghĩ vài thứ cần được giữ kín.”

Đại Tá nhét một cái khăn dưới cửa, đốt thuốc lá, và nói, “Được thôi, hai nhóc. Chúng ta sẽ chỉ hỏi những-gì-cần-biết.”

hai mươi chín ngày sau

TRONG LÚC TRỞ VỀ từ lớp học ngày hôm sau, tôi thấy Đại Tá ngồi trên ghế đá ngoài bốt điện thoại, nguệch ngoạc ghi vào cuốn sổ đặt trên đùi trong khi kẹp điện thoại giữa tai và vai.

Tôi nhanh chóng chạy vào Phòng 43, nơi Takumi đang chơi game đua xe tắt tiếng. “Nó nói chuyện điện thoại bao lâu rồi?” tôi hỏi.

“Không biết. Lúc tao tới hai mươi phút trước nó đã nói rồi. Chắc nó bỏ lớp Toán Thiên Tài. Tại sao, mày sợ Jake sẽ lái xuống đây và đập mày một trận vì đã để cô ấy đi à?”

“Sao cũng được,” tôi nói, thầm nghĩ. Đấy chính xác là lý do vì sao chúng ta không nên nói cho anh ta biết. Tôi đi vào phòng tắm, mở vòi sen, và đốt một điếu thuốc. Takumi đi vào không lâu sau đó.

“Sao thế?” cậu ta hỏi.

“Không có gì. Tao chỉ muốn biết chuyện gì đã xảy ra với cô ấy.”

“Mày thật lòng muốn biết sự thật à? Hay mày chỉ muốn biết rằng cô ấy đã cãi nhau với anh ta và đang lái xe đến để chia tay và sẽ quay lại đây rồi ngã vào vòng tay mày và cả hai sẽ làm tình một cách nóng bỏng, ngọt ngào và sinh ra những đứa nhỏ thiên tài có thể ghi nhớ những lời trăn trối và những bài thơ?”

“Nếu mày giận tao thì cứ nói thẳng.”

“Tao không giận mày vì đã để cô ẩy đi. Nhưng tao phát ngán cái kiểu tỏ ra mày là thằng duy nhất từng ham muốn cô ấy. Như thể mày giữ độc quyền để thích cô ấy,” Takumi trả lời. Tôi đứng dậy, nhấc nắp bồn cầu lên, và xả trôi điếu thuốc hút dở.

Tôi nhìn cậu ta một lúc lâu, rồi nói, “Đêm đó tao đã hôn cô ấy, và đấy là chuyện tao giữ độc quyền.”

“Cái gì?” cậu ta lắp bắp.

“Tao đã hôn cô ấy.”

Cậu ta há miệng ra như muốn nói gì, nhưng lại thôi. Chúng tôi nhìn nhau thật lâu, và tôi thấy xấu hổ vì đã làm một chuyện tương đương với khoe khoang, và cuối cùng tôi nói, “Tao—nghe này, mày biết cô ấy thế nào mà. Cô ấy muốn là làm. Có lẽ tao chỉ là cái thằng tình cờ ở đó.”

“Ừ. Chà, tao chưa bao giờ là cái thằng đó,” cậu ta đáp. “Tao—chậc, Bé Bự, thề có Chúa, tao không thể đổ lỗi cho mày được.”

“Đừng kể với Lara.”

Cậu ta đang gật đầu trong lúc chúng tôi nghe ba tiếng gõ nhanh trên cửa, vốn là kiểu của Đại Bàng, và tôi nghĩ, Chết tiệt, bị bắt hai lần trong một tuần, và Takumi chỉ về phía buồng tắm, và chúng tôi nhảy vào cùng nhau và kéo màn lại, vòi sen quá-thấp phun nước lên người chúng tôi từ xương sườn trở xuống. Bị ép phải đứng gần nhau hơn mức cần thiết, chúng tôi đứng đó, im lặng, vòi sen đang chảy dần thấm đẫm áo thun và quần jean của chúng tôi trong mấy phút đằng đẵng, trong lúc cả hai đợi hơi nước đưa khói thuốc bay lên lỗ thông hơi. Nhưng Đại Bàng không gõ cửa phòng tắm, và sau cùng Takumi tắt vòi sen. Tôi hé của phòng tắm ti hí và nhìn thấy Đại Tá ngồi trên sofa nệm mút, chân gác trên BÀN CÀ PHÊ, chơi nốt vòng đua NASCAR của Takumi. Tôi mở cửa và cùng Takumi bước ra ngoài, quần áo ướt đẫm từ trên xuống.

“Ồ, chuyện hiếm thấy à nha,” Đại Tá thản nhiên nói. “Cái quái gì vậy?” Tôi hỏi.

