← Quay lại trang sách

Hồi 3 Trong mưa gió, thám thính nhà kho-Cùng trợ thủ lắng nghe chuyện cũ

Địch Nhân Kiệt lẳng lặng rẽ bước theo viên giám viện, cảm thấy cơn đau nhức nhối sau mặt, rõ ràng là ông đã nhiễm phong hàn. Trong một khắc ấy, xuyên qua màn mưa xám xịt, cảnh tượng ông nhìn thấy có thể chỉ là ảo giác do cơn sốt. Địch Nhân Kiệt liếc nhìn Đào Cam, dường như tay trợ thủ không trông thấy gì. Ông bảo y, “Ngươi đi thay y phục rồi trở lại đây ngay!”

Viên giám viện cung kính cúi đầu cáo biệt trước khi bước xuống cầu thang cùng Đào Cam.

Trong buồng ngoài, đại phu nhân đang sai mấy đứa tỳ nữ mở rương sắp xếp đồ đạc, hai vị phu nhân còn lại quan sát mấy phu kiệu đổ đầy than hồng vào chậu sưởi. Địch Nhân Kiệt ngó nghiêng một lúc rồi quay vào buồng ngủ phía sau.?‍

Đó là một căn buồng rộng rãi với vài món đồ nội thất cổ đơn điệu. Địch Nhân Kiệt vẫn nghe rõ âm thanh của cơn bão bên ngoài xuyên qua mấy tấm rèm dày che cửa sổ. Một chiếc giường lớn được kê sát vách tường, những tấm màn gấm thêu kim tuyến rủ xuống từ vòm gỗ mun chạm khắc cao sát trần nhà. Trong góc phòng, ông để ý thấy có một chiếc bàn trang điểm bằng gỗ mun, cạnh đó là bàn trà nhỏ với bốn cái ghế. Thêm một chiếc chậu sưởi bằng đồng nữa thì trong buồng không còn đồ đạc gì khác. Sàn nhà được trải thảm dày màu nâu xỉn. Căn buồng có vẻ tẻ nhạt, nhưng Địch Nhân Kiệt nghĩ, nếu đốt chậu đồng và thắp sáng những ngọn nến, trông nó cũng không quá tệ.

Địch Nhân Kiệt kéo màn gấm sang một bên, nhận thấy chiếc giường này đủ rộng cho cả mình cùng ba vị phu nhân. Thường thì ông không thích họ ngủ cùng nhau. Khi còn ở tư gia, mỗi vị phu nhân đều có buồng riêng, Địch Nhân Kiệt sẽ qua đêm ở một trong những buồng riêng ấy, hoặc gọi một phu nhân vào buồng riêng của ông. Là một Nho sĩ tương đối bảo thủ, ông cho rằng đó là sự sắp xếp ổn thỏa nhất. Địch Nhân Kiệt biết có nhiều nam nhân nằm với tất cả thê tử trên cùng một giường, nhưng ông cho đó là thói xấu, hạ thấp phẩm hạnh nữ giới, khiến gia môn không được hòa thuận. Tuy nhiên, sắp xếp của ông thật khó có thể duy trì trong những chuyến đi. Địch Nhân Kiệt quay trở lại buồng ngoài, hắt hơi mấy cái liền.

“Lão gia, mau mặc thêm chiếc áo bông vào!” Đại phu nhân ân cần nói, rồi nhỏ giọng hỏi, “Thiếp có nên đưa mấy đồng cho phu kiệu không nhỉ?”

“Không cần đâu,” Địch Nhân Kiệt thì thầm, “ngày mai trước khi rời đi, chúng ta sẽ tặng một phần tạ lễ cho đạo quán.” Rồi ông nói lớn, “Áo choàng này được đấy!”

Nhị phu nhân hong ấm đồ trên chậu sưởi rồi giúp Địch Nhân Kiệt thay một bộ y phục khô ráo.

“Lấy cho ta cái mũ!” Ông nói với đại phu nhân, “Giờ ta phải xuống lầu bái kiến đạo trưởng của đạo quán.”

