13. HỒ MÂY
Từ sáng sớm, cả bọn đi khám phá Hồ Mây. Mấy hôm nay, hết rắn, ong lại đến trăn khiến ai cũng có phần e sợ. Nhưng đi cùng Sơn lại khác. Nó giống như thổ công trong rừng. Thêm khẩu súng đạn đã lên nòng, loại đạn đầu nhọn có thể bắn chết cả hổ, đứa nào cũng vững dạ.
Điểm đến đầu tiên là Vườn Chim. Đó là một vùng nước nông phía đông bắc hồ. Chim đậu trắng trên cây. Chủ yếu là cò, vạc và những loài kiếm mồi trên nước. Những con chim này hót rất khó nghe. Có lẽ chúng cũng biết giọng của mình chả ra gì nên ít khi cất tiếng, trừ lúc đánh nhau tranh ăn. Tuy vậy, đâu đó trong khu vườn vẫn râm ran tiếng sơn ca, sáo sậu, chích chòe, cu gáy… Hay nhất là tiếng sơn ca, róc ra róc rách như tiếng suối, với rất nhiều cung bậc. Cao thì thánh thót tận trời xanh, thấp thì xào xạc như lá khô trong gió. Có cảm giác mỗi khi sơn ca cất tiếng, cả khu rừng đều im lặng.
Dù vườn rất nhiều chim, nhưng Sơn nói đó chỉ là một phần nhỏ. Giờ này chim đang đi kiếm ăn ở các nơi khác, chiều muộn mới trở về. Đến cuối thu, vườn còn nhiều chim hơn nữa. Đó là chim di cư từ phương Bắc. Có những đàn hạc tới hàng ngàn con. Mỗi con nặng bốn, năm cân. Bọn này rất dạn người.
Việt Bắc hỏi:
– Trong này có rắn không nhỉ?
– Nơi nào nhiều chim thì có rắn. Rắn ăn chim thì cũng có những con chim bắt rắn. Nhưng ở đây rắn không nhiều. Phải an toàn chim mới trú ngụ đông như vậy.
– Nếu đã có rắn thì nhiều hay ít cũng phải cẩn thận.
Linh hỏi Sơn:
– Mày và Sính vẫn mang súng vào trong này bắn chim à?
– Làm gì có nhiều đạn mà bắn chim. Súng săn chỉ dùng bắn thú lớn. Bọn tao đi săn bằng nỏ và bẫy.
– Ngày ở R*, tao cũng thấy mọi người bắn chim bằng nỏ và gài bẫy bắt thú.
•
Còn gọi Chiến khu R: Khu căn cứ Trung ương Cục Miền Nam ở Tây Ninh.
Tự Thắng hỏi:
– Trong Hồ Mây, chim nào ngon nhất?
– Ngon nhất là mòng két, rồi tới ngỗng trời, vịt trời và sâm cầm… Họ nhà vạc chỉ có mỗi con vạc rạ ngon.
Thảo chen vào:
– Hồ Tây cũng có nhiều chim sâm cầm. Hồi ở Trại Nhi đồng Miền Bắc, buổi sáng bọn em thấy hàng đàn bơi trên hồ.
– Tháng Mười một, khi có gió mùa Đông Bắc, sâm cầm mới bay về. Lúc đó mỗi con ước chừng chỉ vài ba lạng, ăn tanh mù. Tới cuối mùa, có con ngót nghét một cân, béo ngậy. Bây giờ không phải mùa sâm cầm, nhưng có lúc vẫn gặp một, hai con. Những con này bị thương ở cánh, không bay theo đàn được, phải bơi trên nước kiếm ăn. Con nào cũng gầy nhách.
– Bắn chim có khó không anh?
– Cũng tùy loại. Mỗi loại chim có một kiểu bắn khác nhau. Có loại bắn đón, có loại bắn đuổi. Nhanh nhất là chim dẽ giun. Khi nó bay mình không có cách gì bắn được. Cu gáy bay cũng nhanh.
– Hôm nay mình bắn chim gì anh?
– Hôm nay mình đi chơi thôi. Muốn bắn chim phải đến chỗ chúng kiếm ăn.
Tự Thắng gật đầu:
– Mày không nói đi săn nên tao cũng không mang theo đạn. Trong súng chỉ có một viên đạn nhọn, phòng gặp hổ.
