VĨ THANH
Sau khi hoàn thành bản viết lần đầu, tôi có thói quen đưa cho một vài người mà tôi coi là đại cử tri đọc. Đôi khi những ý kiến họ buột miệng nói ra, như một cảm nhận tức thì, đã khiến tôi thay đổi cấu trúc câu chuyện, điều chỉnh tính cách nhân vật, hoặc bỏ đi cả tập bản thảo. Nhưng cũng có những góp ý, dù được nghe phân tích kỹ lưỡng, tôi vẫn giữ quan điểm của mình. Chẳng hạn như nên cho bạn đọc biết thêm về số phận của những nhân vật trong truyện. Ví dụ, về sau Thảo và Tự Thắng có yêu nhau không? Linh, Việt Bắc và Hoài Nam thế nào?
Theo tôi, cuộc đời mỗi người như một dòng sông, luôn chảy về phía trước. Trong cuốn sách này, tôi muốn giới hạn câu chuyện kể về những nhân vật của mình trong một khúc sông tuổi thơ. Có thể một ngày nào đó, tôi sẽ kể cho các bạn về họ ở một khúc sông khác, trong một câu chuyện chiến tranh. Bởi hầu hết số phận của những đứa trẻ sinh ra, lớn lên trong những năm đất nước có chiến tranh là ở chiến hào.
Nhưng có lẽ cũng nên nói thêm một chút về gia đình họ.
Cho tới tận ngày thống nhất đất nước, ba của Việt Bắc vẫn thuộc diện những người mất tích, nghi ngờ bị địch chiêu hồi. Cuối năm 1977, trong một nỗ lực tìm kiếm, thiếu tướng Hồ Thiện phát hiện bộ hồ sơ của Đại Trí tại Trung tâm Thẩm vấn hỗn hợp, Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Những nghi vấn về Đại Trí được làm sáng tỏ.
Trong vai một nhà buôn giàu có, ông và vợ trở về Sài Gòn. Đại Trí từng bước nối lại quan hệ với những người bạn cũ thời đi học. Một số bây giờ đã là những nhân vật có chức sắc trong chính quyền Sài Gòn. Lợi ích từ những áp phe* lớn giúp cho mối quan hệ mới giữa những bạn cũ ngày càng gắn bó với nhau.
•
Affair: chỉ những công việc buôn bán, làm ăn.
Vỏ bọc hoàn hảo tạo cho Đại Trí điều kiện hoạt động thuận lợi bao nhiêu, thì trong mắt những người kháng chiến, Đại Trí trở thành kẻ phản bội đáng ghét bấy nhiêu. Một vụ ám sát bất thành càng làm gia tăng sự tin tưởng của những người bạn cũ với ông. Nhưng việc Đại Trí gắn bó mật thiết với những nhân vật trọng yếu trong chính quyền lại khiến cơ quan mật vụ Sài Gòn để ý. Trong một lần qua tỉnh Đồng Nai, xe của ông bị chặn lại xét. Vì trên xe có tài liệu, Đại Trí ra lệnh rồ ga và tiêu hủy tài liệu trong lúc bỏ chạy. Quân cảnh đuổi theo, nổ súng. Xe lật. Hai người đi cùng chết tại chỗ. Đại Trí bị thương nặng ở vùng bụng, được Phòng Hai, Quân báo Việt Nam Cộng hòa đưa về Tổng Y viện lấy sinh cung. Trong hồ sơ còn lưu hai bức hình. Một bức ông nằm mê man trên giường với những chai huyết thanh đang truyền dở. Hình còn lại chụp lúc ông mất. Biên bản ghi Đại Trí không khai gì ngoài họ tên. Vì hai người đi cùng đều chết, nên tổ chức không có tin tức về ông trong một thời gian dài. Danh hiệu liệt sĩ và tấm bằng “Tổ quốc ghi công” gia đình Việt Bắc được nhận sau đó cũng không làm cho má nó quên đi thiệt thòi, buồn tủi và những điều tiếng suốt mười mấy năm ròng.
