← Quay lại trang sách

21. THUNG LÚA

Tự Thẳng không biết mình đã ngủ bao lâu. Khi thức dậy, nó kiểm tra ngấn nước và nhận thấy lũ đã rút. Theo Sơn, nên chờ một thời gian nữa cho nước xuống thêm, nhưng Tự Thắng sốt ruột, muốn ra sớm. Tới ngã ba, nơi lúc trước chiếc bè rẽ trái, nó hỏi Sơn:

– Mình quay trở lại cửa Hang Rồng để nghỉ hay đi tiếp.

– Theo tao thì đi tiếp. Rẽ trái đi. Đó là nhánh bên phải của Hang Rồng.

Đã có bài học nhớ đời nên khi rẽ vào nhánh hang mới, Tự Thắng chèo bè rất thận trọng. Vừa chèo, nó vừa vểnh tai lắng nghe tiếng nước chảy. Nhánh hang này hẹp và thấp, nhưng càng đi, hang càng sáng và chẳng mấy chốc đã thấy cửa ra. Trời vẫn mờ sương. Con bè xuôi theo dòng sông nhỏ, vào một vùng đất có rất nhiều cây gạo. Những cây cổ thụ già nua, mốc thếch, thân lởm chởm gai, gốc chừng hai người ôm. Những đóa hoa năm cánh đỏ như ngọn lửa chỉ còn lác đác trên cành cây trụi lá. Không biết ba đứa đã ở trong Hang Rồng bao lâu.

Lúc này Tự Thắng mới phát hiện Sơn đang lên cơn sốt. Nó lập tức dừng bè, giúp Sơn tháo băng kiểm tra vết thương. Mảng thịt lở loét của Sơn bốc mùi khá khó chịu. Chẳng cần có kiến thức về chữa bệnh, Tự Thắng cũng nhận ra vết thương đã bị nhiễm trùng. Sơn nói:

– Tao cần kiếm một số lá cây đắp vào vết thương.

– Mày tả để tao đi tìm.

– Chắc tao phải đi. Thung này có khá nhiều cây cối, xem có kiếm được gì không?

Tự Thắng nhìn Sơn, lắc đầu:

– Có mấy hôm mà mày gầy xọp. Để tao cõng.

Thảo xăng xái lục túi tìm gói đạn, chọn một viên lắp vào súng. Từ ngày bắn sơn dương, Thảo nghiễm nhiên coi mình là xạ thủ của nhóm. Nó nói:

– Em và anh Tự Thắng sẽ thay nhau cõng anh. Nhẹ hều à.

Ba đứa lên bờ, đi xuyên qua vùng đất la liệt những bông hoa gạo. Khác với lộc vừng, phượng vĩ, hoa gạo rụng nguyên bông. Không khí trong lành buổi sớm mai khiến Sơn tỉnh táo. Nó nói cây gạo chữa được khá nhiều bệnh. Vỏ có tác dụng thanh nhiệt giải độc, rễ chữa dạ dày, hoa dùng để tiêu mụn nhọt, chữa bỏng… Với Sơn, tất cả các loại cỏ cây hoa lá trên đời được chia làm hai loại: có thể sử dụng để chữa bệnh hoặc không. Sau một hồi tìm kiếm, Sơn cũng lấy được một số lá, nhưng tìm không thấy lá cây con khỉ. Nó tặc lưỡi và bảo quay về.

Thảo đun nước nóng, giúp Sơn rửa vết thương. Sơn đưa Thảo một nắm lá, nhờ giã nát để đắp vào chỗ loét trước khi băng lại. Nó giải thích loại lá này có tác dụng làm sạch và sát trùng, vết thương của Sơn tuy vào phần mềm nhưng khá sâu. Nếu đi trạm xá, chắc chắn phải khâu lại. Nhưng ông nó là thầy lang nên không dạy nó những thứ liên quan tới dao kéo và khâu vá. Việc không giữ gìn sạch sẽ khiến vết thương của Sơn ngày càng loét to và nhiễm trùng. Băng lại vết thương xong, Sơn lựa mấy thứ lá bỏ vào mũ, nhờ Thảo đun để uống. Nó có vẻ tiếc vì không có lá cây con khỉ. Dù Sơn bảo thôi, Tự Thắng vẫn quyết định rủ Thảo đi tìm lần nữa. Hai đứa đi sâu vào rừng. Đột nhiên, trước mắt chúng hiện ra một triền núi đầy hoa. Những bông hoa cánh mỏng, trắng như mây bồng bềnh trong gió mọc ra từ vách đá. Sương đêm còn đọng trên cánh hoa, long lanh như những hạt ngọc. Nhìn ánh mắt ngỡ ngàng, đầy thích thú của Thảo, Tự Thắng nói:

– Tìm lá cây con khỉ xong, anh sẽ bẻ cho em mấy cành.

– Em thích lắm, nhưng không được đâu. Chỗ này nguy hiểm quá anh ạ.

– Nếu em đã thích thì nguy hiểm đến mấy anh cũng hái tặng em.

Tự Thắng nói với Thảo một cách hồn nhiên và hoàn toàn vô thức. Lớn thêm chút nữa, nó sẽ hiểu nói kiểu này bị coi là buông lời tán tỉnh. Thế hệ của nó không được dạy về vấn đề giới tính và giao tiếp nam nữ một cách phù hợp. Ngay cả thầy cô và các bậc cha mẹ cũng chẳng được học hành về lĩnh vực này, đã thế lại mang nặng tư tưởng phong kiến, “nam nữ thụ thụ bất thân”*. Những hiểu biết về tâm sinh lý của bọn trẻ là do chúng tự mày mò, học hỏi lẫn nhau và thuận theo tự nhiên. Sở dĩ thỉnh thoảng Tự Thắng vô tình thốt ra một câu trơn tuột như vậy bởi những lời đó sẵn từ trong gien, trong máu, chứ kiểu “nịnh đầm” đó không ai dạy và không dạy được. Suy cho cùng, cũng là giỏ nhà ai, quai nhà nấy mà thôi. Tuy chưa có ý thức về chuyện ong bướm vo ve, nhưng nghe Tự Thắng nói, Thảo cũng cảm thấy hãnh diện. Bọn con gái rất dễ xúc động khi thấy ai đó vì mình bất chấp nguy hiểm. Thảo nhoẻn miệng cười: “Ôi, anh đáng yêu thế!” rồi chạy lại, kiễng chân, thơm nhẹ lên má Tự Thắng. Nếu ở chỗ khác chứ không phải giữa rừng, hai đứa mà thể hiện tình cảm hồn nhiên như vậy, chắc chắn sẽ bị thầy cô nhắc nhở và bạn bè chế giễu.

Nam nữ phải giữ khoảng cách với nhau (theo quan niệm của Nho giáo). Nghĩa đen: nam và nữ trao nhau cái gì không đưa trực tiếp tận tay. Hai chữ thụ thụ trong câu này ngược nghĩa nhau. Một chữ có nghĩa là trao, một chữ có nghĩa là nhận.

Sự khác nhau giữa các loại cây chủ yếu là ở lá, rồi tới hoa và quả. Nhưng để phân biệt được cũng phải có chút năng khiếu. Dù đã nhìn thấy lá cây con khỉ, nhưng Tự Thắng hoàn toàn không nhớ hình thù ra sao. Với nó, phân biệt các loại lá cây cũng lằng nhằng như phân biệt nốt nhạc. Không biết có phải nhờ Thảo tốt số hay chó ngáp phải ruồi, sau một hồi lùng sục, nó cũng tìm được cây con khỉ.

Hai đứa trở lại triền núi bẻ hoa. Những đóa hoa trắng vừa nãy đã biến mất, thay vào đó là những bông phơn phớt hồng, mỏng như tà áo lụa, đung đưa trong nắng. Tự Thắng dụi mắt, ngỡ mình bị lạc đường. Nó thoáng nghĩ có thể những bông hoa này là ma biến hóa thành, dụ người ta leo ra vách đá rồi kéo xuống. Nhưng đã lỡ hứa, và thấy Thảo đang háo hức, nó lấy một đoạn dây rừng, buộc một đầu vào thắt lưng, đầu kia vào gốc cây rồi trèo ra phía ngoài. Treo người trên vách đá, nó bóc một nụ hoa vẫn còn lớp áo xanh ra xem. Bên trong là những cánh hoa trắng cuộn chặt. Không hiểu sao hoa đang từ trắng lại chuyển sang hồng. Nó bẻ luôn mấy cành, cả hoa lẫn nụ đưa cho Thảo.