“Lão gia sớm trở lại nhé,” nàng căn dặn. “Bọn thiếp sẽ pha sẵn trà nóng, rồi chúng ta dùng bữa tại đây luôn. Sau đó lão gia nên đi nghỉ sớm, trông sắc mặt ngài tái lắm. Thiếp sợ lão gia đã cảm mạo mất rồi!”

“Ta sẽ về sớm thôi,” Địch Nhân Kiệt hứa hẹn. “Nàng nói đúng. Ta cảm thấy không được khỏe cho lắm, có lẽ cảm lạnh thật rồi.” Ông thắt lại đai lưng đen, sau đó được ba vị phu nhân tiễn ra tận cửa.

Đào Cam cùng một tiểu đồng cầm đèn đã đợi sẵn ngoài hành lang. Tay trợ thủ của ông thay một chiếc áo lam bạc màu, đội chiếc mũ vuông nhỏ bằng nhung đen đã sờn.

“Dạ bẩm, Chân trí đạo trưởng đang đợi đại nhân ở thượng điện,” tiểu đồng kính cẩn lên tiếng khi họ bước vào hành lang dẫn tới cầu thang.

Huyện lệnh dừng bước, “Ta sẽ đến đó ngay bây giờ.”

Địch Nhân Kiệt chăm chú lắng nghe, tiếng mưa dường như đã nhẹ hơn. Ông mở cánh cửa sổ mà lúc trước đã trông thấy cảnh tượng kỳ lạ, chỉ có mấy hạt mưa nhỏ từ bóng tối bên ngoài hắt vào. Ông đợi đến khi một tia sét lóe lên chiếu sáng dãy nhà đối diện, tận mắt thấy một bức tường gạch kín mít trước mặt, phía trên cao là hai cửa sổ của tòa lầu. Bên dưới, bức tường chạy dài tới tận một gian nhà ống muống chia tách hai dãy nhà. sấm lại đánh rền vang. Ông đóng cửa, quay sang nói với tiểu đồng, “Thời tiết thật quái quỷ! Ngươi đưa ta đến dãy nhà kho đối diện kia!”

Tiểu đồng kinh ngạc nhìn ông, hoài nghi nói, “Bẩm đại nhân, chúng ta sẽ phải đi một quãng đường khá dài! Trước hết phải xuống hai tầng lầu để đến thông đạo giữa hai dãy nhà, sau đó đi lên hai…”

“Mau dẫn đường!” Địch Nhân Kiệt ra lệnh dứt khoát.

Đào Cam tò mò nhìn huyện lệnh. Thấy khuôn mặt bình thản của Địch Nhân Kiệt, y đành nuốt lại câu hỏi đang chực chờ trong miệng.

Ba người lặng lẽ bước xuống cầu thang tối. Tiểu đồng dẫn họ băng qua một thông đạo hẹp rồi leo lên một cầu thang dốc đứng. Ở giữa chiếu nghỉ là một miệng giếng trời rộng, vuông vức. Thoang thoảng trong không khí, mùi hương trầm Thiên Trúc lan tỏa qua những mắt cáo được trổ trên các bức màn quây bốn phía miệng giếng.

“Bẩm đại nhân, bên dưới chính là đại sảnh của thượng điện,” tiểu đồng giải thích. “Chúng ta đang ở cùng lầu với buồng nghỉ của đại nhân bên dãy nhà phía Đông.”

Tới một hành lang hẹp và dài, tiểu đồng nói thêm, “Dạ bẩm, lối này sẽ dẫn đến gian nhà kho ạ.”

Địch Nhân Kiệt đứng lặng như tờ. Vừa vuốt bộ râu đen dài, ông vừa liếc nhìn ba cánh cửa sổ trên bức tường thạch cao phía bên phải. Bậu cửa sổ cách sàn nhà chừng hai thước.

Tiểu đồng đẩy mở một cánh cửa nặng nề, dẫn khách nhân vào một gian phòng hình chữ nhật trần thấp. Ánh sáng từ hai ngọn nến soi tỏ những rương hòm xếp thành chồng cao.

