- I -
Chiều nào, nghe xuống hoàng hôn
Tôi rười rượi nhớ, quay hồn về mơ…
Chiêu Quân biệt Hán sang Hồ,
Có buồn cũng đến như là … thế thôi!
Hồ-Dzếnh
I
Đứng, tỳ tay vào cằm, trong khung cửa trên một chuyến tàu thường chạy xuôi về Vinh, Hoàng lẩm bẩm, trong khi đưa mắt nhìn dãy núi xám chạy ngược chiều tàu, bên một chân trời trắng dục.
- Đố ai tìm được người đi nghỉ mát trái mùa như ta.
Hoàng đi nghỉ mát vào tháng bảy, lúc tiết thu bắt đầu đem lại những ngày hoàng hôn lành lạnh. Hoàng phơi phới thấy gió mùa bám riết lấy tóc chàng như những ý mới lạ lưu luyến một bài thơ hay và lòng chàng mở rộng ra như đón lấy tất cả những huyền kỳ đang kết hình trên sông núi.
Nhiều lần ở Hanoi, Hoàng đã tưởng tượng đến một chiều thu như chiều nay, một chiều đưa chàng về cố quận, trong một toa tàu êm ấm giữa mùi giang hồ của than khói, hương lúa âu yếm ờ hai bên đồng.
Gặp được chỗ dốc, tàu chạy thêm nhanh, Hoàng đánh nhịp chân theo một bài hát và muốn trèo quách lên lưng tàu để được đón nhiều gió hơn là ở dưới.
Hoàng thật không lo nghĩ gì nữa, ở lúc này. Một nỗi vui lâng lâng, trong trẻo đang reo điệu hát yêu đời và yêu mình trong tâm hồn người học trò hai mươi tuổi vừa đỗ xong cái bằng Tú tài trọn vẹn. Hoàng muốn chiều nay cứ tím mãi một cách nên thơ như thế để con tàu cứ mê miết chạy mà không bao giờ cùng đường, và lòng chàng đầy luôn cái hạnh phúc mà lúc này – chỉ lúc này thôi – chàng đương được tham lam tận hưởng. Là vì Hoàng đã từng sống những giờ khắc trống rỗng một cách thảm não sau các cuộc vui điên rồ đến tự tử được. Mà nhất là Hoàng lại là một thi sĩ, cái giống loài dở hơi, ngang bướng, thì phút vui ấy, biết đâu chỉ bởi một cái ga xép lù lù chạy tới lại không đổi ra được tính cách một cuộc phân gián đoạn trường?
Hoàng không nhớ rõ đã bao lâu, điệu hát ban nãy vắng ngắt trên môi chàng, khi con tàu bắt đầu len mình giữa hai giòng thung lũng kín gió, tiếng máy đều đều nổ giữa sự yên lặng hoàn toàn thấm thía của chiều thu.
Hình như chiều chỉ đợi cho tàu vào đến đấy là pha mình với màu đêm, nên khi thoát ra khỏi nơi âm u ấy, Hoàng thấy như một tà thuật, bầu giời mất dần cái sắc biêng biếc khi trước, liên miên giăng ra tứ phương chiếc khăn xám mỗi lúc một thấp xuống dần dần. Rồi một thứ gió lạnh thê thiết của miền núi thổi lại, và trước khi vào lòng người, đã nhiễm nhỉ đầy đủ cái giá ngắt vắng vẻ của hốc đá, rừng cây.
Những ngôi ga xép nằm ngủ ở hai bên vệ đàng, bắt đầu được Hoàng chú ý một cách đặc biệt. Chàng mơ hồ sống lại giấc mộng ngày nhỏ, thủa mà anh Hoàng còn là một thầy ký ga, mà Hoàng là cậu học trò để chỏm, đêm đêm ngậm ngùi nhìn những chuyến tàu xuôi, ngược, quét từng vệt sáng dài trong đêm tối bao phủ cánh đồng rét mướt.