Nhưng Tự Thắng và Thảo đã phạm phải một sai lầm. Đó là bỏ Sơn lại một mình. Khi hai đứa trở về không thấy Sơn đâu. Chỗ Sơn ngồi lúc trước là một con gấu đen trũi. Thảo thì thào:

– Liệu anh Sơn có trèo lên cây để trốn không nhỉ? Anh nhìn thấy con gấu đang ngóc đầu lên không? Phải bắn nó để cứu anh Sơn. Chỗ này xa quá, em sẽ tiến lại gần hơn.

Trong lúc Thảo quan sát con gấu thì Tự Thắng phát hiện Sơn đang ngồi trên bè, ở đoạn sông phía dưới, tay vẫy lia lịa. Tự Thắng kéo Thảo chạy. Sơn cho bè vào bờ đón. Nó nói:

– Con gấu đang định trèo lên cây lấy tổ ong. Có tổ ong to thế mà mình không để ý.

– Mày trông thấy gấu nên chạy xuống bè à?

– Không. Chúng mày đi là tao xuống bè ngay. Ngồi trên bè an toàn hơn.

– Nguy hiểm quá.

– Gấu không nguy hiểm bằng hổ. Gấu ít tấn công người. Nhưng mình làm nó nổi giận thì sẽ rất nguy hiểm.

– Em tưởng anh trốn lên cây nên định đến gần để bắn con gấu.

– May mà em không làm thế. Em đến gần, con gấu sẽ đánh hơi thấy. Nếu em bắn không trúng, hoặc phát đạn không giết chết nó ngay, nó sẽ xé xác em.

– Em nghe người ta nói gấu thích ăn mật ong. Khi ăn xong mật, nó sẽ buông mình rơi xuống đất, nằm một lúc mới tỉnh. Lúc đó bắn gấu là tốt nhất phải không?

Sơn lúng túng:

– Anh chưa nhìn thấy gấu lấy tổ ong bao giờ cả.

Thảo gạ:

– Ba anh em mình ngồi đây xem gấu lấy tổ ong đi anh.

Tự Thẳng đã có kinh nghiệm nhớ đời về chuyện ong đốt. Nó không đồng ý:

– Nhỡ con gấu bị ong đuổi, chạy về phía mình, kéo theo cả đàn ong thì sao?

Sơn rất mừng khi trong những thứ hai đứa mang về có lá cây con khỉ. Nhìn bó hoa trên tay Thảo, Sơn khen:

– Hai đứa cũng giỏi nhỉ. Sao biết hoa phù dung có thể dùng làm thuốc?

Tự Thắng ngạc nhiên:

– Phù dung nào?

– Thế Thảo đang cầm gì trên tay thế?

– À, đây là hoa “phù thủy”, tao hái trên vách núi. Vừa nhìn thấy nó màu trắng, một lát sau đã thấy biến thành màu hồng.

– Đây là phù dung núi, loại hoa đơn, năm cánh. Hoa phù dung một ngày ba lần đổi màu. Sáng trắng, gần trưa hồng, chiều ngả sang màu đỏ và tàn về đêm. Hoa và lá tươi của cây này đem giã, đắp lên vết thương, có thể hút mủ và làm dịu cơn đau.

Thảo ngạc nhiên:

– Vậy là hoa phù dung không chỉ đẹp, mà còn là một loại thuốc quý.

– Ông nội anh kể ngày xưa có một nàng tiên nữ, do mải vui chơi trước cảnh đẹp dưới hạ giới, bị chàng thợ săn giấu mất đôi cánh nên không thể về trời. Nàng ở lại và yêu chàng thợ săn. Nhưng trời không cho phép người lấy tiên nên nàng đau buồn và chết, hóa thành cây hoa phù dung để được mãi mãi bên chàng. Phù dung có thể chữa lành mọi vết thương cho những người thợ săn.

Thảo hôn nhẹ lên mấy cánh hoa rồi đưa Sơn:

– Hoa đẹp quá anh ạ, mỏng mảnh như tà áo cô tiên. Cho anh hết để làm thuốc.