“Sao lại để nến cháy ở đây?” huyện lệnh hỏi.

“Thưa đại nhân, các đạo sĩ liên tục ra vào kho để lấy mặt nạ và pháp phục,” tiểu đồng vừa trả lời vừa chỉ vào những chiếc mặt nạ bằng gỗ lớn cùng với áo mão sặc sỡ treo gọn thành hàng phía bên trái. Một giá gỗ lớn chiếm trọn bức vách bên phải, cắm đầy thương kích, giáo mác, đinh ba, cờ phướn và các vật dụng khác dùng trong các nghi lễ diễn xướng. Địch Nhân Kiệt nhận thấy cả hai bên tường không có lấy một khung cửa sổ, căn buồng chỉ có hai ô cửa nhỏ trên bức vách đối diện họ. Ông ước chừng hai ô cửa ấy đều trổ ra bức tường ngoài đạo quán và nhìn về hướng đông. Ông quay sang tiểu đồng, “Ngươi chờ bọn ta bên ngoài.”

Đào Cam đang quan sát gian phòng, tay vân vê mấy sợi râu mọc ra từ nốt ruồi bên má trái. Y khẽ hỏi, “Đại nhân, gian nhà kho này có vấn đề gì hay sao?”

Địch Nhân Kiệt kể cho y về cảnh tượng kỳ lạ mà mình đã chứng kiến khi đang ở dãy nhà đối diện. “Viên giám viện cũng khẳng định nhà kho này chẳng có cửa sổ nào nhìn ra dãy nhà chúng ta đang ở. Rõ là ông ta nói thật. Ta cũng khó lòng tưởng tượng ra tất cả mọi chuyện! Nữ nhân kia đã mất cánh tay trái từ trước, không hề có vết máu nào trên thân thể nàng ta. Nếu thấy có thương tích, ta đã vội vàng chạy sang đây để điều tra ngay lúc đó rồi.”

“Đại nhân,” Đào Cam nói, “thực không quá khó để tìm ra một nữ nhân cụt tay, không nhiều người như vậy ra vào đạo quán. Đại nhân có nhìn thấy vật dụng nào khác trong phòng không?”

“Không, ta chỉ nhìn thấy trong một thoáng,” Địch Nhân Kiệt cáu kỉnh.

“Bẩm, vậy chắc chắn chuyện phải xảy ra trong nhà kho này,” Đào Cam hào hứng nói. “Thuộc hạ sẽ kiểm tra bức vách, liệu có cửa sổ nào được giấu sau hàng giáo mác và cờ phướn chăng? Khả năng ta lại tìm ra một cửa sổ được ngụy trang.”

Địch Nhân Kiệt cùng trợ thủ tháo dỡ vũ khí trên giá. Đào Cam kéo đám cờ phướn lụa phủ đầy bụi sang một bên, kiểm tra từng thanh giáo mũ gươm, thỉnh thoảng còn gõ khớp tay lên bức vách. Thao tác của y rất nhanh chóng và lành nghề, vốn dĩ Đào Cam là một tay lừa đảo lang thang nay đây mai đó. Một năm trước, không lâu sau khi trị nhậm Hán Nguyên, Địch huyện lệnh đã cứu Đào Cam thoát khỏi một phen nguy khốn. Từ đó, kẻ ranh mãnh này quyết định cải tà quy chính, nguyện phục tùng dưới trướng của Địch Nhân Kiệt. Là cao thủ về mật đạo và phá khóa, lại hiểu biết sâu rộng về các mánh lới giang hồ, Đào Cam tỏ ra vô cùng hữu ích trong việc vạch trần chân tướng phường tội nhân giấu mặt, giúp huyện lệnh phá giải nhiều vụ án phức tạp.

Để Đào Cam tiếp tục lục soát, Địch Nhân Kiệt đi dọc theo bức vách bên trái, len vào giữa các chồng rương hòm. Ông khó chịu nhìn lướt qua những chiếc mặt nạ gớm ghiếc, những khuôn mặt gỗ trên tường cũng liếc nhìn lại ông.