Mới có tám năm mà đã bao nhiêu lần tàu đổi chuyến, bao nhiêu lần cỏ thắm rồi tàn trên nấm mộ người anh xưa bất hạnh
Quay nhìn về cái dĩ vãng không được vui tươi ấy, Hoàng thấy hiện ra trên đấy một mẩu đời thơ ấu nghèo nàn, hình dáng một người học trò mặc áo the thâm vá, ngày ngày cắp sách mang cơm nắm đến nhà trường. Mẹ Hoàng, năm ấy, cũng ngồi ở ngôi chợ giáp ngay trường, nên vào giờ nghỉ hay tan học, Hoàng thường cuốn sách đút túi, chạy tới ngồi phịch xuống bên mẹ, giở cơm nắm ra ăn rất ngon lành. Hoàng đỏ mặt sung sướng, khi nghe mẹ chàng khoe tài học của mình với mấy bà bạn bên cạnh. Lời khen tuy có đặt ra thêm, nhưng lòng tha thiết yêu con đến bất chấp cả sự giữ ý của mẹ Hoàng, làm Hoàng cảm động.
Hình như Hoàng được mẹ yêu hơn anh, nên mỗi lúc Hoàng được nâng cao lên như thế thì anh Hoàng lặng lẽ giở sách ra học lại bài, hay lạnh lùng chạy chơi nơi khác. Cái đặc ân chiếm được chỗ chính trong trái tim người từ mẫu, khiến Hoàng đôi khi thành ra tự phụ một cách quá đáng. Chính ra, Hoàng học giỏi hơn anh thật. Cùng làm một bài, cùng ngồi một lớp, nhưng Hoàng thường bỏ xa anh đến ba chục bực trong sổ tháng, và theo lời thầy giáo vô tư, Hoàng còn dư sức bảo thêm anh là đằng khác. Sự chênh lệch ấy về sau, mãi về sau, mới kịp làm Hoàng thương xót anh, con người bị sinh ra dưới một ngôi sao u tối, u tối cho đến lúc nhắm mắt lìa đời.
Khi mẹ Hoàng mất thì anh Hoàng biết mình không có khiếu học, nên bán bớt đi vài sào ruộng, để làm tiền đút lót, chạy chọt một chân ký ga xoàng nuôi Hoàng học.
Hoàng ham học và kiêu căng, tự tin mình đến nỗi nhiều khi, chàng quên khuấy cái nhiệm vụ to tát. Lòng hy sinh cao thượng của người anh ruột mà trước kia Hoàng có lần chê là ‘‘to đầu mà nhỏ trí’’. Theo xát chân Hoàng, trong khi chàng trèo những bực thang cao cấp của học vấn, anh Hoàng vẫn để nguyên cái đầu quên chải, đăm đăm theo từng con số chi tiêu một về sách vở, quần áo của Hoàng.
Bình thản mà hy sinh, ít cười, ít nói, anh Hoàng đã dựng sẵn trong đầu óc tương lai tốt đẹp về Hoàng.
Con người xấu số ấy, đắm chìm trong bổn phận, đã quên cả làm bài tính cho chính cuộc đời mình.
Hoàng muốn khóc lên khi nghĩ đến đoạn này, và cái bóng gầy guộc run run của Bích – anh Hoàng – đổ lên đời chàng một nỗi chua xót về số mệnh ; sự sám hối làm đau đớn Hoàng đến trọn kiếp. Chính cái hôm Hoàng đánh giây thép về quê báo cho Bích biết tin mừng chàng đậu bằng thành chung, thì Hoàng cũng nhận được luôn tin ở nhà báo cho Hoàng biết Bích chết.
Hai anh em cùng chung một lòng mẹ ấy, như có thù hằn nhau từ kiếp trước, nên hễ vận mệnh của một bên sáng thì mộT bên tối, một bên xuống thì một bên lên, xung khắc nhau như một sự mai mỉa cay độc.
Con người lặng lẽ yêu em, xa em là Bích, đã khoét rỗng vào giữa đời Hoàng một hố sâu khó lấp, đã trưng lên trước mắt Hoàng một tâm linh siêu đẳng, vững bền.
