bảy ngày sau
TÔI Ở LỲ TRONG PHÒNG cả ngày, tắt tiếng chơi trò bóng bầu dục, cùng một lúc không thể làm gì và không muốn làm gì. Hôm ấỵ là ngày Vua Martin Luther, ngày nghỉ cuối cùng của chúng tôi trước khi vào học lại, và tôi không thể nghĩ gì khác hơn ngoài việc mình đã giết cô ấy. Đại Tá ở cùng tôi vào buổi sáng, nhưng rồi gã quyết định tới căn-tin ăn thịt bò xay kèm khoai tây nghiền.
"Đi thôi,” gã bảo.
“Không đói.”
“Mày phải ăn chứ.”
“Muốn cá không?” tôi nói, không rời mắt khỏi trò chơi.
“Quỷ thần ơi. Được rồi.” Gã thở dài và bỏ đi, dập cửa phía sau lưng. Gã còn rất giận, tôi thầm nghĩ với chút thương hại. Không việc gì phải tức giận cả. Cơn giận chỉ đánh lạc hướng bạn khỏi nỗi buồn vô biên, khỏi sự thật hiển hiện rằng bạn đã giết cô ấy và tước đoạt tương lai và cuộc sống tốt đẹp khỏi cô ấy. Tức giận chẳng cứu vãn được gì. Chết tiệt.
“Thịt bò và khoai tây thế nào?” tôi hỏi Đại Tá khi gã trở về.
“Như những gì mày nhớ. Không nhiều thịt hoặc khoai tây.” Đại Tá ngồi xuống cạnh tôi. “Đại Bàng ăn chung với tao. Ổng muốn biết có phải chúng ta đã đốt pháo không.” Tôi dừng trò chơi và quay sang gã. Bằng một tay, gã giật đứt miếng nhựa xanh vinyl cuối cùng trên cái ghế sofa nệm mút của chúng tôi.
“Và mày trả lời là?” tôi hỏi.
“Tao không mách lẻo. Dù sao đi nữa, ổng nói dì của Alaska hay ai đó sẽ tới vào ngày mai để dọn dẹp phòng nó. Nên nếu chúng ta có cái gì không muốn bả thấy ở trong phòng...”
Tôi quay lại với trò chơi và nói, “Hôm nay tao không có hứng.”
“Vậy tao sẽ làm một mình,” gã độp lại. Gã quay lưng bước ra ngoài, để cửa mở, và dư âm lạnh lẽo của câu nói gắt gỏng ấy nhanh chóng lấn át hơi ấm trong phòng, nên tôi dừng trò chơi và đứng dậy đóng cửa, và khi tôi lén nhìn xung quanh để xem Đại Tá có vào phòng cô ấy không, gã đã đứng đấy, ngay bên ngoài phòng, và gã tóm lấy áo len của tôi, mỉm cười, và nói, “Tao biết mày sẽ không bắt tao làm thế một mình. Tao biết mà.” Tôi lắc đầu và đảo mắt nhưng vẫn theo gã ra ngoài hành lang, băng qua bốt điện thoại, và vào phòng cô ấy.
Tôi đã không nghĩ về mùi của Alaska từ khi cô ấy qua đời. Nhưng khi Đại Tá mở cửa, tôi ngửi thấy thoang thoảng: đất ẩm và cỏ và khói thuốc lá, và ẩn sau chúng là dấu vết của kem dưỡng da hương vanilla. Cô ấy tràn vào bản thể của tôi, và phép lịch sự là thứ duy nhất ngăn tôi khỏi vùi mặt vào đống quần áo bẩn đang chất đống trong cái giỏ mây cạnh tủ quần áo. Căn phòng giống y hệt trí nhớ của tôi: hàng trăm chồng sách dựa vào tường, tấm mền màu tím của cô ấy nhàu nhĩ dưới chân giường, một chồng sách đặt tạm trên bàn đầu giường, ngọn núi lửa làm từ nến lấp ló ở dưới gầm giường. Nó trông như những gì tôi tưởng tượng, nhưng mùi hương, rõ ràng là của cô ấy, khiến tôi sững sờ. Tôi đứng giữa phòng, mắt nhắm nghiền, từ tốn hít thở, mùi vanilla và bãi cỏ mùa thu chưa cắt tỉa, nhưng với từng hơi thở chậm rãi, mùi hương ấy nhạt dần khi tôi bắt đầu quen với nó, và chẳng mấy chốc cô ấy lại biến mất.
“Tao không chịu nổi,” tôi nói một cách hiển nhiên, vì thật sự là thế. “Chúa ơi. Những cuốn sách cô ấy sẽ không bao giờ đọc. Thư Viện Cuộc Đời của cô ấy.”
“Chúng được mua ở garage sale và giờ chắc sắp đi đến một cái khác.”
“Cát bụi về với cát bụi. Garage sale về với garage sale,” tôi nói.
“Ờ. Được, vào việc thôi. Lấy hết những thứ dì của nó sẽ không muốn tìm thấy,” Đại Tá chỉ đạo, và tôi thấy gã quỳ xuống trước bàn học của cô ấy, ngăn tủ bên dưới máy tính được kéo ra, những ngón tay tí hon của gã lôi ra mấy tập sách được đóng lại. Quỷ thần ơi, nó giữ hết những bài văn đã viết. Mody-Dick. Ethan Frome.
Tôi đưa tay vào giữa đệm và khung giường để tìm đống bao cao su mà tôi biết cô ấy giấu cho những lần Jake đến thăm. Tôi đút chúng vào túi, và rồi đi đến tủ quần áo, lục lọi đồ lót của cô ấy để tìm chai rượu hay đồ chơi tình dục hoặc những thứ có Chúa biết. Tôi không thấy gì. Rồi tôi chuyển sang mấy cuốn sách, nhìn chằm chằm vào chúng, cuốn này đè lên cuốn kia, gáy nhô ra, bộ sưu tập văn học ngẫu nhiên đậm chất Alaska. Tôi muốn mang theo một cuốn, nhưng tôi không thể tìm thấy nó. Đại Tá đang ngồi trên sàn kế bên chiếc giường của cô ấy, đầu gã cúi rạp xuống, ngó nghiêng bên dưới khung giường. “Nó không để lại chai rượu nào, đúng chứ?” gã hỏi.
Và tôi suýt đã nói, Cô ấy chôn nó trong rừng cây cạnh sân bóng, nhưng tôi chợt nhận ra Đại Tá không biết, rằng cô ấy chưa bao giờ đưa gã đến bìa rừng và bảo gã đào tìm kho báu, rằng đấy là bí mật của riêng cô ấy và tôi, và tôi giữ nó cho mình như một vật lưu niệm, như thể việc chia sẻ ký ức có thể dẫn đến tàn phai.
“Mày có thấy cuốn Tướng quân giữa mê hồn trận ở đâu không?” tôi hỏi trong lúc lướt qua tiêu đề trên gáy những cuốn sách. “Trên bìa có nhiều màu xanh, tao nghĩ vậy. Một cuốn sách bìa mềm, và bị úng nước, nên trang giấy có thể hơi nhăn, nhưng tao không nghĩ cô ấy—” và rồi gã cắt ngang lời tôi bằng câu, “Ờ, ngay đây nè,” và tôi quay lại và gã đang cầm nó, trang giấy xòe ra như cây đàn xếp từ trò quậy phá của Longwell, Jeff và Kevin. Những đoạn cô ấy gạch chân và những ghi chú nhỏ cô ấy viết đã bị mờ vì ướt nước, nhưng cuốn sách gần như vẫn còn đọc được, và tôi đang định đem nó về phòng, và cố đọc dù đấy không phải một cuốn tiểu sử thì tôi lật tới trang đó, trang ở gần cuối:
Ông bị choáng ngợp trước sự thật rằng cuộc đua liều lĩnh giữa vận rủi và giấc mơ của mình sắp kết thúc ngay lúc đó. Phần còn lại là bóng tối. “Chết tiệt,” ông thở dài. “Làm sao ta thoát khỏi mê hồn trận này đây!”