Địch Nhân Kiệt lẩm bẩm như thể cho Đào Cam cùng nghe, “Đạo giáo quả là một tín ngưỡng khó hiểu! Tại sao người ta lại cần nhiều lễ nghi khoa trương với mấy màn diễn xướng thần bí khó hiểu, trong khi đã sẵn có những lời dạy bảo sáng suốt và thông thái của đức Khổng Tử? Duy chỉ có một điều đáng để bàn đó là Đạo giáo chính là tôn giáo thuần túy của Đại Đường, chứ không đến từ phương Tây như Phật giáo!”

“Bẩm, thuộc hạ cho rằng Đạo giáo buộc phải xây các đạo quán khắp mọi nơi và tổ chức đủ thứ lễ nghi để cạnh tranh với Phật giáo đang ngày càng đông đảo Phật tử,” Đào Cam bình luận.

“Hừ!” Địch Nhân Kiệt bực bội, đầu đau như búa bổ. Bầu không khí lạnh lẽo và ẩm ướt trong gian phòng đã ngấm cả vào chiếc áo bông của ông.

“Bẩm đại nhân, ngài hãy nhìn xem!” Đào Cam chợt kêu lên.

Địch Nhân Kiệt vội trở lại chỗ Đào Cam. Y vén tấm phướn vải lụa lòe loẹt treo gần cái tủ cổ ở góc trong gian phòng. Dưới lớp vữa thạch cao đầy bụi bao bên ngoài vách tường gạch, có thể thấy rõ đường viền của một khung cửa sổ.

Hai người im lặng, chăm chú nhìn vào bức vách. Đào Cam bối rối ngó khuôn mặt bình thản của Địch Nhân Kiệt, chậm rãi nói, “Bẩm, quả thật từng có một cửa sổ ở chỗ này, nhưng nó đã được bịt lại từ lâu.”

Địch Nhân Kiệt giật mình ngẩng lên, giọng lãnh đạm, “Nó ở gần góc nhà, nghĩa là đối diện với cái cửa sổ mà ta nhìn thấy.”

Đào Cam gõ gõ vào bức vách, nhận thấy lớp thạch cao rất rắn chắc. Y rút dao, dừng mũi dao khẽ nạy một mảng thạch cao nhỏ bịt cửa sổ, rồi lại lần theo những viên gạch dọc theo viền cửa.

Đào Cam bối rối lắc đầu, lưỡng lự đôi chút rồi rụt rè thưa, “Bẩm đại nhân, đạo quán này đã tồn tại cả trăm năm. Thuộc hạ thường nghe nói những chỗ như thế này thường xảy ra nhiều điều kỳ bí khó lý giải. Những khung cảnh trước đây đôi khi hiện về và…”

Giọng y yếu dần rồi im bặt.

Huyện lệnh dụi mắt, trầm ngâm đáp, “Quả thật, nam nhân mà ta nhìn thấy đội chiếc mũ sắt cổ dùng trong quân đội cách đây hơn trăm năm… Đào Cam, chuyện này thực kỳ lạ, hết sức kỳ lạ là đằng khác.”

Ông đăm chiêu suy ngẫm một lúc lâu, mắt dán vào bức tường gạch. Đột nhiên, Địch Nhân Kiệt quay sang nhìn Đào Cam chăm chăm, “Ta nghĩ mình đã thấy một bộ giáp cổ cùng loại trong số y phục treo trên tường. Kia, đích thị là nó!”

Ông bước tới trước bộ giáp sắt treo dưới hàng mặt nạ quỷ, phần ngực phủ một lớp vảy giáp óng ánh như vảy rồng. Một đôi găng sắt với một bao trường kiếm rỗng treo ngay bên cạnh.

“Mũ giáp không ở đây,” Địch Nhân Kiệt nhận xét.

“Bẩm đại nhân, nơi này còn rất nhiều y phục rời rạc không đủ bộ.”