Tự Thắng thắc mắc:

– Nhưng sao hoa phù dung đang trắng lại chuyển sang hồng.

– Có lẽ do ánh nắng mặt trời. Những ngày mưa bão, không có mặt trời, tao thấy hoa vẫn màu trắng cả ngày, chỉ chiều muộn mới hơi phớt hồng.

– Thế sao những hoa khác cũng bị mặt trời chiếu vào mà không chuyển màu?

– Điều đó thì mày đi mà hỏi trời.

– Để tao lên lấy thêm một bó nữa cho mày hút mủ nhé.

– Chỗ này đủ rồi. May quá, thế là có đủ những thứ tao muốn tìm.

Khi chiếc bè rời đi, Thảo đứng nhìn những cây gạo phong sương, già cỗi trên bờ một cách lưu luyến. Nó nói:

– Em đặt cho nơi này là thung Phù Dung nhé?

– Anh nghĩ nên đặt cho nó là thung Hoa Gạo.

Từ thung Hoa Gạo, dòng sông xuyên qua một khe núi. Ba đứa ngỡ ngàng khi trước mặt là một cánh đồng lúa xanh rì. Những cây lúa đang thì con gái, bắt đầu trổ mã làm đòng. Thảo nhanh nhảu đặt luôn tên chỗ này là Thung Lúa. Hàng ngàn con cò đang sải cánh bay trong nắng. Sơn tỏ vẻ vui mừng. Nó nói:

– Cánh đồng lúa này chắc chắn có người ra vào gặt hái. Nếu vậy, mình có thể tìm thấy lối ra.

Thảo hớn hở:

– Tìm được đường, mình sẽ quay lại đón anh Linh và anh Việt Bắc cùng ra luôn.

Bè đi men theo dòng sông giữa chân núi và đồng lúa. Đứa nào cũng nghĩ lối ra đã ở ngay trước mặt. Thế nhưng cánh đồng lúa xanh mượt kết thúc ở dãy núi chắn ngang. Giống như các thung đã qua, nơi đây chưa từng có dấu chân người. Những cây lúa nước nặng trĩu hạt không ai gặt, biến thành thức ăn cho chim, cá, chờ đến mùa sau lại vươn mình đứng dậy.

Nhìn dòng sông chảy vào trong lòng núi, Sơn bảo:

– Hôm nay muộn rồi, bọn mình nghỉ lại thung này, sáng mai đi tiếp.

Thảo tán thành ngay:

– Nơi này đẹp quá, và em cũng đói, mình bắt cá ăn đi.

Tự Thắng cho chiếc bè xuôi theo dòng sông. Nó phát hiện một cái hang nhỏ, thấp lè tè, bên ngoài lúc nhúc cá, con nào cũng cỡ bốn, năm cân. Nếu có vợt, chỉ cần xúc một lúc là được cả sọt. Trong đàn có một con cá to vượt trội. Tự Thắng chưa từng thấy con cá nào to thế. Nó lấy xiên định đâm thì Sơn cản lại:

– Con này là cá chúa, đừng đâm.

– Mày không nghe nói cá cả, lợn lớn à? Cá to ăn mới ngon.

Sơn sửa lại:

– Phải nói là lợn cả, cả lớn . Đàn cá này trông giống cá chép nhưng không phải cá chép, giống cá trắm nhưng không phải cá trắm. Phía bụng và lưng nó pha sắc vàng óng ánh, môi và vây lại có màu đỏ, không giống cá bình thường.

Sơn thò tay xuống nước. Đàn cá không tránh đi mà nhao tới đớp nhẹ vào tay nó như đùa giỡn. Thảo thấy vậy thò cả hai chân xuống cho cá rỉa. Nó cười khúc kha khúc khích vì nhột. Sơn nói:

– Thường ở nơi cá nhiều thế này, nước phải rất tanh. Vậy mà nước ở đây trong vắt và không có mùi. Cá này không ăn được đâu.