Cả đoạn văn được gạch chân bằng mực đen nhòe nhoẹt, đẫm nước. Nhưng còn một vết mực nữa, vết mực màu xanh đầy quả quyết, sau trận lũ, và một mũi tên dẫn từ “Làm sao ta thoát khỏi mê hồn trận này đây!” đến một ghi chú ngoài lề bằng nét chữ thảo nhiều móc cong của cô ấy: Thẳng & Nhanh.
“Ê, cô ấy viết gì đó trong đây sau trận lũ này,” tôi nói. “Nhưng lạ lắm. Nhìn đi. Trang chín mươi hai.”
Tôi quăng cuốn sách cho Đại Tá, và gã lật tới trang đó và rồi ngẩng lên nhìn tôi. “Thẳng và nhanh,” gã nói.
“Ờ. Lạ nhỉ? Đường ra khỏi mê hồn trận, tao đoán thế.” “Khoan, chuyện xảy ra như thế nào? Chuyện gì đã xảy ra?” Và vì chỉ có chuyện đó thôi, tôi biết ngay gã đang nói tới điều gì. “Tao đã thuật lại với mày những gì Đại Bàng thuật lại với tao. Một cái xe tải chắn hết đường. Xe cảnh sát đến để giải quyết kẹt xe, và cô ấy tông vào cái xe cảnh sát đó. Cô ấy quá say nên đã không bẻ lái.”
“Quá say? Quá say? Cái xe cảnh sát chắc chắn phải bật đèn pha. Bé Bự, nó tông vào một cái xe cảnh sát đã bật đèn,” gã vội vã nói. “Thẳng và nhanh. Thẳng và nhanh. Thoát khỏi mê hồn trận.”
“Không,” tôi nói, nhưng ngay cả khi nói thế, tôi vẫn nhìn thấy nó. Tôi nhìn thấy cô ấy đủ say và đủ bực tức. (Về chuyện gì—về việc lừa dối Jake? về việc làm tổn thương tôi? Về việc muốn tôi và không phải anh ta? Vẫn còn bực vì đã mách lẻo Marva?) Tôi có thể thấy cô ấy nhìn chằm chằm cái xe cảnh sát và nhắm vào nó và cóc quan tâm đến bất kì ai, quan tâm đến lời hứa với tôi, quan tâm đến bố cô ấy hay người nào khác, và đồ ngốc đó, đồ ngốc đó, cô ấy đã tự sát. Nhưng không. Không. Đấy không phải cô ấy. Không. Cô ấy đã nói Lần sau tiếp tục. Dĩ nhiên. "Không.”
“Ờ, có lẽ mày đúng,” Đại Tá bảo. Gã buông cuốn sách, ngồi xuống cạnh tôi trên giường, và vùi trán vào tay. “Ai lại lái xe cách trường sáu dặm để tự sát chứ? Chẳng lý nào. Nhưng 'thẳng và nhanh.’ Linh cảm hơi lạ đúng không? Và chúng ta vẫn không biết rõ chuyện gì đã xảy ra, nếu mày nghĩ thật kỹ. Nó đang đi đâu, tại sao. Người nào đã gọi. Ai đó đã gọi, đúng không, hay là tao—”
Và Đại Tá tiếp tục nói, giải mã câu đố, trong khi tôi cầm cuốn sách lên và tìm đến trang mà tướng quân cuối cùng cũng kết thúc cuộc đua liều lĩnh của ông, và chúng tôi đều lạc lối trong suy nghĩ, khoảng cách giữa cả hai không thể nối liền, và tôi không thể lắng nghe Đại Tá, vì tôi đang bận nghi nhớ mùi hương phảng phất sau cuối của cô ấy, đang bận tự nhủ rằng đương nhiên là cô ấy đã không làm thế. Thủ phạm là tôi—tôi đã giết cô ấy, và Đại Tá cũng vậy. Gã có thể giải đố để thoái thác, nhưng tôi biết rõ hơn, biết rằng chúng tôi không thể là gì khác ngoài những kẻ tội đồ thực thụ, khó lòng tha thứ.
tám ngày sauTHỨ BA, CHÚNG TÔI ĐẾN LỚP lần đầu tiên. Madame O’Malley có một phút mặc niệm trước khi bắt đầu tiết tiếng Pháp, lớp học luôn bị ngắt quãng bởi những khoảng lặng kéo dài, và rồi bà hỏi chúng tôi đang cảm thấy thế nào.
“Tệ hại,” một cô nàng nói.
“En français,” Madame O’Malley đáp lại. “En francais”
Mọi thứ vẫn như cũ, nhưng lặng lẽ hơn: lũ Chiến Binh Ngày Thường vẫn ngồi trên băng ghế ngoài thư viện, nhưng cuộc nói chuyện của chúng giờ đã khẽ khàng và bớt náo nhiệt. Căn-tin vang vọng tiếng của khay nhựa đặt lên những chiếc bàn gỗ và tiếng nĩa lạo xạo trên đĩa, nhưng mọi cuộc đối thoại đều im lặng. Nhưng hơn tất thảy thinh lặng của mọi người là thinh lặng đáng ra phải thuộc về cô ấy, kẻ kể chuyện sôi nổi Alaska, nhưng thay vào đó, cảm giác giống như những lúc cô ấy thu mình lại, như khi cô ấy từ chối trả lời những câu như thế nào và tại sao, có điều lần này là mãi mãi.
Đại Tá ngồi cạnh tôi trong lớp tôn giáo, thở dài, và nói, “Mày hôi mùi thuốc lá Bé Bự à.”
“Làm như tao quan tâm không bằng.”
Tiến Sĩ Hyde đi vào lớp, bài thi cuối kỳ của chúng tôi kẹp một bên tay. Ông ngồi xuống, thở một tràng nặng nhọc, và bắt đầu nói. “Theo luật thì bố mẹ không cần phải chôn cất con cái mình,” ổng nói. “Và ai đó nên làm nó có hiệu lực. Học kỳ này, chúng ta sẽ tiếp tục học những truyền thống tôn giáo mà các em đã được giới thiệu qua vào mùa thu. Nhưng rõ ràng câu hỏi mà chúng ta sắp đề cập đến đây sẽ có ảnh hưởng tức thời hơn chúng đã từng chỉ vài ngày trước. Chuyện gì sẽ xảy ra với chúng ta sau khi chết, hiện tại, đã không còn là một câu hỏi vu vơ đơn thuần về triết học. Đấy là câu hỏi chúng ta phải tìm hiểu về một bạn cùng lớp. Và làm sao để sống trong cái bóng của tiếc thương không phải là một thứ vô danh mà các tín đồ Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo phải khám phá. Những câu hỏi về lý tưởng tôn giáo đã trở thành, tôi ngờ rằng, chuyện cá nhân.”
Ổng lật giở bài thi của chúng tôi, lấy ra một tờ từ xấp trước mặt. “Ở đây tôi có bài thi cuối kỳ của Alaska. Các em nhớ là mình đã được hỏi về câu hỏi quan trọng nhất của đời người, và ba truyền thống mà chúng ta đã học năm nay có liên quan như thế nào. Đây là câu hỏi của Alaska.” Với tiếng thở dài, ổng giữ chặt lấy ghế và nhấc người lên, đoạn viết lên bảng đen: chúng ta làm thế nào để thoát khỏi mê hồn trận khổ sở này đây?—A.Y.