“Tao gõ cửa như Đại Bàng để dọa tụi mày.” Gã mỉm cười. “Nhưng mẹ ơi, nếu tụi mày cần không gian riêng thì lần tới dán giấy ở cửa là được.”

Takumi và tôi bật cười, rồi Takumi nói, “ừ, Bé Bự và tao đang đến chỗ hay, nhưng này, từ ngày tắm chung tao thấy gần gũi mày hơn nhiều đó, Bé Bự.”

“Sao rồi?” Tôi hỏi. Tôi ngồi xuống BÀN CÀ PHÊ, và Takumi ngồi phịch xuống cạnh Đại Tá trên ghế, cả hai đều ướt sũng và hơi lạnh nhưng vẫn quan tâm tới cuộc nói chuyện của Đại Tá và Jake hơn là hong khô người.

“Thú vị lắm. Đây là những gì tụi mày cần biết: Anh ta tặng hoa cho nó, như chúng ta đã đoán. Hai người họ không cãi nhau. Anh ta chỉ gọi điện vì đã hứa sẽ gọi vào kỷ niệm tám tháng, vào đúng ba giờ hai phút sáng, cái giờ—đồng ý đi—hơi quái đản, và tao đoán bằng cách nào đó nó đã nghe thấy điện thoại reng. Và họ nói chuyện linh tinh chừng năm phút, và bất thình lình, nó hoảng lên.” “Bất thình lình?” Takumi hồi.

“Cho phép tao xem lại sổ tay,” Đại Tá lật sổ. “Được. Jake nói, ‘Lễ kỷ niệm vui chứ?’ và rồi Alaska nói, ‘Em đã có một lễ kỷ niệm tuyệt cú mèo,' và tôi có thể nghe Đại Tá thuật lại vẻ hào hứng trong giọng nói của cô ấy, cách cô ấy liến thoắng một vài từ như tuyệt cú mèo và hết sảy và chắc chắn rồi. “Rồi mọi thứ im lặng, đoạn Jake hỏi, ‘Em đang làm gì đó?’ và Alaska đáp, ‘Không có gì, chỉ vẽ linh tinh thôi anh,’ và rồi nó nói, ‘Ôi Chúa ơi.’ Và rồi nó bảo, ‘Chết tiệt chết tiệt chết tiệt’ và bắt đầu nức nở, và nói với anh ta rằng nó phải đi nhưng nó sẽ nói chuyện với anh ra sau, tuy nhiên nó đã không nói là nó đang lái xe tới gặp anh ta, và Jake không biết việc đó. Anh ta không biết nó đang đi đâu, nhưng anh ta bảo nó luôn hỏi trước khi đến gặp anh ta, và nó đã không hỏi, nên chắc chắn nó đã không đến chỗ anh ta. Chờ chút, để tao tìm trích dẫn.” Gã lật một trang trong sổ. “Đây rồi: ‘cô ấy nói cô ấy sẽ nói chuyện với anh sau, không phải là gặp anh sau.’”

“Cô ấy bảo tao ‘Lần sau tiếp tục’ và nói với anh ta là nói chuyện với anh sau,” tôi chỉ ra.

“Ừa. Biết rồi. Những dự định tương lai. Khá mâu thuẫn với một người muốn tự tử. Thế rồi nó quay về phòng, la hét về chuyện quên mất cái gì đó. Và cuộc đua liều lĩnh của nó kết thúc. Nghĩa là không có câu trả lời nào, vậy đấy.” “Ờ thì, chúng ta biết nơi cô ấy sẽ không đến.”

“Trừ phi cô ấy nổi hứng bất tử,” Takumi nói. Cậu ta ngó tôi. “Và từ những gì tao được nghe thì đêm ấy cô ấy nổi hứng bất tử hơi nhiều.”

Đại Tá tò mò nhìn sang tôi, và tôi gật đầu.

“Ờ,” Takumi đáp. “Tao biết.”

“Được, xong. Và mày tức điên, nhưng rồi mày tắm chung với Bé Bự và mọi thứ đã ổn thỏa. Tuyệt vời, Nên, nên đêm đó...” Đại Tá tiếp tục.

Và chúng tôi cố thuật lại cuộc nói chuyện tối đó hết mức có thể cho Takumi, nhưng cả hai thằng đều không nhớ rõ, phần vì Đại Tá say rượu và tôi không để ý lắm đến khi cô ấy đề nghị chơi trò Nói Thật hay Thách Đố. Và, dù sao đi nữa, chúng tôi không biết nó có quan trọng lắm không. Những lời trăn trối luôn khó nhớ hơn khi không ai biết rằng nguời ấy sẽ chết.