Cái tang máu mủ thứ ba ấy làm tê liệt đà tiến của Hoàng, làm long lở cả nhịp đời bình lặng của người thiếu niên mười tám tuổi.
Hoàng đau đớn gục lên quan tài Bích, và tưởng tượng đâu như nếu cái cá gỗ chốc nữa xoay hẳn lại, để ngăn kín hai thế giới ra, Hoàng sẽ đến bơ vơ vì thiếu tình thương. Chốc nữa thôi, sau khi ném hòn đất cuối cùng lên quan tài anh, quay về, Hoàng sẽ phải đối diện với cái bắt đầu một cuộc đời tự lập nguy hiểm. Hoàng cần phải xóa màu nến đỏ như huyết chảy lênh láng từ trên ba cái bàn thờ xuống, Hoàng cần phải rũ hết, trả lại những sự đau đớn xảy ra cho ba người thân yêu đã khuất.
Sáng hôm sau, giao nhà cho người cô nội, Hoàng thất thểu xách chiếc va ly cũ ra đường cái chờ xe về Hanoi, như xách cả cái số mệnh còn nặng chĩu những kỷ niệm buồn rầu. Ra Hanoi, trước hết, Hoàng tìm một chân việc để có tiền học thêm.
Hoàng viết báo trong những giờ rỗi, và cách này, nhờ được người bạn có danh tiếng nâng đỡ, cũng đem được về cho chàng mỗi tháng một số tiền khả trợ. Sự được tiếp đón niềm nở ngay ở ngưỡng cửa cuộc đời văn chương làm Hoàng có đủ tin tưởng để sống nhìn thẳng vào cái tương lai tốt đẹp sắp sửa đến với mình.
Đủ tiền chi dùng, Hoàng không cần phải gửi giấy về nhà quấy bận nữa. Chàng sống thang93 thắn như bao nhiêu người bạn khác, soạn sửa cái kết quả của hai năm tự học cần lao. Chính lúc này tên tuổi Hoàng bắt đầu nổi, bắt đầu được nhớ trong đầu óc các độc giả, biết cẩn thận suy nghĩ, chịu khó tìm tòi hạch sách cái hay, cái dở trong thơ.
Ba mươi hai thiên truyện ngắn, mười lăm bài thơ, Hoàng tung chúng lên không gian bây giờ mới trở về quả đất với một tiếng vang nho nhỏ.
Vài tháng sau, Hoàng được chính thức điều đình với ông chủ bút một tờ tuần báo lớn, giữ nguyên mục thơ, và ký những tờ giao kèo cay nghiệt khác. Tờ báo chàng viết được phần đông độc giả có học thức hẳn hoi hoan nghênh và vì thế, cố nhiên, Hoàng chỉ được yêu bởi một số ít người, nhưng được yêu chắc chắn đầy đủ.
Họ yêu Hoàng, vì chàng viết thơ như viết mộng, ngâm thơ như trẻ con, nhưng không phải là không gieo được vào lòng người một mối sầu man mác.
Về phần Hoàng, chàng chỉ nhũn nhặn nhận mình là người làm thơ có lương tâm, ước mong một ngày kia có chút tài thật. Khác với trước kia, phải sống lẩn lút trong ngõ hẹp, Hoàng bây giờ đã thuê được một căn nhà sạch sẽ, quay lưng ra hồ Trúc Bạch. Ở đây, yêu đương thường lả mình, trong nếp áo màu phất phơ bay, và ở đây, Hoàng ưa sống nhìn về phía làng mạc cũ, nơi có cái chợ, cái ga xép, có ba cái bàn thờ giữ kín lấy kỷ niệm ngày xưa…
Thỉnh thoảng, những lá thơ từ xa đưa về, có khi thì ký tên một thiếu nữ, có khi thì đầy giọng khuyến khích thành thực của một người bạn chưa quen. Những cái vu vơ ấy chêm pha vào đời Hoàng như những sự sung sướng nhỏ, và là nguồn yên ủi dịu dàng đến ve vuốt Hoàng khi chàng đuổi theo một giấc mơ sắp kết.