“Tôi sẽ cho các em thời hạn đến cuối học kỳ,” ổng nói. “Bởi vì tất cả những người từng lạc lối giữa dòng đời đã cảm thấy sự đeo bám dai dẳng của câu hỏi ấy. Một lúc nào đó chúng ta đều sẽ ngẩng lên và nhận ra chúng ta đã lạc trong mê cung, và tôi không muốn chúng ta quên Alaska, và tôi không muốn quên rằng kể cả khi những gì chúng ta học có vẻ nhàm chán, chúng ta vẫn cố tìm hiểu xem người khác đã trả lời câu hỏi ấy và những câu hỏi mà các em đã viết trong bài luận thế nào – những truyền thống khác nhau đã làm quen với cái mà Chip, trong bài thi cuối cùng của trò ấy, đã gọi là ‘con nguời tha hóa rất nhiều trong cuộc sống.’”
Hyde ngồi xuống. “Thế, các em khỏe không?”
Đại Tá và tôi không nói gì, trong khi một đám người không hề quen biết Alaska tán dương những phẩm chất của cô ấy, và tỏ ra suy sụp, và thoạt tiên, họ làm tôi khó chịu. Tôi không muốn những nguời cô ấy không biết và những người cô ấy không thích, buồn làm gì. Họ chưa bao giờ quan tâm đến cô ấy, và giờ họ đang lải nhải như thể cô ấy là chị em gái trong nhà. Nhưng tôi đoán tôi cũng không biết rõ về cô ấy. Nếu tôi biết, hẳn tôi đã hiểu ý nghĩa câu “Lần sau tiếp tục nhé?” của cô ấy. Và nếu tôi đã quan tâm cô ấy như tôi nên làm, như tôi nghĩ mình đã làm, thì làm sao tôi có thể để cô ấy đi?
Nên họ không làm tôi khó chịu, không hẳn. Nhưng kế bên tôi, Đại Tá hít thở thật sâu và thật chậm bằng mũi như một con bò tót đang chuẩn bị tấn công.
Gã thật sự đã đảo mắt khi thằng Chiến Binh Ngày Thường Brooke Blakely, đã bị Alaska gửi bảng điểm về cho bố mẹ, nói rằng, “Em chỉ buồn vì em chưa bao giờ nói rằng em yêu cậu ấy. Em chỉ không hiểu vì sao."
“Tởm,” Đại Tá nói trong lúc chúng tôi đi ăn trưa. “Làm như Brooke Blakely quan tâm đến Alaska vậy.”
“Nếu Brooke Blakely chết, mày có buồn không?” tôi hỏi.
“Tao đoán là có, nhưng tao sẽ không than vãn về sự thật rằng tao chưa bao giờ nói rằng tao yêu nó. Tao không yêu nó. Nó là một con ngốc.”
Tôi nghĩ những người khác có lý do thích hợp để thương tiếc cô ấy hơn chúng tôi. Sau cùng thì, họ đã không giết cô ấy, nhưng tôi biết mình không nên thử nói thế với Đại Tá khi gã đang điên.
chín ngày sau“TAO CÓ MỘT GIẢ THUYẾT,” Đại Tá nói khi tôi bước vào phòng sau một ngày học hành khổ ải. Trời đã đỡ lạnh hơn, nhưng thông tin ấy chưa đến tai nhân viên phụ trách hệ thống sưởi, nên toàn bộ phòng học đều ngột ngạt và nóng bức, và tôi chỉ muốn chui vào giường và ngủ đến khi tới giờ được ngủ lần nữa.
“Hôm nay không thấy mày trong lớp,” tôi nói trong lúc ngồi xuống giường. Đại Tá ngồi ở bàn gã, khom người trên một cuốn sổ. Tôi nằm ngửa và kéo mền đắp kín đầu, nhưng Đại Tá không chịu thua.
“Ờ, phải, tao bận nghĩ ra giả thuyết, vốn không thực tế cho lắm, nhưng nó hợp lý. Nên, nghe này. Nó đã hôn mày. Đêm đó, có người gọi, Jake, tao đoán thế. Hai người cãi nhau về chuyện ngoại tình hay gì đó khác, ai biết. Nên nó thấy buồn, và nó muốn đi gặp anh ta. Nó quay lại phòng và khóc, và nó nhờ tụi mình giúp nó rời khỏi trường. Và nó hoảng lên, vì, tao không biết nữa, có thể vì nếu nó không thể đi thăm thì Jake sẽ chia tay với nó. Đấy chỉ là lý do về mặt giả thuyết. Nên nó rời khỏi trường, say xỉn và bực tức, và nó giận bản thân mình vì cái khỉ gì đó, rồi nó đang lái xe trên đường và thấy cái xe cảnh sát và đùng một phát mọi thứ chợt sáng tỏ và lời giải cho mê hồn trận bí ẩn của nó đang ở ngay trước mặt và nó chỉ làm theo, thẳng và nhanh, chỉ nhắm vào cái xe cảnh sát và không bẻ lái, không phải vì nó say rượu mà là vì nó tự sát.”
“Thật nực cười. Cô ấy không nghĩ về Jake hay cãi nhau với Jake gì cả. Cô ấy đang ân ái với tao. Tao cố nhắc đến Jake, nhưng cô ấy chỉ suỵt tao.”
“Vậy ai đã gọi nó?”
Tôi đá văng tấm mền và, tôi siết chặt nắm đấm, đập tay lên tường gằn theo từng chữ trong lúc hét, “TAO! KHÔNG! BIẾT! Và mày biết gì không, chẳng còn quan trọng nữa. Cô ấy chết rồi. Đại Tá thiên tài sẽ tìm ra chuyện gì đó để cô ấy bớt chết hơn sao?” Nhưng điều đó quan trọng, dĩ nhiên, đấy là lý do vì sao tôi vẫn tiếp tục đấm vào bức tường than xỉ của chúng tôi và vì sao những câu hỏi ấy lơ lửng trong không trung suốt cả tuần nay. Ai đã gọi? Chuyện gì đã xảy ra? Tại sao cô ấy lại đi? Jake đã không đến dự đám tang. Hay gọi chúng tôi để nói rằng anh ta rất tiếc, hoặc hỏi chúng tôi chuyện gì đã xảy ra. Anh ta chỉ biến mất, và dĩ nhiên, tôi thắc mắc. Tôi thắc mắc liệu cô ấy có ý định giữ lời hứa tiếp tục giữa chúng tôi không. Tôi thắc mắc ai đã gọi, và tại sao, và cái gì đã khiến có ấy buồn như vậy. Nhưng tôi thà thắc mắc hơn là nghe những câu trả lời mà mình không thể sống cùng.
“Có lẽ nó chỉ lái xe đến đó để chia tay với Jake thôi,” Đại Tá nói, giọng nói chợt không còn sắc sảo. Gã ngồi xuống mép giường của tôi.
“Tao không biết. Tao thật sự không muốn biết.”
“Ờ, thì,” gã nói. “Tao thì muốn biết. Bởi vì nếu nó biết nó đang làm gì thì, Bé Bự ạ, nó đã biến chúng ta thành đồng minh của nó. Và tao ghét nó vì thế. Ý tao là, lạy Chúa, nhìn tụi mình đi. Tụi mình thậm chí không thể nói chuyện với ai nữa. Nên nghe này, tao đã vạch ra một kế hoạch: Một. Nói chuyện với nhân chứng. Hai. Điều tra xem nó say đến thế nào. Ba. Điều tra xem nó đang đi đâu, và tại sao.”