“Ý tao là,” Đại Tá nói, “Tao nghĩ nó và tao đang nói về chuyện tao thích trượt ván trên máy tính như thế nào nhưng tao lại chưa bao giờ nghĩ tới chuyện thử bước lên một tấm ván trượt ngoài đời thật, và rồi nó bảo, 'Cùng chơi Nói Thật hay Thách Đố đi’ và rồi mày chơi nó.”

“Khoan, mày chơi cô ấy? Ngay trước mặt Đại Tá?” Takumi rống lên.

“Tao không có chơi cổ.”

“Bình tĩnh đi mấy nhóc,” Đại Tá nói, giơ hai tay lên. “Nó chỉ là phép ẩn dụ thôi.”

“Cho cái gì?” Takumi hỏi.

“Hôn hít."

“Ẩn dụ hay đấy.” Takumi đảo mắt. “Tao có phải là người duy nhất nghĩ rằng chuyện đó đáng chú ý không?” “Ờ, trước đó tao cũng không,” Tôi hững hờ đáp. “Nhưng giờ tao không biết nữa. Cô ấy đã không kể với Jake. Chắc chẳng quan trọng mấy đâu.”

“Có thể cổ thấy cắn rứt vì tội lỗi,” cậu ta nói.

“Jake bảo nó có vẻ bình thường trên điện thoại trước khi hoảng lên,” Đại Tá nói. “Nhưng biết đâu chính là cú điện thoại ấy. Chuyện gì đó đã xảy ra mà chúng ta không biết.” Đại Tá đưa tay vò mái tóc rậm dày, ra chiều bức bối. “Chúa ơi, chuyện gì đó. Chuyện gì bên trong nó. Và giờ chúng ta chỉ cần tìm ra đó là chuyện gì.”

“Nghĩa là chúng ta chỉ cần đọc được ý nghĩ của một người chết,” Takumi đáp. “Dễ như ăn cháo.”

“Chính xác. Muốn xỉn quắc cần câu không?” Đại Tá hỏi. “Tao không có hứng,” tôi trả lời.

Đại Tá đút tay vào hõm mút trên sofa và lôi ra chai Gatorade của Takumi. Takumi cũng không muốn uống, nhưng Đại Tá chỉ nhếch mép và nói, “Thế thì tao được uống nhiều hơn,” và nốc cạn.

ba mươi bảy ngày sau

THỨ TƯ TUẦN SAU, tôi đụng trúng Lara sau lớp tôn giáo, theo đúng nghĩa đen. Tôi đã gặp em, dĩ nhiên. Tôi gặp em gần như mỗi ngày, trong lớp Quốc Ngữ hoặc thấy em đang ngồi trong thư viện thì thầm với bạn cùng phòng của mình, Katie. Tôi gặp em ở bữa trưa và bữa tối tại căn-tin, và chắc tôi sẽ gặp em ở bữa sáng, nêu tôi dậy sớm đi ăn. Và hẳn nhiên, em cũng thấy tôi nữa, nhưng chúng tôi đã không, cho đến sáng hôm đó, nhìn nhau cùng một lúc.

Đến giờ, tôi đoán em đã quên tôi. Sau cùng thì, chúng tôi chỉ mới hẹn hò đúng một ngày, dù là một ngày bận rộn.

Nhưng khi tôi va phải vai trái của em khi đang chen đến lớp toán học dự bị, em ấy đã quay lại và ngẩng lên nhìn tôi. Em tức giận, và không phải vì cú va. “Anh xin lỗi,” tôi buột miệng, và em chỉ nheo mắt nhìn tôi như người ta chuẩn bị đánh nhau hoặc khóc lóc, và lặng lẽ biến mất vào lớp học. Ba từ đầu tiên tôi đã nói với em sau một tháng.

Tôi muốn nói chuyện với em. Tôi biết mình rất bỉ ổi—tưởng tượng xem, tôi cứ mãi tự nhủ, nếu mày là Lara, với một người bạn đã mất và một anh bạn trai im lặng—nhưng tôi chỉ có duy nhất một khao khát, và cô ấy đã chết rồi, và tôi muốn biết lý do tại sao và thế nào, và Lara thì không thể trả lời, và đấy là tất cả những gì đáng quan tâm.

bốn mươi lăm ngày sau

SUỐT MẤY TUẦN, Đại Tá và tôi thỏa mãn nhu cầu hút thuốc của mình nhờ vào lòng thương hại, chúng tôi được mọi người cho mấy gói thuốc rẻ tiền, từ Molly Tan đến thằng Longwell Chase từng-để-đầu-húi-cua. Như thể ai cũng muốn giúp và không thể nghĩ ra cách nào hay hơn. Nhưng đến cuối tháng Hai, lòng thương hại ấy đã chấm dứt. Thật ra cũng nên thế. Tôi chưa bao giờ cảm thấy thoải mái khi nhận quà của người khác, vì họ không biết chính chúng tôi đã lên đạn và đặt súng vào tay cô ấy.