Huyện lệnh không để ý đến lời Đào Cam mà tiếp tục nói, “Tuy không thấy rõ nam nhân đó mặc gì nhưng ta có cảm giác gã vận trang phục tối màu, sở hữu một tấm lưng rộng, tướng tá khá cao.”

Bỗng ông trợn mắt nhìn trợ thủ của mình, “Trời đất thiên địa ơi! Đào Cam, hay ta đã gặp ma?”

“Bẩm thuộc hạ sẽ đo chiều sâu của khung cửa này,” Đào Cam nói.

Địch Nhân Kiệt kéo áo choàng vào sát người, rút chiếc khăn lụa trong tay áo ra chấm mắt. Toàn thân rét run, ông nghĩ có khi mình đã nhiễm lạnh thật. Họa chăng cảnh tượng Địch Nhân Kiệt chứng kiến chỉ là một ảo giác?

Đào Cam đã quay lại, “Bẩm đại nhân, bức tường dày gần bốn thước, nhưng vẫn không đủ khoảng trống cho một căn buồng bí mật chứa được hai người!”

“Đúng vậy!” Địch Nhân Kiệt cộc lốc xác nhận.

Ông quay trở lại chỗ cái tủ cổ. Hai cánh cửa sơn đen được trang trí hình tượng lưỡng long triều nhật nguyệt. Ông mở cửa tủ xem xét nhưng chẳng thấy gì ngoài một chồng mũ vàng. Họa tiết trên cửa tủ được lặp lại tại mặt trong.

“Quả là một món đồ cổ quý giá!” huyện lệnh bình phẩm rồi thở dài, “Chà, lúc này hẳn ta nên tạm gác lại những gì đã thấy, hoặc tưởng rằng mình đã thấy, phải giải quyết một vấn đề trước mắt đã. Có ba thiếu nữ đã chết ở đạo quán này, chuyện mới xảy ra năm ngoái chứ không phải một trăm năm trước! Lưu cô nương qua đời do bạo bệnh, Hoàng cô nương tự kết liễu đời mình, còn Cao cô nương chẳng may gặp tai nạn chết người. Ấy là họ kể như vậy. Nhân đây, trong lúc tiếp chuyện đạo trưởng, ta sẽ tranh thủ hỏi han thêm về ba cái chết này. Giờ chúng ta xuống thôi!”

Bước ra hành lang, họ nhìn thấy tiểu đồng đang đứng im như phỗng gần cửa, mắt nhìn thẳng về phía trước, dỏng tai nghe ngóng. Nhìn thấy gương mặt tái nhợt của cậu ta, huyện lệnh ngạc nhiên hỏi, “Ngươi đang làm gì vậy?”

“Bẩm, thảo dân… thảo dân vừa nhìn thấy một người sục sạo ở góc kia,” tiểu đồng lắp bắp.

“Hử?” Địch Nhân Kiệt bực bội, “Chẳng phải ngươi đã bảo các đạo sĩ liên tục ra vào nơi này hay sao?”

“Thưa, đó là một tên lính!” Cậu ta thì thào.

“Một tên lính?”

Tiểu đồng gật đầu rồi tiếp tục lắng nghe, miệng khe khẽ kể, “Một trăm năm trước, từng có rất nhiều binh lính ở đây. Quân phiến loạn đã chiếm được đạo quán và cố thủ ở đây cùng gia quyến. Sau đó quan binh triều đình đã đánh chiếm lại nơi này thẳng tay chém giết tất cả nam phụ lão ấu.”

Cậu ta nhìn huyện lệnh với đôi mắt trợn trừng đầy khiếp đảm, “Bẩm đại nhân, tương truyền rằng trong những đêm dông bão, vong hồn của họ sẽ quay lại đây để tái hiện lại cảnh tượng khủng khiếp xưa kia… Đại nhân không nghe thấy gì sao?”

Địch Nhân Kiệt lắng nghe hồi lâu. “Chỉ có tiếng mưa rơi thôi!” Ông nôn nóng, “Ở đây nhiều gió may quá. Mau đưa ta xuống lầu!”