“Tao không muốn nói chuyện với Jake,” tôi hờ hững nói, sớm từ bỏ những kế hoạch liên miên của Đại Tá. “Nếu anh ta biết, tao chắc chắn sẽ không muốn nói chuyện với anh ta. Và nếu anh ta không biết, thì tao cũng không muốn giả vờ là chuyện đó chưa từng xảy ra.”
Đại Tá đứng dậy và thở dài. “Mày biết không, Bé Bự? Tao thấy tội nghiệp mày. Thiệt đó. Tao biết mày đã hôn nó, và tao biết mày đau lòng vì việc đó. Nhưng ngậm miệng đi, thật đấy. Nếu Jake biết, mày sẽ không làm mọi chuyện tệ hơn. Và nếu anh ta không biết, anh ta sẽ không phát hiện ra. Nên thôi lo lắng về bản thân mày chừng một phút và nghĩ về người bạn đã chết của mày đi. Xin lỗi. Hôm nay tao mệt quá.”
“Không sao,’’ tôi nói, kéo mền trùm kín đầu trở lại. “Không sao,” tôi lặp lại. Và, gì cũng được. Mọi chuvện không sao. Bắt buộc phải thế. Tôi không thể đánh mất cả Đại Tá.
mười ba ngày sauVÌ PHƯƠNG TIỆN DI CHUYỂN CHÍNH CỦA CHÚNG TÔI giờ đã nằm dưới sáu tấc đất ở Trạm Vine, Alabama, Đại Tá và tôi buộc phải cuốc bộ đến Sở Cảnh Sát Pelham để tìm nhân chứng. Chúng tôi rời đi sau khi ăn tối ở căn-tin, đêm xuống rất nhanh và sớm, và chúng tôi lê bước lên Cao tốc 119 chừng một dặm rưỡi trước khi đến một tòa nhà một tầng trát vữa nằm giữa tiệm Waffle House và trạm xăng.
Bên trong, một cái bàn dài cao ngang vùng bụng dưới của Đại Tá ngăn chúng tôi với đồn cảnh sát thật sự, gồm ba sĩ quan mặc đồng phục ngồi ở ba cái bàn, tất cả đều đang nói chuyện điện thoại.
“Tôi là anh trai của Alaska Young,” Đại Tá dõng dạc tuyên bố. “Và tôi muốn nói chuyện với viên cảnh sát đã chứng kiến nó chết.”
Một người đàn ông nhợt nhạt, gầy gò với bộ râu vàng hoe đỏ nói nhanh vào điện thoại rồi cúp máy. “Ta đã thấy cô nhỏ,” ông ta nói. “Cô nhỏ đâm vào xe tuần tra của ta.”
“Chúng tôi nói chuyện với chú ở ngoài được không?” Đại Tá hỏi.
“Được.”
Viên cảnh sát chộp lấy áo khoác và đi về phía chúng tôi, và trong lúc ông ta đến gần, tôi thấy những mạch máu màu xanh dưới lớp da trong suốt trên khuôn mặt. Với một cảnh sát mà nói, dường như ông ta không hay ra ngoài. Một khi bước ra, Đại Tá nhóm một điếu thuốc.
“Nhóc mười chín tuổi chưa?” viên cảnh sát hỏi. Ở Alabama, bạn được kết hôn lúc mười tám tuổi (mười bốn với sự chấp thuận của bố mẹ), nhưng bạn phải đủ mười chín tuổi mới được hút thuốc.
“Cứ phạt tôi đi. Tôi chỉ muốn biết chú đã thấy gì.”
“Ta thường làm việc từ sáu giờ tối đến nửa đêm, nhưng bữa đó ta đang trực ca ba. Chúng ta nhận điện báo về một một chiếc xe tải chắn đường, và ta chỉ cách đấy chừng một dặm, nên ta lái tới đó, và ta vừa ngừng lại. Ta vẫn đang ở trong xe tuần tra, và ta nhìn thấy đèn pha từ góc mắt, và đèn của ta đang sáng và ta bật còi báo động, nhưng ánh đèn cứ lao vào ta, con trai ạ, và ta nhanh chóng chui ra và chạy khỏi xe và cô nhỏ đâm sầm vào ta. Ta gặp qua nhiều rồi, nhưng chưa bao giờ thấy chuyện gì như thế. Cô nhỏ không bẻ lái. Cô nhỏ không đạp thắng. Chỉ tông thẳng vào ta. Ta đứng cách xe tuần tra chưa đầy ba mét khi cô nhỏ tông phải nó. Ta tưởng mình tiêu đời rồi, nhưng ta vẫn ở đây.”
Lần đầu tiên, giả thuyết của Đại Tá có vẻ hợp lí. Cô ấy không nghe tiếng còi hụ? Cô ấy không thấy đèn pha? Cô ấy đủ tỉnh táo để hôn một cách thuần thục, tôi nghĩ. Chắc chắn cô ấy phải đủ tỉnh táo để bẻ lái.
“Chú có thấy mặt nó trưóc khi nó tông vào chú không? Nó có ngủ gục không?” Đại Tá hỏi.
“Ta không thể trả lời câu này được. Ta không thấy cô nhỏ. Không có nhiều thời gian.”
“Tôi hiểu. Lúc chú đến chỗ chiếc xe thì nó đã chết rồi?” gã hỏi.
“Ta…ta làm mọi thứ có thể. Ta chạy tới chỗ cô nhỏ ngay, nhưng vô-lăng đã…ờ thì, kiểu, đâm vào người, ta nghĩ dù có nới lỏng vô-lăng thì cũng không thể lôi cô nhỏ ra khỏi cái xe đó mà còn sống. Nó gần như đã nghiền nát lồng ngực của cô nhỏ, hiểu chứ.”
Tôi nhăn mặt trước hình ảnh đó. “Cô ấy có nói gì không?” tôi hỏi.
“Lúc ấy cô nhỏ chết rồi, con trai,” ông ta nói, lắc đầu, và hi vọng cuối cùng về lời trăn trối của tôi tan biến.
“Chú có nghĩ đấy là tai nạn không?” Đại Tá hỏi trong lúc tôi đứng cạnh gã, hai vai xịu xuống, muốn hút thuốc nhưng không dám bạo dạn như gã.
“Ta đã làm cảnh sát ở đây hai mươi sáu năm, và ta thấy nhiều bợm nhậu hơn hai nhóc có thể đếm được, và ta chưa bao giờ thấy ai say đến mức không thể bẻ lái. Nhưng ta không biết. Nhân viên pháp y nói đó là tai nạn, và có lẽ đúng vậy. Không phải nghề của ta, hai nhóc biết đấy. Ta đoán giờ đó là bí mật giữa cô nhỏ và Chúa trời.”
“Cô ấy say cỡ nào?” Tôi hỏi. “Ý cháu là, họ có kiểm tra cô ấy không?”
“Ờ. Nồng độ rượu trong máu là hai mươi bốn. Rõ ràng là say rượu. Say quắc cần câu.”
“Còn gì khác trong xe không?” Đại Tá hỏi. “Bất cứ thú gì, ừm, bất thường mà chú nhớ?”
“Ta nhớ có mấy cuốn cẩm nang của các đại học, mấy trường ở Maine và Ohio và Texas. Ta đã tự nhủ rằng cô nhỏ này hẳn là học sinh Culver Crick và điều đó thật buồn, một cô nhỏ như thế mong được vào đại học. Đáng tiếc vô cùng. Và những bông hoa. Ở ghế sau của cô nhỏ có những bông hoa. Giống được mua từ một người bán hoa. Tulip.”
Tulip? Ngay lập tức tôi nghĩ đến những bông hoa tulip Jake đã tặng cô ấy. “Chúng màu trắng phải không ạ?” tôi hỏi.