Thấy Tự Thắng tỏ ý nghi ngờ, Sơn giải thích:

– Những con này có hình dáng và màu sắc rất lạ. Chưa bao giờ tao thấy hàng ngàn con cá tụ tập một lúc trong khe núi hẹp như vầy. Chắc chắn đây là đàn cá thần. Mình không thể ăn thịt các ngài được.

Thảo bấm Tự Thắng:

– Các ngài là gì hả anh?

– Các ngài là những con anh Sơn bảo là thần. Trên trời là Cụ Phượng, trong hang là rắn có mào, dưới suối là cá bụng vàng, môi, vây đỏ.

Thảo đang thích chơi với cá, nó tán thành:

– Em đồng ý với anh Sơn. Vùng này thiếu gì cá. Nếu cần cá mình đi chỗ khác bắt.

Thấy hai đứa cùng phản đối, Tự Thắng đành cất xiên đi. Tuy nó không tin những con này là cá thần, nhưng nếu đúng là cá độc như Sơn dọa thì cũng hơi ngại. Sau khi bắt được hai con cá ở chỗ khác, Tự Thắng thả Sơn trên một tảng đá ven núi, rồi cùng Thảo đi gom thêm cành khô, để nướng cá, và chuẩn bị cho chuyến vượt hang ngày mai.

Trong lúc Thảo làm cá, Sơn cùng Tự Thắng ngồi ngắm hoàng hôn. Phía tây, mặt trời như lòng đỏ quả trứng gà khổng lồ đang từ từ chìm xuống sau dãy Long Ẩn, hắt những tia nắng chiều vàng nhạt lên đồng lúa xanh mướt. Các đàn chim bắt đầu trở về thung, phủ trắng các triền núi. Một vùng trời đất mênh mông, lúa vàng trĩu hạt, đầy tôm cá và vắng bóng con người là thiên đường của các loài chim. Những vách đá dựng đứng như thành lũy bao quanh cánh đồng là khu vực an toàn của chúng. Đã từng ở rừng Bắc Cạn nhiều năm, nơi đồi núi trùng trùng điệp điệp và có những đỉnh cao chót vót, Tự Thắng nhận ra núi đá ở đây khác xa với núi rừng Khe Khao. Đa phần các ngọn núi có cùng độ cao, rất ít đỉnh vượt trội. Chân núi lõm đều vào trong, theo chiều vát từ trên xuống, khoảng bốn mét so với mặt nước. Đặc biệt là phần núi bị khoét lõm có rất nhiều con hà biển, hào biển bám vào. Tự Thắng đem điều thắc mắc nói với Sơn. Sơn gật đầu:

– Tao cũng không biết tại sao trên đá có nhiều hà biển, hào biển bám thế. Có lúc tao còn nhìn thấy cả hào ở trên trần hang nữa. Giống hệt những con bám ngoài Ghềnh Hào.

– Ghềnh Hào ở đâu?

– Ngoài biển. Nhưng xa lắm. Đi xe trâu phải mất cả ngày mới tới.

Tự Thắng chợt nảy ra một ý mà chính nó cũng thấy kỳ quặc:

– Có khi nào vùng này ngày xưa đã từng là biển không nhỉ?

Sơn ngạc nhiên:

– Sao lại là biển được?

– Tao thấy chân các vách núi ở đây đều bị lõm vào, giống như các hòn núi ngoài biển…

– Làm sao lại thế được. Mày nói cứ như truyện Thủy Tinh dâng nước lên đánh Sơn Tinh không bằng.

Câu chuyện dừng ở đấy. Nửa thế kỷ sau, những nghiên cứu khoa học mới dần dần làm sáng tỏ điều hai đứa thắc mắc. Vùng núi đá vôi chúng lạc vào được hình thành từ 250 triệu năm trước. Cách đây 7.000 năm, nơi này là một vịnh biển. Ngấn biển ở độ cao 4 mét tương ứng với giai đoạn biển tiến cực đại Flandrian, hình thành trong giai đoạn cách đây từ 7.000 đến 4.000 năm. Ngấn biển ở độ cao dưới 2 mét, tương ứng với đợt biển lấn Quảng Xương, từ 2.500 đến 1.500 năm trước. Những biến động địa chất làm đứt gãy khối đá khổng lồ, chia cắt quần thể núi đá thành các ô mạng. Ở nơi giao nhau giữa các đứt gãy, đá bị dập vỡ mạnh. Dưới tác động hòa tan, ăn mòn của cả nước ngọt, nước lợ lẫn nước biển, kết hợp với sập đổ cơ học, dần dần hình thành nên một hệ thống các hố sụt, lũng kín. Hệ thống này liên kết với nhau bằng các hang ngầm. Các hang xuyên thủy chạy dọc theo các hệ đứt gãy trong lòng núi, nối hệ thống “thung - hang - hồ” và một số lũng ngập nước. Bàn tay ngẫu nhiên của định mệnh đã dẫn mấy đứa trẻ lạc vào phần lõi khối đá vôi. Đó là một hành trình kỳ thú và hung hiểm, với phần thưởng là lối ra cho người xứng đáng.

