22. HANG ĐỊA LINH
Buổi sáng, Sơn đỡ mệt và hạ sốt. Bỏ lại cánh đồng lúa phía sau, ba đứa chèo bè trên dòng sông ngày càng hẹp lại, tiến vào hang. Càng đi càng thấy sâu hun hút. Rất nhiều ngã rẽ, nhằng nhịt như một mê cung khiến Tự Thắng liên tục phải dừng lại đánh dấu. Càng đi trần hang càng thấp. Nước cạn dần. Mái chèo chạm tới lớp bùn bên dưới. Bùn nhiều tới mức Tự Thắng đâm lút cây sào không tới đáy. Nó soi đèn về phía trước và nhận ra mình đang ở trên một dòng sông bùn.
Sơn nói:
– Đi thêm một đoạn nữa là bùn chạm tới trần hang, bọn mình sẽ mắc kẹt trong đó. Quay lại thôi. Trở về ngã ba và rẽ theo hướng còn lại.
Ngược lại khoảng năm mươi mét, Thảo phát hiện một cái hang cạn khá rộng ở bên trái. Lúc vào nó tập trung rọi đèn về phía trước nên không nhìn thấy. Tự Thắng bảo:
– Mình vào đây xem một chút đi.
Lúc đầu, Sơn định ở lại dưới bè, nhưng thấy lối lên hang thoai thoải và khá rộng nên nó cố gắng đi cùng. Ba đứa bước trên một lớp cát mịn, vào sâu bên trong. Cuối hang có một cái động. Trong động ít nhũ đá nhưng rất nhiều cột nhũ mọc lên từ sàn, trông như chuông, như oản, như rùa cõng nến, như cá hóa long, như tòa bảo tháp… Màu sắc các cột nhũ ở đây rất lạ, chỗ xanh như ngọc, chỗ trắng như ngà, chỗ hồng rực, chỗ da cam, giống như quần áo dát vàng, dát bạc của các ông Phúc, Lộc, Thọ và xiêm y lộng lẫy của các cô tiên. Cứ như tạo hóa đã nghiền vụn ngọc, kim cương, đá quý trong lòng núi để tạo nên những cột nhũ huyền ảo này. Thế nhưng chẳng đứa nào để tâm đến vẻ đẹp ấy. Cái gì cũng trở nên nhàm chán khi nhìn ngắm quá nhiều, và đang có những nỗi lo choán trong tâm trí.
Thảo rọi đèn và phát hiện cuối động có lối thông sang một hang nước. Khác với nhánh hang ba đứa vừa đi, hang nước này khá cao và rộng. Ngăn cách giữa động và hang là một hố sâu, rộng chừng ba mét. Thảo nói:
– Hang rộng thế này chắc là có lối ra ngoài. Em có thể bám vào vách núi, men sang được.
Tự Thắng hỏi:
– Anh và em có thể leo qua đó được, nhưng anh Sơn thì sao? Sang được bên đó rồi làm sao mang bè qua?
Sơn bảo Thảo soi đèn để nó quan sát kỹ dòng nước phía bên kia rồi nói:
– Đưa bè sang không khó. Mình tách bè ra làm đôi, nối lại thành một cái cầu. Đi qua, kéo bè sang rồi ghép lại.
Tự Thắng không biết Sơn đã lường tới tình huống này, hay nó chợt nghĩ ra khi thấy cái hố. Nhưng đó là cách duy nhất. Vì không thể lao chiếc cầu vừa làm qua miệng hố, theo hướng dẫn của Sơn, Tự Thắng buộc dây vào một đầu, dựng lên, rồi từ từ hạ qua khoảng trống. Sau khi ba đứa đi qua, chiếc bè được ghép lại như cũ, thả xuống dòng nước mà Sơn đoán có thể là nhánh hang bên phải của ngã ba. Lòng hang như một dòng sông nhỏ. Hai bên nổi lên những bờ đất, khi rộng, khi hẹp, bên lở bên bồi. Trước mắt ba đứa là một thế giới kỳ lạ. Có sông, có núi, có cả đồng bằng… Thảo thốt lên:
– Hang này lạ thật đấy. Mình đặt tên nó là gì nhỉ?
Tự Thắng nói:
– Mình như đang ở dưới âm ty. Gọi nó là hang “Địa Ngục”.
– Tên đó ghê quá. Em thấy cái hang này lạ nhất trong các hang mình đã đi qua. Một nhánh bị hút vào dòng sông bùn, một nhánh rộng thênh thang. Trong hang có động, qua động lại đến hang. Thạch nhũ trong động này còn đẹp hơn cả trong hang Vàng Bạc… à, hang Đào Tiên.