Linh nhìn quanh rồi nói:
– Ở đây không có Cụ Phượng nào. Tao vẫn muốn bắn một Cụ. Không biết thịt Cụ Phượng ăn có ngon không?
Sơn sầm mặt:
– Mày đừng nghĩ bậy bạ.
Tự Thắng bấm Linh, đưa mắt ra hiệu đừng nói nữa. Linh bị ám ảnh bởi “nem công, chả phượng” nên thỉnh thoảng lại buột miệng thốt ra một câu mà Sơn cho là báng bổ. Từ khi vào Hồ Mây, Tự Thắng phát hiện Sơn rất sùng bái thánh thần, một thế giới xa lạ và bí ẩn với nó.
Tự Thắng nhớ lại một lần nó hỏi ba về chuyện thần linh.
– Ba có tin thần linh không ba?
Ba trả lời:
– Người cộng sản theo chủ nghĩa duy vật biện chứng nên không tin vào thần linh.
– Vậy những truyện kể trên trời có Thiên đường và các thần linh, dưới đất có Địa ngục và ma quỷ là bốc phét à ba?
– Ba chỉ biết ba người đã từng lên trời. Việt Nam là ông Thánh Gióng, Trung Quốc là hai chàng Lưu, Nguyễn*. Nhưng ba chẳng biết họ ở đâu để hỏi xem trên trời có gì. Còn địa ngục thì nhiều người đã xuống, nhưng chưa thấy ai quay về, nên cũng không biết dưới đó có ma quỷ không.
•
Lưu Thần và Nguyễn Triệu, hai nhân vật trong truyện thần thoại của Trung Quốc, lên núi Thiên Thai hái thuốc bị lạc vào cõi tiên.
– Nếu như không có thần linh và ma quỷ thì những câu chuyện cổ tích bọn con nghe kể là bịa à?
– Chuyện cổ tích là giấc mơ về những điều tốt đẹp. Con có thể tin. Còn chuyện thần linh và ma quỷ, tin hay không thì tùy, nhưng theo ba, tốt nhất không nên xúc phạm họ. Ngộ nhỡ lúc sang thế giới bên kia mới biết họ có thật thì sao. Chọc giận thần linh, có thể các vị ấy không chấp, chứ chửi ma quỷ thì nó bỏ ngay vào vạc dầu và đày xuống chín tầng địa ngục.
– Như thế thì vẫn có thể có trời, Phật và ma quỷ ạ?
– Theo như ba được học thì không có. Nhưng ba cũng không bảo những người tin vào trời, Phật là sai. Sở dĩ ba nói vậy vì ba đọc sách, thấy trong đó viết người cộng sản không tin vào tôn giáo nhưng không tuyên chiến với tôn giáo. Trong xã hội vẫn có rất nhiều người tin vào thần linh và cần tôn trọng tín ngưỡng của họ.
Vì vậy, thấy Sơn tỏ vẻ khó chịu ra mặt vì Linh đòi ăn thịt Cụ Phượng, Tự Thắng nghĩ thà tin Cụ Phượng là thần để được phù hộ còn hơn bắt Cụ ăn thịt. Nó bảo Linh:
– Tao cũng tin Cụ Phượng là thần linh hóa thành. Mày không được có ý định chén Cụ nữa. Ở đây thiếu gì chim để ăn mà phải bắn Cụ.
Sơn nhăn mặt:
– Mày nói như vậy cũng không nghe được. Dù không còn một con chim nào trong Hồ Mây cũng không được bắn Cụ.
Tự Thắng cười hì hì:
– Ừ, tao không nói thế nữa. Tất cả bọn mình nhất trí “Cụ Phượng là chim thần”. Nào, đập tay!
Nó giơ lòng bàn tay phải về phía trước. Thảo nhanh nhảu đập bốp một cái. Việt Bắc cũng nhoài đến đập. Linh ngần ngừ rồi cũng đập, dù hơi nhẹ. Thảo túm lấy tay Sơn. Vẫn còn đôi chút khó chịu, nhưng cuối cùng Sơn cũng đập. Đập xong nó cười. Tự Thắng thở phào. Không giải quyết chuyện này có khi chuyến đi chơi mất vui.