Trong lúc chờ cá chín, ba đứa ngồi ngắm trăng lên. Cánh đồng lúa xanh mượt mà lả lướt dưới ánh trăng, mang tới một cảm giác thanh bình yên ả. Sơn nói:

– Hết chiến tranh, bọn mày về đây, cùng tao và thằng Sính dựng nhà ở. Chỗ này sẽ là của riêng bọn mình. Tha hồ săn thú, bắn chim, bắt cá. Đến vụ ra đồng gặt lúa về. Chẳng cần phải lao động cũng có ăn.

Lần đầu tiên kể từ ngày quen biết, Tự Thắng thấy Sơn tỏ ra mơ mộng. Nó nín cười, nói bằng một giọng rất nghiêm túc:

– Mơ ước chẳng cần lao động cũng có ăn là tư tưởng của giai cấp bóc lột, của bọn địa chủ cường hào, trái ngược với lý tưởng cộng sản. Mày có tư tưởng như thế thì làm sao trở thành bần cố nông được.

Sơn ngồi ngẩn ra. Tự Thắng nhớ lại những điều học lỏm được từ ba, bồi thêm:

– Trong đầu óc mỗi người nông dân đều có một tên địa chủ, vì bản chất của người nông dân là tư hữu. Nếu không được tuyên truyền giáo dục, thì với những suy nghĩ như vừa rồi, chắc chắn mày sẽ phát triển thành một tên địa chủ mới.

Sơn ngồi im nghe Tự Thắng lên lớp. Tự Thắng rất khoái chí vì từ khi vào Hồ Mây, cái gì Sơn cũng dạy nó, chỉ mỗi “lý tưởng cộng sản” là nó dạy lại được Sơn.

Thảo ngạc nhiên:

– Sao anh Sơn lại thích trở thành bần cố nông?

– Vì bố anh ấy muốn con sau này được làm cán bộ cốt cán. Anh Sơn nói để làm cốt cán, phải ba đời là bần cố nông.

Sơn cải chính:

– Không bắt buộc phải ba đời, nhưng ba đời thì được ưu tiên.

Thảo thắc mắc:

– Sao để thành bần cố nông lại phải bỏ học? Không học làm sao biết chữ? Không biết chữ làm sao đọc tài liệu mà làm cán bộ?

– Ngày xưa bần cố nông có được đi học đâu mà biết chữ. Không biết chữ vẫn được làm cán bộ như thường. Tài liệu đã có đứa đọc hộ.

– Thế biết chữ như em thì sau này không được làm cốt cán à?

Tự Thắng cười:

– Chỉ thời Cải cách ruộng đất bần cố nông mới được làm cốt cán thôi. Sau này phải những người học hành tử tế mới làm cốt cán được.

Thấy Sơn chăm chú lắng nghe, Tự Thắng càng được thể:

– Mày có biết Chủ nghĩa cộng sản là gì không? Đó là chính quyền Xô viết cộng với điện khí hóa toàn quốc. Điện khí hóa tức là khoa học kỹ thuật. Ba tao nói để làm người cán bộ tốt, phải nắm vững khoa học kỹ thuật, tốt nghiệp xong phổ thông còn phải học tiếp đại học nữa.

Sơn ngẫm nghĩ rồi gật đầu:

– Đúng rồi. Nếu đi học mà sau này không được làm cán bộ thì đời nào bố mẹ chúng mày bắt con cái đi học. Nhưng con trai chưa học hết lớp Mười đã phải đi bộ đội rồi, sao học đại học được?