“Chính xác,” viên cảnh sát trả lời. Tại sao cô ấy lại mang theo mấy bông hoa của anh ta? Nhưng viên cảnh sát sẽ không có câu trả lời cho việc ấy.
“Ta mong hai nhóc sẽ tìm ra cái mình đang tìm. Ta cũng đã nghĩ về nó, vì ta chưa bao giờ gặp phải chuyện nào như vậy. Ta đã suy nghĩ rất nhiều, biết đâu nếu ta khởi động xe thật nhanh và chạy đi, cô nhỏ đã không sao. Biết đâu đã có thời gian. Giờ thì chẳng biết. Nhưng điều đó không còn quan trọng nữa, đối với ta, dù là tai nạn hay không thì cũng rất đáng tiếc.”
“Chú không thể làm gì khác đâu,” Đại Tá khẽ nói. “Chú đã làm đúng nhiệm vụ, và chúng tôi cảm ơn chú.”
“Ừ. Cảm ơn. Hai nhóc đi đi, và nhớ cẩn thận, và cứ hỏi ta nếu có gì thắc mắc. Đây là danh thiếp của ta nếu hai nhóc cần.”
Đại Tá nhét tấm danh thiếp vào cái ví da giả của gã, đoạn chúng tôi đi bộ về nhà.
“Tulip trắng,” tôi nói. “Tulip của Jake. Tại sao?”
“Năm ngoái, có lần tao và Takumi và nó đang ở Trũng Hút Thuốc, và có một bông hoa cúc trắng bên bờ con lạch, và bất thình lình nó nhảy xuống vùng nước ngập đến hông và lội sang bên kia để hái. Nó cài hoa lên sau tai và khi tao hỏi, nó bảo bố mẹ nó luôn cài hoa lên tóc nó lúc nó còn nhỏ. Có thể nó muốn chết cùng những bông hoa trắng.” “Có thể cô ấy đang đi trả chúng cho Jake,” tôi nói.
“Có thể. Nhưng viên cảnh sát vừa rồi rõ ràng đã thuyết phục được tao rằng đấy có thể là một vụ tự tử.”
“Có thể chúng ta chỉ nên để cô ấy chết yên thân,” tôi nói, cảm thấy bực bội. Dường như chúng tôi không thể tìm ra thứ gì để khiến cho mọi thứ khá hơn, và tôi không thể giũ bỏ hình ảnh vô-lăng xộc vào ngực cô ấy ra khỏi tâm trí, ngực cô ấy “gần như bị nghiền nát” trong khi cô ấy hít hơi thở cuối cùng sẽ không bao giờ đến, và không, chuyện này không khiến cho mọi thứ khá hơn. “Nếu cô ấy tự tử thật thì sao?” tôi hỏi Đại Tá. “Chúng ta cũng không bớt tội lỗi. Tất cả những gì điều đó làm chỉ là biến cô ấy thành một đứa tàn nhẫn, ích kỉ.”
“Lạy Chúa, Bé Bự. Mày có còn nhớ tính cách thật sự của nó không? Mày có nhớ nó có thể là đứa xấu xa ích kỷ thế nào không? Đấy là một phần trong nó, và mày từng hiểu rõ điều đó. Như thể bây giờ mày chỉ quan tâm đến hình tượng Alaska đã được mày tạo dựng vậy.”
Tôi tăng tốc, đi trước Đại Tá trong im lặng. Và gã không biết được, vì gã không bị bỏ lại với một lời hứa không thể giữ, vì gã không phải tôi. Chết tiệt, tôi nghĩ, và lần đầu tiên, tôi tưởng tượng đến chuyện trở về nhà, đổi Cơ Hội Lớn lấy những bạn cùng trường quen thuộc. Dù họ có lỗi gì, tôi nghĩ những người bạn cùng trường ở Florida cũng sẽ không bao giờ chết vì tôi.
Sau một khoảng cách đáng kể, Đại Tá chạy đuổi theo tôi và nói, “Tao chỉ muốn mọi thứ bình thường trở lại,” gã nói. “Mày và tao. Bình thường. Vui vẻ. Chỉ, bình thường. Và tao cảm giác nếu chúng ta biết—”
“Được, tao hiểu,” tôi cắt ngang lời gã. “Tao hiểu. Chúng ta sẽ tiếp tục tìm kiếm.”
Đại Tá lắc đầu, nhưng rồi gã mỉm cười. “Tao vẫn luôn biết ơn sự sôi nổi của mày, Bé Bự. Và tao sẽ đi trước và giả vờ như mày vẫn còn có nó cho đến khi nó quay trở lại. Giờ hãy về nhà và tìm hiểu xem vì sao người ta lại tự tử nào.”
mười bốn ngày sauDƯỚI ĐÂY LÀ NHỮNG DẤU HIỆU CẢNH BÁO TỰ TỬ mà Đại Tá và tôi tìm được trên mạng:
Từng cố tự tử
Dọa sẽ tự tử
Cho đi những đồ vật quý giá
Thu gom và bàn luận những phương cách tự tử
Biểu cảm tuyệt vọng và giận dữ với bản thân và/hoặc thế giới
Viết, nói, đọc và vẽ về cái chết và/hoặc chứng trầm cảm
Bóng gió rằng họ sẽ không được nhớ đến nếu chết đi
Tự làm hại bản thân
Vừa mất bạn hoặc một thành viên trong gia đình vì qua đời hoặc tự tử
Học hành đột ngột giảm sút thê thảm
Rối loạn ăn uống, mất ngủ, ngủ quá giấc, nhức đầu kinh niên
Sử dụng (hoặc sử dụng quá liều) những chất trị liệu thần kinh
Mất hứng thú trong việc quan hệ, trong sở thích cá nhân và những hoạt động khác từng yêu thích
Alaska có hai trong số những triệu chứng đó. Cô ấy đã mất mẹ, dù không phải mới đây. Và thói quen uống rượu lúc nào cũng bình ổn của cô chắc chắn đã nghiêm trọng hơn trong một tháng cuối đời. Cô ấy cũng nói về chuyện chết, nhưng luôn ra vẻ nửa đùa nửa thật.
“Tao toàn đùa bỡn về cái chết,” Đại Tá nói. “Tuần trước tao đùa là sẽ lấy cà-vạt thắt cổ. Và tao đã không làm. Nên cái đó không tính. Và nó chẳng tỏ vẻ gì hết, và chắc trăm phần trăm là nó không mất hứng quan hệ. Người ta phải cuồng quan hệ lắm mới hôn hít với cái thằng ốm yếu như mày.”
“Vui đấy,” tôi nói.
“Tao biết. Quỷ thần ơi, tao là một thiên tài. Và điểm số của nó rất tốt. Và tao không nhớ nó có nói đến chuyện tự sát bao giờ.”
“Có một lần, với mấy điếu thuốc, nhớ không? Các cậu hút để thưởng thức. Mình hút để chết.”
“Đấy là một câu đùa.”
Nhưng khi bị Đại Tá thúc ép, có lẽ vì muốn chứng minh cho gã thấy rằng tôi vẫn nhớ về Alaska như con người thật sự của cô ấy chứ không phải như hình tượng tôi muốn cô ấy trở thành, tôi liên tục chuyển hướng cuộc đối thoại về những lúc cô ấy xấu tính và ẩm ương, khi cô ấy không có hứng thú trả lời những câu hỏi thế nào, khi nào, ở đâu, tại sao hoặc chuyện gì. “Cô ấy có vẻ vô cùng giận dữ,” tôi nói toạc suy nghĩ của mình.
“Cái gì, và tao thì không à?” Đại Tá độp lại. “Tao điên tiết lên đây, Bé Bự. Và gần đây mày cũng không phải mẫu điềm tĩnh điển hình, và mày không định tự tử. Khoan, mày có ý định đó không?”