Sau khi bơi vòng quanh Vườn Chim, cả bọn lên bờ, đi sâu vào rừng hái quả, hái nấm. Khi gặp một loại quả lạ, nếu có đứa định ăn, bao giờ Sơn cũng nếm trước. Đầu tiên, nó nhìn xem quả trên cành có bị chim mổ hay chuột, sóc gặm không. Sau đó, nó nhặt những quả rụng và hạt được chim thú nhằn lại trên mặt đất quan sát rất kỹ. Cuối cùng, nó hái một quả, cắn thử từng chút một. Nếu miếng đầu tiên nghi ngờ là nó vứt ngay. Sơn thẳng tay vứt đi tất cả các loại nấm màu sắc sặc sỡ và có mùi thơm do Thảo hái. Nó bảo rắn độc cắn còn có thể chữa, chứ ăn phải nấm độc thì chỉ có nước lên bàn thờ. Để an toàn, tốt nhất là tránh xa những gì thơm và sặc sỡ.
Rời Vườn Chim, Sơn dẫn cả bọn đi thăm các hang động trong rừng. Tên các hang động do Sơn và Sính đặt khi tìm thấy. Mát nhất là Hang Gió . Cao nhất là Động Vái Giời . Đẹp nhất là Động Trảng Khuyết . Động Trăng Khuyết nằm chênh vênh bên vách núi, cạnh một dòng suối nhỏ, róc ra róc rách chảy qua các tầng đá. Trước cửa động có một cây cổ thụ. Việt Bắc phát hiện trên cây có mấy tổ ong mật khổng lồ, nằm giữa các tán lá rậm rạp. Mỗi tổ to bằng một cái nia. Nó hỏi Linh:
– Tổ ong cao quá, làm sao mình trèo lên hun khói được?
Linh đề xuất:
– Mình dùng đạn ghém bắn một phát vào tổ. Các vòi mật sẽ chảy xuống. Lúc đó chỉ cần trải nilon phía dưới hứng.
Sơn cười:
– Trong rừng thiếu gì tổ ong mà phải lấy ở đây. Nơi này nhiều hoa nhất rừng. Hoa cần ong và ong cần hoa. Để như vầy cho nó đẹp.
Thảo thì thầm hỏi Tự Thắng:
– Em thấy anh Sơn rất hay nói như vầy . Như vầy là gì hả anh?
– “Như vầy” là “như vậy” . Có thế mà cũng không biết.
– Người ở đây nhiều lúc nói nghe buồn cười anh nhỉ?
Tự Thắng mỉm cười, nhớ lại chuyện quả trám và quả bùi. Hôm đó Sơn mang về một túi trám đen. Quả trám hẳn hoi mà nó cứ gọi là “quả bùi”. Hai đứa cãi nhau kịch liệt. Để chứng minh, Sơn đi hái về một chùm quả màu xanh, nhưng ngắn và tròn hơn những quả nó gọi là bùi.
– Đây mới là quả trám. Trám ăn chát chứ không bùi như quả bùi.
Tự Thắng phản đối:
– Làm gì có chuyện trám ăn không bùi. Mày có biết câu thơ: “Mình về rừng núi nhớ ai. Trám bùi để rụng măng mai để già” * không? Ông Tố Hữu cũng khẳng định quả trám ăn “bùi” đấy thôi.
•
Thơ trong bài “Việt Bắc” của Tố Hữu.
Sơn không biết Tố Hữu là ông nào. Nó cãi:
– Ông Tố Hữu nói “trám, bùi để rụng” có nghĩa là “quả trám” và “quả bùi” bị rụng, chứ không phải quả trám ăn bùi. Quả bùi có hai màu, xanh và đen. Bùi đen quê tao ngon nhất vùng này. Ăn ngon hơn bùi xanh nhiều.
– Quê mày cực kỳ vô lý. Ai cũng gọi quả trám là quả trám, mỗi quê mày gọi quả trám là quả bùi.
– Nếu gọi quả bùi là quả trám thì biết gọi quả trám là gì?
– Thì gọi là quả bùi. Cái quả mày vừa mang về, ăn chát ấy!
– Đã ăn chát thì sao gọi là quả bùi được? Tao gọi ngược thế để cả làng chửi cho à?
Vì chuyện này mà hai đứa giận nhau. Cuối cùng, Tự Thắng cũng đành chấp nhận gọi quả trám là quả bùi, và quả bùi là quả trám. Hôm má lên thăm, Tự Thẳng nhờ Sơn hái cho một túi bùi đen để má mang về. Tự Thắng bị má mắng cho một trận vì tội ăn trám mãi rồi mà không biết tên. Rõ ràng quả trám lại dám bảo má là quả bùi.