Ba Hoài Nam bị cách hết các chức vụ và khai trừ khỏi Đảng, nhưng không phải đi tù. Ông vẫn được giữ lại căn biệt thự nhà nước cấp. Sau gần ba nghìn ngày cởi bỏ bộ quân hàm cấp tướng, quãng thời gian dài bằng cuộc kháng chiến chống Pháp, ông được minh oan và phục hồi. Trong chiến tranh, luôn có người phải trả giá cho những sai phạm mình không làm, và không phải ai cũng được lịch sử nhìn nhận lại. Với ông, điều buồn nhất là hai đứa con trai, Hoài Nam và em nó đã không trưởng thành như ông hằng mong muốn. Mặc cảm về hoàn cảnh gia đình, ấm ức vì nghĩ ba bị oan, hai đứa ngày càng ngang tàng, quậy phá. Trong một lần tham gia đánh nhau có vũ khí, Hoài Nam đã phải lãnh mức án khá nặng. Ngày ông mất, nhờ sự can thiệp của bạn bè, Hoài Nam mới được ban giám thị trại cho về một ngày chịu tang.
Từ ngày đi B, ba Thảo không lần nào trở về thăm nhà. Sau ngày thống nhất đất nước, gia đình nhận được giấy báo tử. Dù có khá nhiều người theo đuổi, cô Thu vẫn không tái hôn.
Năm 1975, đơn vị Linh tham gia tiếp quản Sài Gòn. Linh vào Chợ Lớn tìm dì Tư, nhưng dì đã đi di tản. Đầu năm 1976, ba của Linh lấy vợ. Linh không về chúc mừng ba vì đang cùng đơn vị làm nhiệm vụ. Năm 1979 ra quân, Linh về quê tìm má. Nhà đang có đám giỗ. Linh được dẫn tới bàn của má. Một bà ngồi chung hỏi: “Tao đố biết ai là má mày?” Linh nhìn một vòng, không đoán ra. Mọi người chỉ. Linh lại gần, nắm tay và kêu má. Cuộc gặp lại của hai má con sau quãng thời gian dài xa cách không cảm động như các nhà văn vẫn miêu tả trong tiểu thuyết hoặc đẫm nước mắt như trên tivi. Linh hơi ngượng khi lần đầu tiên kêu tiếng má. Từ nhỏ nó có được gọi ai là má đâu. Má cũng chỉ gật gật. Linh hỏi: “Dượng và các em đâu để con tới chào?” Má nói: “Ổng đang đi học tập*. Hai thằng nhỏ, một chết tháng Tư năm 1975 ở Xuân Lộc, một theo dì Tư vượt biên.” Câu chuyện rời rạc. Do xa cách quá lâu nên cả hai đều không có tình cảm. Dù vẫn còn má và ba ở hai đầu đất nước, nhưng Linh cảm thấy cả hai nơi ấy không thuộc về mình. Không phải người Bắc, cũng chẳng hoàn toàn là người Nam, Linh rất chật vật trong hòa nhập với cuộc sống mới. Bạn bè thân thiết nhất của Linh, ngoài một vài đồng đội trong quân ngũ, vẫn chỉ là những đứa học cùng ở Trường Học sinh Miền Nam và nơi sơ tán ngày nào. Trong số hơn 32.000 học sinh miền Nam trên đất Bắc thời kháng chiến chống Mỹ, hoàn cảnh như Linh cũng không phải cá biệt. Đó là thực tế mà những người trong cuộc phải chấp nhận. Có thể coi đó là số mệnh của những người sinh ra trong thời chiến, hay nói văn chương một tí, đó là nỗi buồn chiến tranh.
•
Sau 30 tháng Tư. 1975 các cựu quân nhân, công chức của chế độ Việt Nam Cộng hòa phải trình diện và tập trung học tập chính sách của chính quyền mới.
HẾT