Sơn bảo:
– Nơi này nhìn như cảnh trên mặt đất. Gọi nó là hang Địa Linh được không? Ông nội nói quê tao là đất Địa linh nhân kiệt . Ngày trước đất này có ba vua đấy.
Thảo khoái chí, vỗ tay bôm bốp.
– Hay quá! Em là cô gái đầu tiên vào hang Địa Linh.
Tự Thắng cũng bị lây cái hồn nhiên của Thảo:
– Anh là người đầu tiên chèo bè qua hang Địa Linh.
– Còn anh Sơn là người đầu tiên đặt cho hang này cái tên Địa Linh.
Sau khi chia nhau ba phần đầu tiên , Thảo nhảy lên bờ. Nó tung tăng đi bộ dọc theo sông. Nhưng sự phấn khích của Thảo kéo dài không bao lâu. Hai bờ hẹp dần và chìm trong dòng nước. Phía trước lại xuất hiện một ngã ba, một chếch về phải, một rẽ sang trái. Tự Thắng nói:
– Tao rẽ phải nhé?
– Mình nên đi theo nhánh rộng hơn. Đó là dòng chính.
Theo lời Sơn, Tự Thắng rẽ bè sang trái. Đang chú ý lái sao cho những tảng đá lởm chởm phía trên không va vào đầu Sơn và Thảo, Tự Thắng không ngờ dòng nước đổ xuống đột ngột. Chiếc bè bị cuốn theo và rơi xuống một cái hồ. Theo phản xạ, cả ba đứa túm chặt lấy bè để không bị văng ra ngoài. Tuy không phải bị ném từ đỉnh thác xuống chân thác, không bị cuốn vào một dòng sông ngầm trong núi, nhưng chiếc bè đã bị rơi xuống một mực nước thấp hơn dòng chảy phía trên nhiều. Đứa nào đứa nấy ướt sũng.
Sơn là người đầu tiên nhận thức được tình trạng nguy hiểm:
– Có lẽ bây giờ mình mới xuống tới mực nước của sông Trường Thiện.
Tự Thắng khẽ hỏi:
– Nếu đây là nhánh hang cụt, mình sẽ không quay trở lại được nữa phải không?
Sơn nín thinh. Thảo cấu Tự Thắng:
– Đừng nghĩ tới những điều không may mắn đi anh. Phía trước còn đường mà.
Nghe giọng đầy vẻ lo lắng của Thảo, Tự Thắng hít nhè nhẹ một hơi và gượng cười:
– Anh nói vậy thôi chứ đâu có sợ. Chết ngay thế nào được.
– Đấy, lại nói tới chữ chết rồi.
– Anh nói vậy vì chắc chắn anh sẽ tìm được đường thoát. Tên anh là Tự Thắng mà. Thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường .
Thảo ngơ ngác:
– Anh nói cái gì thế?
Sơn khẽ nói:
– Mấy câu này ông nội thỉnh thoảng cũng nói với bố tao. Ông giải nghĩa mấy lần nhưng tao quên mất. Hình như đó là câu nói của một ông lão, tên là Tử.
Tự Thắng giải thích:
– Không phải của một ông lão tên là Tử, mà của Lão Tử. Câu đó có nghĩa: Thắng người chỉ là kẻ có sức, tự thắng bản thân mới là kẻ mạnh .
Sở dĩ Tự Thắng nhớ những thứ rắc rối vậy vì câu nói liên quan đến việc đặt tên nó. Ba nói tên của mỗi người theo người ta suốt cuộc đời và nó vận vào tâm mệnh. Lúc này Tự Thắng chợt nhớ lại lời ba, và nó đem ra để khích lệ mình.