Nên sau giờ học, Takumi chở chúng tôi đến tiệm rượu “Chúng Tôi Đáp Ứng Nhu Cầu Tinh Thần Của Bạn” Coosa. Trưa hôm đó, Takumi và tôi đã nhận được kết quả thảm hại của bài thi học kì quan trọng đầu tiên của môn toán học dự bị. Chắc vì Alaska không còn ở đấy để dạy kèm chúng tôi quanh một đống khoai tây McKhông- Nuốt-Nổi, và cũng vì chẳng có thằng nào học hành đàng hoàng, chúng tôi đều có nguy cơ bị gửi bảng điểm về nhà.

“Vấn đề là tao không thấy môn này thú vị,” Takumi thản nhiên nói.

“Hơi khó giải thích chuyện đó cho giám đốc tuyển sinh ở Havard,” Đại Tá đốp lại.

“Tao không biết,” tôi nói. “Tao thấy nó khá hấp dẫn.”

Và chúng tôi bật cười, nhưng tiếng cười dần biến thành bầu không khí im lặng ngột ngạt, và chúng tôi biết tất cả đều đang nghĩ về cô ấy, đã chết và tắt ngóm tiếng cười, cơ thể lạnh băng, không còn là Alaska nữa. Ý nghĩ rằng Alaska không còn nữa vẫn khiến tôi sững sờ mỗi lần nghĩ đến. Cô ấy đang thối rữa dưới lòng đất ở Trạm Vine, Alabama, tôi nghĩ, nhưng cũng chẳng chính xác. Xác cô ấy nằm đó, nhưng cô ấy không ở đâu cả, không là gì hết, BÙM.

Khoảng thời gian vui vẻ nhất dường như luôn đi kèm nỗi buồn, bởi vì khi chúng tôi nhận ra cuộc đời có ý nghĩa như thế nào khi cô ấy ở bên cũng là lúc chúng tôi biết rằng cô ấy đã hoàn toàn biến mất thật rồi.

Tôi mua thuốc hút. Tôi chưa bao giờ đặt chân vào tiệm rượu Coosa, nhưng nó tiêu điều y chang Alaska đã tả: sàn gỗ bụi bặm kêu cót két trong lúc tôi đi đến quầy tính tiền, và tôi thấy một thùng rượu lớn đựng đầy nước mặn đúng ra phải chứa MỒI SỐNG, nhưng thực tế chỉ toàn những cá tuế đã chết nổi lềnh bềnh. Người phụ nữ đứng sau quầy nhe bốn cái răng cười với tôi lúc tôi bảo bà bán cho một hộp Marlboro Lights.

“Cậu học Culver Creek hở?” bà hỏi, và tôi không biết mình nên nói thật hay không, vì không thằng học sinh cấp ba nào mười chín tuổi cả, nhưng bà cầm lấy một hộp thuốc ở dưới và đặt nó lên quầy mà không hỏi thẻ căn cước, nên tôi đáp, “Vâng ạ.”

“Học hành thế nào?” bà hỏi.

“Ổn ạ,” tôi trả lời.

“Nghe bảo mới có người ở đó chết.”

“Vâng,” tôi nói.

“Ta rất tiếc về chuyện đó.”

“Vâng.”

Người phụ nữ, tôi không biết tên vì đây không phải loại cửa hàng sẽ tốn tiền làm thẻ tên nhân viên, có một cọng lông trắng dài mọc từ nốt ruồi trên má trái. Không gớm ghiếc, không hẳn, nhưng tôi không thể ngưng liếc nó rồi nhìn đi chỗ khác.

Sau khi quay lại xe, tôi đưa một hộp thuốc lá cho Đại Tá.

Chúng tôi kéo cửa sổ xuống, dù cái lạnh tháng Hai rét cắt da mặt và tiếng gió ào ào khiến chúng tôi không thể nói chuyện với nhau. Tôi ngồi ở một góc và hút thuốc, tự hỏi vì sao bà già ở tiệm rượu Coosa không giật đứt cọng lông khỏi nốt ruồi cho rồi. Gió thổi qua cứa sổ để mở của Takumi ở đằng trước và táp vào mặt tôi. Tôi nhích vào chính giữa ghế sau và ngước nhìn Đại Tá ở ghế cạnh tài xế, gã đang cười, quay mặt sang luồng gió thổi vào từ cửa sổ.