“Không,” tôi nói. Và có thể đấy chỉ là vì Alaska không thể đạp thắng và tôi không thể đạp chân ga. Có thể cô ấy có lòng gan dạ quái gở mà tôi thiếu, nhưng không.
“Tốt, tốt. Nên là, nó vui buồn thất thường, từ lửa và lưu huỳnh đến khói và tro tàn. Nhưng một phần, ít nhất là trong năm nay, là vì vụ Marya. Nghe này, Bé Bự; rõ ràng nó không nghĩ đến chuyện tự tử khi nó đang hôn mày. Sau đó, nó ngủ đến khi điện thoại reng. Nên nó quyết định tự tử vào lúc nào đó giữa cái điện thoại reng và cú va đập, hoặc đấy thật là một tai nạn.”
“Nhưng tại sao lại phải lái xa trường sáu dặm để chết?” tôi hỏi.
Gã thở dài và lắc đầu. “Nó thích bí ẩn mà. Có lẽ nó muốn như vậy.” Tôi bật cười, và Đại Tá hỏi. “Gì?”
“Tao chỉ đang nghĩ – Sao mày lại đâm sầm vào một cái xe cảnh sát bật đèn pha? và rồi tao nghĩ, À, Cô ấy ghét những người có chức quyền.”
Đại Tá cười khanh khách. “E, coi kìa. Bé Bự đã nói đùa!”
Mọi thứ gần như trở lại bình thường, và khoảng cách giữa tôi với sự cố dường như đã bốc hơi và tôi thấy mình quay lại phòng thể dục, nghe báo tin dữ lần đầu tiên, nước mắt của Đại Bàng nhỏ xuống quần ống, và tôi quay sang nhìn Đại Tá và nghĩ về hàng giờ đồng hồ chúng tôi đã ngồi trên cái ghế sofa nệm mút này suốt hai tuần qua, tất cả những gì cô ấy đã phá hủy. Bực đến mức không khóc được, tôi nói, “Điều này chỉ làm tao ghét cô ấy. Tao không muốn ghét cô ấy. Và đấy là vấn đề, nếu đấy là tất cả những gì nó tác động lên tao?” Vẫn từ chối trả lời những câu hỏi thế nào và tại sao. Vẫn khăng khăng giữ lấy bầu không khí bí ẩn.
Tôi ngả người tới, đầu vùi vào giữa hai đầu gối, và Đại Tá đặt một tay lên lưng tôi. “Vấn đề là chúng ta luôn có câu trả lời, Bé Bự ạ.” Và rồi đôi môi mím chặt của gã thở phù và tôi có thể nghe được cơn giận run rẩy trong giọng nói khi gã lặp lại. “Chúng ta luôn có câu trả lời. Chúng ta chỉ cần đủ thông minh. Trên mạng nói những vụ tự tử thường được lập sẵn kế hoạch kỹ lưỡng. Nên rõ ràng là nó không tự tử.” Tôi thấy xấu hổ khi vẫn còn suy sụp sau hai tuần trong lúc Đại Tá có thể hồi phục một cách thật kiên cường, và tôi ngồi dậy.
“Được, hiểu rồi” tôi đáp. “Không phải tự tử.”
“Dù nói là tai nạn cũng không hợp lý,” Đại Tá bảo. Tôi cười. “Chúng ta đúng là đang có tiến triển ấy nhỉ.” Chúng tôi bị cắt ngang bởi Holly Moser, đàn chị tôi biết từ trước nhờ lén xem chân dung khỏa thân hồi Lễ Tạ ơn với Alaska. Holly chơi với bọn Chiến Binh Ngày Thường, vốn là lý do trước đó tôi chỉ nói chừng hai từ với chị ta, nhưng chị ta bước vào phòng mà không thèm gõ cửa và nói rằng chị ta vừa nhận được một dấu hiệu bí ẩn từ Alaska.
“Chị đang ở Waffle House, và đột nhiên đèn đóm tắt hết ngoại trừ, ờ, cái đèn trên bàn của chị, nó bắt đầu nhấp nháy. Nó sáng chừng một giây rồi tắt ngúm rồi lại sáng lên vài giây rồi lại tắt. Và chị nhận ra, hai chú biết đấy, là Alaska. Chị nghĩ nó đang cố nói chuyện với chị bằng mã Morse. Nhưng, ờ, chị không biết mã Morse. Chắc nó không biết vụ đó. Dù sao đi nữa, chị nghĩ là các chú nên biết.”
“Cảm ơn,” tôi đáp cụt lủn, và chị ta đứng yên một lúc, nhìn chằm chặp chúng tôi, miệng hé mở như muốn nói gì, nhưng rồi Đại Tá nhìn lại chị ta bằng đôi mắt lờ đờ, gã hất cằm, lộ vẻ chán ghét thấy rõ. Tôi hiểu cảm giác của gã: Tôi không tin chuyện hồn ma dùng mã Morse để liên lạc với những người họ chưa bao giờ ưa. Và tôi ghét cái khả năng rằng Alaska lại cho người khác bình yên chứ không phải tôi.
“Chúa ơi, những ả như thế không nên sống làm gì,” gã nói sau khi chị ta rời đi.
“Ngu thật đấy.”
“Không chỉ ngu đâu, Bé Bự. Ý tao là, làm như Alaska sẽ nói chuyện với Holly Moser vậy. Quỷ thần ơi! Tao không chịu nổi lũ tiếc thương giả tạo này. Con mụ ngu dốt.”
Tôi suýt đã bảo gã Alaska sẽ không muốn gã gọi bất kỳ người phụ nữ nào là con mụ, nhưng cãi nhau với Đại Tá chẳng ích lợi gì.
hai mươi ngày sauHÔM ẤY LÀ CHỦ NHẬT, và Đại Tá và tôi quyết định không đến căn-tin ăn tối, thay vào đó chúng tôi đi bộ khỏi trường và băng qua Cao tốc 119 đến tiệm tạp hóa Sunny Konvenience, nơi cả hai thưởng thức một bữa ăn cân bằng gồm hai cái bánh yến mạch nhân kem cho mỗi đứa. Bảy trăm calo. Đủ năng lượng cho một người đàn ông cầm cự nửa ngày. Chúng tôi ngồi trên lề đường trước cửa tiệm, và tôi ăn xong bữa tối sau bốn miếng.
“Ngày mai tao sẽ gọi Jake, nói mày biết trước. Tao lấy số anh ta từ Takumi.”
“Được thôi,” tôi nói.
Tôi nghe tiếng chuông leng keng ở phía sau và quay lại cánh cửa bật mở.
“Hai đứa đang tụ tập ở đây,” người phụ nữ vừa bán bữa tối cho chúng tôi nói.
“Bọn cháu đang ăn,” Đại Tá trả lời.
Người phụ nữ lắc đầu và ra lệnh, như thể nói với một con chó. “Biến đi.”
Nên chúng tôi vòng ra phía sau cửa tiệm và ngồi cạnh bãi rác hôi rình.
“Mày bỏ cái từ được thôi đó đi, Bé Bự. Nực cười hết sức. Tao sẽ gọi Jake, và tao sẽ viết lại tất cả những gì anh ta nói, và chúng ta sẽ cùng ngồi xuống và cố tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra.”
“Không. Mày tự đi mà làm. Tao không muốn biết chuyện gì đã xảy ra giữa cô ấy và Jake.”
Đại Tá thở dài và lôi một hộp thuốc hiệu Bé Bự Trả Tiền khỏi túi quần jean. “Tại sao không?”