Ban đầu, ba dự định đặt tên Tự Thắng là Kiến Quốc. Trong thời gian chiến tranh, nhiều gia đình đặt tên con là Thắng Lợi, Hòa Bình, Thống Nhất, Kiến Quốc, Quyết Thắng… với mong muốn cuộc kháng chiến thành công, hoặc hướng tới tình hữu nghị với bè bạn quốc tế như Việt Nga, Việt Triều, Việt Hoa, Việt Đức và Việt Ba… Việc cái tên ảnh hưởng tới số phận con người tới đâu thì còn phải chờ năm tháng, nhưng đôi khi nó cũng làm người ta dở khóc, dở cười. Như trường hợp của Việt Ba. Bố nó rất hâm mộ lãnh tụ Phidel Castro nên quyết định đặt tên con gái gắn với quê hương những người đồng chí ở cách xa nửa vòng trái đất. Dù cả họ nội nhà Việt Ba phản đối vì chữ Ba trùng tên ông nội, bố nó vẫn bất chấp. Cùng với thời gian, càng ngày càng thấy tình bạn thủy chung và vô tư nhất với người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ chính là đất nước Cu Ba nhỏ bé, xinh đẹp bên kia bán cầu. Suốt thời đi học, Việt Ba gặp khá nhiều rắc rối với cái tên của mình. Đầu tiên, bọn con trai gọi nó là Việt Cu, tới khi học bảng tuần hoàn Mendeleev thì chuyển sang gọi là Việt Đồng và cuối cùng gọi nó là Ba Ba, vì nó càng lớn cổ càng vươn dài. Thực ra chẳng mấy người có được cái cổ cao ba ngấn như Việt Ba, nhưng lũ con trai mới lớn đâu đã biết đánh giá vẻ đẹp thanh tân của thiếu nữ tuổi dậy thì. Nhìn Việt Ba, chúng nó chỉ nghĩ tới món ba ba chuối đậu.
Trước khi Tự Thắng ra đời, chú Thắng, bạn thân của ba, sinh con đầu lòng. Chú đặt tên con là Thiện . Vì vậy, ba bàn với má kiểu gì tên con cũng phải có chữ Thắng để “đáp lễ”. Thế là Kiến Quốc chuyển thành Quyết Thắng . Sau đó, không biết ai góp ý, ba lại đổi từ Quyết Thắng thành Tự Thắng. Ba giải thích: “Tri nhân giả trí, tự tri giả minh. Thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường. Nghĩa là: Biết người là khôn, biết mình là sáng. Thắng người là kẻ có sức, tự thắng là kẻ mạnh . Tự Thắng mới là đạo lý của thánh hiền.” Không biết có phải nhờ cái tên, từ nhỏ Tự Thắng đã tỏ ra khá tự tin và độc lập trong sinh hoạt của mình.
Để chứng minh với Thảo mình không hề sợ, Tự Thắng cao giọng:
– Em có muốn cược không? Anh nói mình chắc chắn sẽ thoát ra ngoài cái hang này.
– Không cược thế. Ra khỏi hang này lại gặp hang khác. Phải cược mình ra được hẳn bên ngoài.
– Đồng ý! Cược là bọn mình sẽ ra ngoài vào sáng, trưa, chiều hay tối nào?
– Em chọn buổi tối. Bọn mình sẽ trôi vào một hồ nước dưới một bầu trời đầy sao. Phía sau lưng mình sẽ là ngôi sao Bắc Cực.
– Anh chọn buổi sáng. Mình sẽ thoát ra một cánh đồng lúa xanh rợp cánh cò bay. Nào, ngoắc tay. Thế cược gì?
– Em chưa nghĩ ra. Cứ cược là người thắng muốn làm gì thì làm đi.
Tự Thắng cũng chưa nghĩ ra cược gì nên gật liền:
– Đồng ý!
– Lời hứa của con nhà lính nhé. Ngoắc tay nào!
Hai đứa ngoắc tay. Ngón trỏ của Thảo cong như một cái móc, giữ chặt ngón tay Tự Thắng một lúc mới thả ra. Khi hai ngón tay chạm vào nhau, Tự Thắng lại có cảm giác như một dòng điện vừa chạy qua người. Nó chợt nghĩ nếu mình thua vụ cá cược vừa rồi, ngộ nhỡ Thảo đòi sau này anh phải lấy em thì sao? Đúng là quá sơ suất. Không thể đánh cược dễ dãi như thế với bọn con gái được. Đã ngoắc tay, lời hứa của con nhà lính, chả nhẽ thua lại nuốt lời. Nhưng nếu thắng mình sẽ làm gì nhỉ? Chắc chắn sẽ phải làm nó điêu đứng khổ sở một phen. Nhưng biết làm gì để nó điêu đứng bây giờ?
Có vẻ như mục tiêu phía trước của Tự Thắng lúc này là làm tất cả để không thua và bị bắt làm chồng. Nó tập trung chèo bè nên người nóng bừng, không nhận ra càng đi sâu vào lòng núi hang càng lạnh. Mải đánh cược, hai đứa không để ý tới Sơn. Sơn bị ngấm nước lạnh đột ngột trong khi đang sốt cao. Ban đầu Sơn cố chịu đựng, nhưng sau đó cảm thấy như có một lưỡi gươm xuyên thẳng vào tim. Nó co rúm lại, hai hàm răng liên tục gõ vào nhau. Tự Thắng cuống lên, cởi áo cho Sơn và lấy tất cả những gì có thể, đắp lên người nó. Sau đó hai đứa tìm chỗ đun nước. Thời gian ở bên cạnh Sơn chúng cũng học được nhiều điều.