Một sáng, Hoàng đem về cái lầu thơ thần tiên kia, lòng yêu đời hoàn toàn trong sạch của một gã học sinh đã thấy thành đạt ý nguyện độc nhất của mình ; Hoàng đã đậu cái bằng Tú tài trọn vẹn.
Hoàng thấy chung quanh chàng, sự vật đều mang một ý nghĩa tốt đẹp, cơn gió thu đương phần phật lên trong lá mới, là nguồn sống thanh thoát thổi đến, thổi đến tận trong đáy lòng đời.
Hoàng nẩy ra cái ý muốn về quê, nghiêng mình trước bàn thờ người anh xấu số đã tận lực nuôi Hoàng ngày xưa. Ồ! Về nhà quê, nơi gió quyện lấy cỏ, cỏ ngược mình theo chiều mây, về nhà quê để sống lại một ít mẩu đời cũ, cuộc hành trình ấy nó mới sầu rười rượi và êm ái làm sao!
Hoàng nhắc lại môt lần nữa, để thông ngôn cho đầy đủ thêm sự sung sướng tràn ngập trong lóng:
- Đố ai tìm được người đi nghỉ mát trái mùa như ta!
Đêm lúc ấy đã xuống, tụ như sương mờ ở hai bên thành tầu và rít lên thành một thứ thanh âm lạnh lẽo khi bị xé nát dưới hai dòng bánh sắt quay đều. Hoàng đốt một điếu thuốc lá, thở khói xanh ra ngoài đăm đăm nhìn quãng đồng xa tắp. Chàng rút bút chì trong túi ra, cầm đứng trước tầm mắt, đo chiều cao của dãy núi xám lùi chậm chừng về cái bí mật êm ái của đêm Trung kỳ. Làm xong công việc ngớ ngẩn ấy, Hoàng quay vào thì mấy chiếc đèn điện trong toa đã bật lên lù mù.
Bỗng Hoàng giật mình, vì chàng nhận thấy ở cuối toa, đôi mắt sáng đẹp của một thiếu nữ đương chăm chú nhìn chàng, nhưng vội lảng đi nơi khác khi Hoàng chăm chú nhìn giả lại. Hoàng bối rối vô vùng. Chàng trách mình lỗ mãng, không giữ gìn bộ điệu, và từ bao lâu đến giờ, Hoàng chắc thiếu nữ đã cười chàng nhiều lắm. Hoàng cắn môi cho thêm duyên và ngượng nghịu nhìn xuống bộ quần áo tây xám nhầu nhã của mình.
Hoàng chắc chắn là lúc chàng mỉm cười, chàng cau mặt cẩu thả, rút bút chì ra ngắm núi, thiếu nữ đã lần lượt chụp ảnh hết vào mắt rồi. Còn gì khó chịu bằng cái nhìn hiền từ nhưng soi bói của một người đàn bà? Hoàng khó chịu lắm. Chàng muốn cho tầu dừng lại để nhảy xuống, để trốn biệt cái vẻ chế riễu, khinh mạn của người con gái ngồi ở cuối toa đi. Thấy nàng không cười cũng không nhìn mình, Hoàng cho rằng nàng cười thầm và nhìn một Hoàng lố bịch trong sự ôn lại. Hoàng giở quyển sách ra xem để cầm trí, nhất là để quên người con gái đẹp và kiêu ngạo đi.
Cũng may từ đấy về ga làng Hoàng vội nhảy xuống cắm cổ đi miết vào ga. Lúc Hoàng giả vé xong, chực quay lại nhìn thiếu nữ qua lần cửa kính đục mờ, thì Hoàng ngạc nhiên vô cùng thấy nàng cũng giả vé vào ga như chàng …Hoàng chgi3 có đủ thì giờ cướp vội lấy cái tên xinh đẹp in nổi trên tấm thiếp trắng gài giữa chiếc va ly: Kim Thu