“Vì tao không muốn! Tao có phải đưa cho mày một bài phân tích sâu sắc về tất cả những quyết định của tao không?” Đại Tá châm thuốc với cái hộp quẹt tôi mua và hít một hơi. “Sao cũng được. Tao cần tìm hiểu, và tao cần sự giúp đỡ của mày, vì chúng ta hiểu Alaska khá rõ. Thế đấy.” Tôi đứng dậy và nhìn gã đang hả hê ngồi, và gã thổi một làn khói mỏng vào mặt tôi, và tôi nhịn đủ rồi. “Tao chán nghe lệnh mày rồi, đồ tồi! Tao sẽ không ngồi lại với mày và bàn bạc những ưu điểm trong mối quan hệ của cô ấy với Jake, chết tiệt! Tao không thể nói rõ hơn nữa: Tao không muốn biết về họ. Tao đã biết những gì cô ấy nói với tao, và đấy là tất cả những gì tao cần biết, và mày cứ là một thằng khốn hợm hĩnh đến chừng nào mày muốn, nhưng tao sẽ không ngồi và tâm sự với mày về chuyện cô ấy yêu Jake đến mức nào! Giờ trả thuốc lá của tao lại đây.” Đại Tá ném hộp thuốc xuống đất và đứng dậy ngay lập tức, gã túm lấy áo len của tôi, cố kéo tôi xuống ngang bằng gã nhưng thất bại.
“Mày thậm chí còn không quan tâm đến nó!” gã hét lên. “Tất cả những gì mày nghĩ đến là mày và cái ảo mộng quý giá chết tiệt của mày rằng mày và Alaska đã có một mối tình vụng trộm dở hơi và nó sẽ bỏ Jake để đến với mày và chúng mày sẽ sống hạnh phúc mãi mãi. Nhưng nó hơn rất nhiều thằng, Bé Bự. Và nếu nó vẫn còn ở đây, chúng ta đều biết rằng nó vẫn sẽ là bạn gái của Jake và sẽ chẳng có gì ngoài rắc rối giữa tụi mày—không tình yêu, không tình dục, chỉ mày tương tư nó và nó sẽ chỉ nói, ‘Cậu đáng yêu lắm, Bé Bự ạ, nhưng mình yêu Jake.’ Nếu nó yêu mày đến thế, tại sao đêm đó nó lại bỏ mày? Và nếu mày yêu nó đến thế, tại sao mày lại giúp nó bỏ đi? Tao say rượu. Còn lý do của mày là gì?”
Đại Tá buông tay khỏi áo len của tôi, và tôi cúi xuống nhặt thuốc lá. Không la hét, dù tôi nghiến chặt răng, dù mạch máu nổi rõ trên trán tôi, tôi giữ bình tĩnh. Bình tĩnh. Tôi cúi xuống nhìn Đại Tá và nói, “Chết tiệt.”
Tiếng hét nổi gân đến sau đó, sau khi tôi chạy qua Cao tốc 119 và băng qua kí túc xá lẫn sân bóng và đến con đường đất dẫn tới cây cầu, khi tôi thấy mình đứng ở Trũng Hút Thuốc. Tôi nhặt một cái ghế xanh và ném nó vào bức tường bê-tông, và tiếng nhựa đập lên bê-tông vọng lại bên dưới cây cầu trong lúc cái ghế nằm chỏng chơ, và rồi tôi nằm gác đầu gối lên dốc đứng và hét lên. Tôi hét vì Đại Tá là một thằng khốn hợm hĩnh yêu bản thân, và tôi hét vì gã nói đúng, vì tôi thật sự tin rằng tôi có một mối tình vụng trộm với Alaska? Cô ấy có yêu tôi không? Cô ấy sẽ bỏ Jake vì tôi chứ? Hay đấy chỉ là một phút bốc đồng khác của Alaska? Làm người cuối cùng được cô ấy hôn chẳng thấm tháp gì. Tôi muốn là người cuối cùng được cô ấy yêu. Và tôi biết tôi không phải là người đó. Tôi ghét Alaska vì đã bỏ đi đêm ấy, và tôi ghét bản thân mình, không phải vì tôi đã để cô ấy đi mà vì nếu có tôi là đủ, hẳn cô ấy đã không muốn rời đi. Cô ấy sẽ chỉ nằm với tôi và nói chuyện và khóc, và tôi sẽ lắng nghe và hôn lên nước mắt của cô ấy trong lúc chúng dâng lên trong mắt.
Tôi quay đầu và nhìn một trong những cái ghế nhựa nằm nghiêng. Tôi tự hỏi liệu sẽ có ngày tôi không còn nghĩ đến Alaska nữa không, tự hỏi liệu tôi có nên mong về khoảnh khắc cô ấy chỉ còn là một kí ức xa xăm, thứ duy nhất tôi nhớ là ngày giỗ của cô ấy, hoặc có thể là vài tuần sau, tôi chỉ nhớ đến nó khi đã quên mất.
Tôi biết tôi sẽ nhớ nhiều người chết hơn. Những cái xác chất chồng. Liệu bộ nhớ của tôi có đủ chỗ cho từng người một, hay tôi sẽ quên Alaska từng chút một qua từng tháng ngày còn lại trong cuộc đời.
Lần nọ, lúc mới bắt đầu năm học, Cô ấy và tôi đã đi xuống Trũng Hút Thuốc, và cô ấy đã nhảy vào con lạch Culver khi vẫn còn mang dép. Cô ấy đi qua con lạch, cẩn thận bước trên những tảng đá bám rêu, và nhặt một cành cây úng nước ở bên bờ. Trong lúc tôi ngồi trên khối bê-tông, hai chân đung đưa về phía mặt nước, cô ấy dùng cây lật ngược đá lên và chỉ ra những con tôm đang đớp mồi.
“Cậu nấu chín rồi hút sạch đầu chúng,” cô ấy hào hứng nói. “Đây là phần ngon nhất – phần đầu."
Cô ấy dạy tôi tất cả những gì tôi biết về tôm và hôn và rượu hồng và thơ. Cô ấy làm tôi thay đổi.
Tôi đốt một điếu thuốc và gằn giọng với con lạch. “Cậu không thể thay đổi mình và rồi bỏ đi,” tôi nói to với cô ấy. “Bởi vì trước đó mình rất ổn, Alaska. Mình ổn với một mình mình và những lời trăn trối và bạn trên trường, và cậu không thể cứ làm mình thay đổi rồi qua đời.” Vì cô ấy đã là hiện thân của Cơ Hội Lớn, cô ấy đã chứng minh rằng việc rời bỏ cuộc sống nhàm chán của tôi cho những cơ hội lớn hơn là xứng đáng, và giờ cô ấy đã biến mất và đi cùng cô ấy là niềm tin của tôi vào cơ hội. Tôi có thể gọi tất cả những điều Đại Tá nói và làm là “ổn.” Tôi có giả vờ rằng mình không quan tâm nữa, nhưng nó không bao giờ đúng nữa. Cậu không thể biến mình thành quan trọng và rồi chết đi, Alaska, bởi vì bây giờ mình đã thật sự đổi khác, và mình xin lỗi vì đã để cậu đi, đúng, nhưng cậu đã lựa chọn. Cậu để mình Không Cơ Hội, kẹt cứng trong cái mê hồn trận chết tiệt của cậu. Và giờ mình thậm chí còn không biết có phải cậu đã chọn lối thoát thẳng và nhanh ấy không, có phải cậu cố ý rời bỏ mình không. Và mình sẽ không bao giờ biết cậu, đúng chứ? Mình không thể nhớ, vì mình chưa bao giờ biết rõ.