Do được ủ ấm, Sơn tỉnh dần. Một lần nữa, Thảo giúp Sơn rửa vết thương, dù cũng chẳng biết có cần rửa không. Sơn mệt quá nên để mặc hai đứa muốn làm gì thì làm. Thảo sắc thuốc , đúng hơn là luộc lá , cho Sơn uống. Dù cách chữa dân gian có tốt đến mấy thì vết thương ở ngực Sơn cũng cần thuốc kháng sinh, thậm chí mổ để chữa trị chứ không phải tự chữa bằng cây cỏ trong điều kiện mất vệ sinh, ngâm nước lạnh và liên tục di chuyển. Cách tốt nhất lúc này là nhanh chóng tìm được lối ra để đưa nó đến trạm xá.
Khi Sơn thiêm thiếp ngủ, Tự Thắng và Thảo tiếp tục dò dẫm tiến về phía trước. Ánh sáng của cây đèn pin đã rất mờ nên Thảo cũng chỉ dám lúc soi, lúc tắt. Cái hang rất dài, khiến Tự Thắng bắt đầu hy vọng có thể tìm thấy lối ra, cho đến khi chiếc bè va vào một vách đá.
Sơn tỉnh ngay khi thấy chiếc bè khựng lại. Nó gượng ngồi dậy, soi đèn và sờ rất kỹ bức tường trước mặt. Xem xong, Sơn hỏi Tự Thắng trên đường tới đây có ngả rẽ nào không. Khi nghe câu trả lời là không, nó ngồi thừ người, không nói lời nào.
Lần này thì Thảo không còn lạc quan nữa. Giọng nó run run:
– Mình không có cách nào quay ngược trở lại được, đúng không anh Sơn?
– Đúng vậy.
– Thế mình sẽ chết ở đây à?
Sơn ngồi im. Nó thực sự kinh hoàng. Đáng lẽ cứ để Tự Thắng rẽ phải, nó lại khuyên rẽ trái. Tất cả đều trông cậy vào nó, và nó đã phụ lòng mọi người. Nếu nó chết mà cứu được mọi người, nó cũng chấp nhận. Nhưng chính nó đã đẩy mọi người vào chỗ chết. Điều đó khiến nó vô cùng dằn vặt.
Với Tự Thẳng, không phải sự sợ hãi, mà chính sự tỉnh táo làm nó sợ. Là người chèo bè, nó nhanh chóng hiểu rõ các hang động trong lòng núi. Tuy không am hiểu như Sơn, nhưng trong những ngày qua, Tự Thắng đã cảm nhận được dòng nước, thạch nhũ và các tảng đá trong hang như những bộ phận của cơ thể mình. Chỉ cần đẩy nhẹ tay chèo là nó biết đuôi bè sẽ tránh va phải phiến đá, hay đầu Thảo sẽ không chạm vào khối nhũ trên trần. Ngay lúc rơi xuống hồ nước, Tự Thắng đã nghĩ tới việc không thể quay lại được nữa. Tất cả hy vọng của nó là ở Sơn. Khi Sơn bất lực thì điều tồi tệ nhất sẽ đến. Lần đầu tiên trong cuộc hành trình, Tự Thắng nhận thấy lối ra bị đóng sập.
Ba đứa lặng lẽ ngồi trong bóng đêm, không ai nói câu nào. Cuối cùng Tự Thắng nói:
– Nếu bọn mình bị mắc kẹt ở đây, không biết Linh và Việt Bắc xoay xở thế nào?
Không ai trả lời nó. Sự kinh hoàng càng tăng khi bao trùm là bóng đen mịt mùng. Tự Thắng cảm thấy chiếc bè rung nhè nhẹ và nhận ra Thảo đang khóc. Nó định an ủi nhưng không thốt nên lời, bởi nó cũng đang cố để không khóc theo. Rồi ba đứa chìm vào giấc ngủ. Sự tuyệt vọng đã làm chúng gục ngã.
Lo lắng của Tự Thắng không phải không có cơ sở. Nếu ba đứa không thoát ra được, cả Linh và Việt Bắc cũng khó tìm được đường về.