– Thì khi nào hết chiến tranh về học tiếp. Mày có biết ông Lênin nói thế nào không? Ông ấy bảo phải học, học nữa, học mãi . Ông ấy mà biết đứa nào mới học đến lớp Bốn đã bỏ học thì ông ấy chửi cho.

Những thứ Tự Thắng nói là do nó cóp nhặt mỗi chỗ một tí. Do hóng hớt chuyện của ba, do đọc tất cả những thứ nó vớ được, và cũng có cả những điều nghe thầy cô giảng. Tuy bài diễn thuyết của Tự Thắng chẳng đâu vào đâu, nhưng Sơn lắng nghe rất nghiêm túc và tỏ ra vô cùng thán phục.

Thảo góp chuyện:

– Nếu anh Sơn muốn lấy Thạch Bột thì phải đi học lại. Chả nhẽ vợ là kỹ sư, bác sĩ, chồng lại là bần cố nông.

Có vẻ câu nói của Thảo đã đánh trúng điểm yếu nhất của Sơn. Nó gật đầu liền mấy cái rồi bảo Tự Thắng:

– Tao cũng muốn đi học lắm, nhưng tại bố tao cứ bảo học nhiều chữ chỉ tổ cho người ta quy là tạch tạch xè… Nhưng nếu bây giờ tạch tạch xè vẫn được làm lãnh đạo thì việc gì tao phải bỏ học. Hôm nào ba Thiện từ chiến trường ra, mày nhờ ba giải thích cho bố tao nhé.

– Chuyện đó dễ ợt. Nhưng biết khi nào ba tao ra? Mày nhờ ông nội là nhanh nhất. Tao thấy bố mày vẫn nghe lời ông mà. Nếu cần thì mày vừa đi học, vừa vào đây bắt rắn. Bọn tao sẽ bắt giúp mày. Bọn mình có Hang Rắn, tha hồ bắt. Bố mày bắt rắn mấy ngày liền cũng không bằng bọn mình bắt một lúc.

Thảo nhắc:

– Anh Sơn phải cố học vượt cái Thạch Bột, không người ta lại bảo là chồng thấp vợ cao, không… môn đăng hộ đối.

Tự Thắng cười hì hì:

– Nhưng dù nó có học hết đại học thì vẫn chồng gầy, vợ béo.

Có vẻ sự xứng đôi với Thạch Bột khiến Sơn quyết tâm sẽ đi học lại hơn mong muốn được làm cán bộ. Nó khẳng định:

– Đợt này về, tao sẽ đi học ngay. Tao đi học nhưng vẫn bắt nhiều rắn cho bố tao là được.

Tối đó, ba đứa ngồi gỡ con cá chép chín vàng, bụng sóng sánh mỡ. Trăng phủ ánh sáng bàng bạc xuống cánh đồng lúa lả lướt, gió mát mơn man làn da trẻ, mang tới một cảm giác dễ chịu và thư thái. Tự Thắng bảo Thảo:

– Nơi này giống như chốn thần tiên. Nếu không tìm được lối ra thì mình ở luôn trong này cũng chẳng sao. Ban ngày đi lấy tổ ong, câu cá, bắn chim. Tối về ngắm trăng, đốt lửa trại và ca hát…

Thảo tán thành:

– Buổi sáng mình sẽ vào rừng hái quả, hái nấm, đến thung Hoa Gạo hái hoa phù dung. Chiều ra Hồ Mây bơi. Tối tới rừng si chơi bắn bùm. Anh Sơn sẽ trở thành địa chủ kiêm nông dân của thung Hồ Mây, có nhiệm vụ nuôi nấng chúng mình.

Không ai giám sát và đánh thuế ước mơ nên Thảo và Tự Thắng vừa ăn vừa tưởng tượng tràn cung mây cho đến khi bụng căng tròn. Tối đó ba đứa ngủ trên một phiến đá bằng phẳng cạnh vách núi. Trước khi ngủ, Thảo giúp Sơn thay băng. Nó đắp thêm lá và hoa phù dung vào vết thương để hút mủ.

Nửa đêm, Sơn lên cơn sốt. Không hiểu sao Sơn hay sốt về đêm.