Và trong lúc đứng lên về phòng để về giảng hòa với Đại Tá, tôi cố tưởng tượng cô ấy ngồi trên chiếc ghế đó nhưng tôi không thể nhớ cô ấy có vắt chéo chân hay không. Tôi vẫn có thể thấy cô ấy nhếch mép với nụ cười Mona Lisa nửa miệng ấy, nhưng tôi không thể mường tượng đôi tay cô ấy đủ rõ để thấy cô ấy cầm một điếu thuốc. Tôi cần, tôi quyết định, thật sự thấu hiểu cô ấy, vì tôi cần nhiều hơn để tưởng nhớ. Trước khi tôi bắt đầu quá trình quên lãng hổ thẹn rằng cô ấy đã sống và chết như thế nào và tại sao, tôi cần phải khám phá chúng: Thế nào. Tại sao. Khi nào. Ở đâu. Chuyện gì.
Ở Phòng 43, sau màn xin lỗi và tha thứ chóng vánh, Đại Tá nói, “Chúng ta đã ra một quyết định mang tính chiến thuật là hoãn gọi điện cho Jake. Chúng ta sẽ theo đuổi những con đường khác.”
hai mươi mốt ngày sauTRONG LÚC TIẾN SĨ HYDE lê bước vào lớp sáng hôm sau, Takumi ngồi xuống cạnh tôi và viết một ghi chú bên lề cuốn vở của cậu ta. Ăn trưa ở McKhông-Nuốt-Nổi, ghi chú viết.
Tôi nguệch ngoạc chữ Được vào vở và rồi lật sang trang trống khi Tiến Sĩ Hyde khởi sự nói về Sufi Giáo, bè phái thần bí của Hồi Giáo. Tôi chỉ mới đọc lướt bài học, tôi học vừa đủ để khỏi rớt môn, nhưng trong lúc đọc lướt, tôi đã bắt gặp những lời trăn trối hay tuyệt. Một người Sufi mặc trang phục rách rưới đi vào một cửa tiệm trang sức do một nhà buôn giàu có làm chủ và hỏi ông ta, “Ông có biết mình sẽ chết như thế nào không?” Nhà buôn trả lời, “Không. Không ai biết mình sẽ chết như thế nào cả.” Và người Sufi nói, “Ta biết đấy.”
“Như thế nào?” nhà buôn hỏi.
Và người Sufi nằm xuống, khoanh tay, rồi bảo, “Như thế này,” và chết, đoạn nhà buôn nhanh chóng từ bỏ cửa tiệm để sống một cuộc đời nghèo khó để theo đuổi hạnh phúc tâm hồn mà người Sufi quá cố đã đạt được.
Nhưng Tiến Sĩ Hyde đang kể một câu chuyện khác, một câu chuyện tôi đã bỏ qua. “Karl Max từng gọi tôn giáo là ‘thuốc ru ngủ đám đông.’ Phật Giáo, tôn giáo đặc biệt được nhiều người theo, cam đoan hoàn thiện thông qua nhân quả. Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo hứa hẹn thiên đường miên viễn cho những giáo dân trung thành. Và đấy là liều thuốc hiệu nghiệm, dĩ nhiên, mong ước có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng vẫn còn một câu chuyện về người Sufi đã thách thức khái niệm con người luôn tin tưởng chỉ vì họ cần một bài thuốc ngủ. Rabe’a al-Adiwiyah, một thánh nữ vĩ đại của Sufi giáo, bị bắt gặp đang chạy quanh đường phố ở quê hương bà, Basra, một tay cầm ngọn đuốc và tay kia cầm xô nước. Khi có người hỏi bà đang làm gì vậy, bà trả lời “Ta sẽ lấy xô nước này và rưới lên hỏa ngục, và rồi ta sẽ dùng ngọn đuốc này để đốt hết cổng thiên đàng để con người không còn yêu Chúa Trời vì ham muốn thiên đàng hay sợ hãi địa ngục, mà vì ngài là Đấng Toàn Năng.’”
Một người phụ nữ mạnh mẽ đến nỗi thiêu cháy thiên đàng và nhấn chìm địa ngục. Alaska hẳn sẽ thích bà Rabe’a này, tôi viết vào trong sổ. Nhưng dẫu vậy, cuộc sống sau cái chết quan trọng với tôi. Thiên đàng và địa ngục và kiếp sau. Dù tôi muốn biết Alaska đã chết như thế nào, tôi vẫn muốn biết giờ này cô ấy đang ở đâu, nếu có ở đâu thật. Tôi thích tưởng tượng cô ấy đang nhìn xuống chúng tôi, vẫn nhận thức được chúng tôi, nhưng đấy dường như chỉ là mộng tưởng, và tôi chưa bao giờ thật sự cảm thấy nó, như Đại Tá đã nói ở tang lễ rằng cô ấy không ở đó, không ở đâu cả. Thật lòng tôi không thể tưởng tượng cô ấy thành ra thứ gì khác ngoài một xác chết, thân thể đang thối rữa ở Trạm Vine, phần còn lại là một hồn ma chỉ sống trong trí nhớ của chúng tôi. Như Rabe'a, tôi không nghĩ con người nên tin vào Chúa Trời chỉ vì thiên đàng và địa ngục. Nhưng tôi không muốn chạy loanh quanh với một ngọn đuốc. Bạn không thể đốt cháy một nơi chốn tưởng tượng được.
Sau giờ học, trong lúc Takumi nhặt nhạnh khoai tây ở McKhông-Nuốt-Nổi, chỉ ăn những miếng giòn nhất, tôi cảm nhận rõ rệt nỗi mất mát cô ấy, vẫn còn choáng váng với ý nghĩ rằng cô ấy không chỉ biến mất khỏi thế giới này mà còn ở mọi thế giới khác.
“Mày thế nào?” tôi hỏi.
“Ừa thì,” cậu ta đáp, miệng đầy khoai tây, “tao khỏe. Mày?”
“Không khỏe.” Tôi cắn một miếng bánh kẹp phô mai. Tôi được tặng một cái xe thồ bằng nhựa với phần Happy Meal, và nó nằm lật ngửa trên bàn, tôi quay tròn bánh xe. “Tao nhớ cô ấy,” Takumi nói, đẩy khay thức ăn ra xa, không thèm để tâm đến những miếng khoai tây mềm nhũn còn lại.
“Ừ. Tao cũng vậy. Tao xin lỗi, Takumi,” và tôi nói thế với nghĩa rộng nhất có thể. Tôi xin lỗi vì hai đứa đã ra nông nỗi này, quay bánh xe ở McDonald’s. Xin lỗi vì người đã đem chúng tôi lại gần nhau giờ đã chết. Xin lỗi vì đã để cô ấy chết. Xin lỗi vì tao đã không nói chuyện với mày vì mày không được biết sự thật về Đại Tá và tao, và tao ghét ở cạnh mày và giả vờ rằng sự tiếc thương của tao không có gì phức tạp, giả vờ rằng cô ấy đã chết và tao nhớ cô ấy thay vì cô ấy đã chết vì tao.
“Tao cũng thế. Mày hết hẹn hò với Lara rồi, phải không?”
“Tao nghĩ vậy.”
“Được. Nó kiểu cũng thắc mắc.”
Tôi đã lơ em ấy, nhưng lúc đó em cũng bắt đầu lơ lại tôi, nên tôi đoán mọi chuyện đã kết thúc, nhưng có lẽ không. “Chà,” tôi bảo Takumi, “Tao chỉ không thể, tao không biết nữa, mày ơi. Phức tạp lắm.”
“Hẳn rồi. Nó sẽ hiểu thôi. Chắc đó. Không sao hết.”
“Được.”
“Nghe này, Bé Bự. Tao…à, tao không biết, tệ quá hở?”
“Ừ.”