Từ trên động Trăng Khuyết nhìn xuống, hoa nở rực rỡ trên vách đá. Rừng núi trùng điệp, đẹp như tranh vẽ. Sơn chỉ cho mọi người một loại thực vật trông giống như mộc nhĩ, màu xanh đậm trên vách đá tai mèo. Nó nói đó là rún đá. Loại này mọc rất nhiều trong các hốc đá sau cơn mưa. Dê rừng rất thích ăn rún đá. Sở dĩ dê núi Long Ẩn nổi tiếng vì chúng ăn rất nhiều các loại cây thuốc trên núi cao. Người ăn rún là bắt chước dê. Sơn nhặt một đám rún đá gói lại mang về. Rún đá nấu với canh cua giấm bỗng, ăn không chỉ ngon mà còn có tác dụng giải rượu.
Trên đường về, cả bọn đi qua những tòa si cổ thụ mọc trên hồ. Không biết có bao nhiêu cây si, vì không phân biệt được đâu là thân chính, đâu là những nhánh rễ buông lâu năm tạo thành thân. Cành si đan dọc, đan ngang, làm thành những cây cầu trên mặt nước. Tự Thắng nảy ra ý định rủ cả bọn chơi đuổi bắt. Năm đứa chuyền từ cành nọ sang cành kia, giống như lũ khỉ. Đầu tiên là một đuổi bốn, sau chuyển sang hai đuổi ba. Đứa bị bắt sẽ đổi vị trí cho người đuổi.
Chơi đuổi bắt chán, Sơn dẫn bốn đứa tới một khe núi câu cá chình. Mồi câu là nhái xanh. Cá chình suối thường ẩn trong các khe tối, ngách đá và thích mồi sống. Không ngờ người câu được cá không phải Sơn, mà là Linh. Con cá chình Linh giật được to bằng bắp chân, có màu vàng và những đốm nâu trên thân trông như những bông hoa. Thịt cá chình dai, chắc, thơm, béo nhưng không ngậy. Tự Thắng, Linh, Việt Bắc và Thảo vừa ăn vừa tấm tắc khen ngon. Sơn nói trong Hồ Mây còn có loại cá ngon hơn cá chình nhiều. Đó là cá tràu. Cá tràu vùng này rất nổi tiếng, ngày xưa dùng để tiến vua. Nghe nó tả, cả bọn ứa nước dãi. Cá chình ngon thế mà vẫn thua cá tràu thì không biết cá tràu ngon đến chừng nào.
Trăng lên, lấp ló trên đỉnh núi, rải ánh sáng bàng bạc xuống rừng già. Năm đứa lại lên bè ra rừng si. Dải ngân hà rắc xuống đáy hồ những vì sao lấp lánh. Lá si như những chiếc ô nhỏ giương lên che khuất ánh trăng, tạo nên một không gian huyền hoặc và những vùng sáng tối xen kẽ để cho những đứa con trai, con gái chơi trò trốn tìm. Sau khi mệt nhoài vì đuổi bắt, chúng chuyển sang chơi bắn bùm. Thảo và Tự Thắng một phe. Nếu không có Linh thì phe bên kia sẽ bị thua trắng vì Sơn quá lớ ngớ còn Việt Bắc lại chậm chạp và cồng kềnh… Cảm giác thú vị của trò chơi chiến tranh trên rừng si cổ thụ trong buổi tối kỳ diệu đó không chỉ cùng chúng đi vào giấc ngủ sau một ngày mệt nhoài, mà còn theo chúng trong những giấc mơ nhiều năm sau đó.
Sau này nhớ lại, cả bọn đều cho rằng quãng thời gian ở Hồ Mây là những ngày đẹp nhất trong tuổi thơ ngắn ngủi. Cuộc sống thật tuyệt diệu khi cả ngày được tự do rong chơi. Không phải ê a học các môn Văn, Toán, Khoa - Sử - Địa chán ngắt. Có thể nghịch đủ mọi trò mà không sợ phải lên Nhà Kỷ luật… Hồ Mây đúng là chốn thần tiên, là khu rừng cổ tích mà mọi đứa trẻ đều mơ ước.