← Quay lại trang sách

Hồi 4 Nơi khách sảnh, đàm đạo cùng đạo trưởng-Lưu, Hoàng, Cao, ba cái chết đáng ngờ

Tiểu đồng dẫn họ xuyên qua một mê cung những cầu thang và thông đạo, xuống lầu trệt của dãy nhà phía Đông. Dưới lầu là một hành lang rộng với hai hàng cột cao vút, được chạm trổ họa tiết long ẩn vân rối mắt, sơn son thếp vàng. Qua bao năm tháng, vô số những bước chân qua lại khiến sàn gỗ lên nước đen bóng như mun sừng.

Khi đến trước cửa khách sảnh, Địch Nhân Kiệt nói với Đào Cam, “Trong lúc ta đàm đạo với đạo trưởng, ngươi hãy đi tìm viên giám viện để hỏi về cái trục xe bị hỏng. May ra thì họ có thể sửa và thay nó ngay trong tối nay.” Rồi ông nhỏ giọng thầm thì, “Cố kiếm cho ta sơ đồ của đạo quán ảm đạm này, hỏi giám viện hay ai đó cũng được!”

Khách sảnh nằm ngay lối vào đại sảnh. Khi tiểu đồng mời huyện lệnh vào, ông khoan khoái nhận thấy căn sảnh được sưởi ấm bằng một lò than lớn rực hồng. Những bức trướng bằng gấm thêu kim tuyến quý giá phủ kín bốn vách, lưu hơi nóng lại trong khách sảnh.

Một lão đạo sĩ cao gầy đứng dậy khỏi chiếc trường kỷ mạ vàng nơi cuối sảnh, bước qua tấm thảm dày, tiến về phía huyện lệnh. Ông ta trông vô cùng oai nghiêm trong bộ trường bào gấm vàng thêu kim tuyến, tôn lên tướng vóc cao ráo; đầu đội chiếc mũ miện cao màu vàng, được trang trí bằng những nhúm tua đỏ tươi rủ xuống ngang lưng. Khi đạo trưởng nghênh đón quan khách, Địch Nhân Kiệt nhận thấy ông ta có đôi mắt xám kỳ lạ, hai con ngươi như bất động trên khuôn mặt dài khắc khổ, hàng ria mỏng và chòm râu lưa thưa.

Họ cùng ngồi xuống ghế tựa bên cạnh trường kỷ trong lúc tiểu đồng pha trà trên chiếc bàn sơn son đặt ở góc buồng.

“Đã làm phiền đạo trưởng rồi,” Địch Nhân Kiệt bắt đầu. “Cuộc viếng thăm của ta lại trùng với điển lễ trọng đại của đạo quán, hẳn Triều Vân quán phải đón tiếp nhiều quan khách lắm. Ta e việc mình qua đêm ở đây sẽ gây bất tiện cho đạo quán.”

Dù đôi con ngươi bất động của đạo trưởng vẫn hướng thẳng về phía Địch Nhân Kiệt, nhưng ông vẫn có cảm giác kỳ lạ rằng ánh mắt ấy lại đang chìm vào nội tâm kín đáo. Đạo trưởng nhướng đôi mày cong dài, thấp giọng khô khốc thưa, “Bẩm đại nhân, chuyến viếng thăm của ngài không gây bất tiện cho đạo quán chút nào. Lầu hai và lầu ba của dãy nhà phía Đông có tận hơn bốn mươi buồng nghỉ cho quan khách, tuy nhiên lại chẳng có căn buồng nào đủ tốt cho khách quý như huyện lệnh ngài!”

“Chốn nghỉ ngơi của bản quan vô cùng thoải mái,” Địch Nhân Kiệt vội trấn an, đón lấy chén trà nóng mà tiểu đồng đang cung kính dâng. Đầu đau như búa bổ, ông cảm thấy mình khó mà trò chuyện theo lễ như thường.

Địch Nhân Kiệt quyết định đi thẳng vào vấn đề, “Ngay sau khi nhận lệnh trị nhậm Hán Nguyên, bản quan đã rất nóng lòng tìm dịp viếng thăm Triều Vân quán, những mong được thỉnh giáo đạo trưởng và chiêm ngưỡng quần thể kiến trúc cổ kính danh tiếng này. Tuy nhiên, suốt cả mùa hè vừa rồi, công sự bận rộn nơi nha phủ không cho phép ta rời khỏi trấn nửa bước. Nhân đây, ta muốn hỏi ngài một số chuyện.”

“Đại nhân, mời hỏi. Chẳng hay ngài muốn tìm hiểu chuyện gì?”

“Bản quan muốn biết chi tiết hơn về ba cái chết ở đây hồi năm ngoái,” Địch Nhân Kiệt nói, “chỉ để hoàn thiện ký lục của nha môn mà thôi.”

Đạo trưởng ra hiệu cho tiểu đồng lui ra. Khi cánh cửa khép lại, ông ta mỉm cười vẻ phật ý, “Đại nhân, nơi đây có hơn một trăm đạo sĩ, chưa kể đến đạo đồng, tiểu đồng và khách vãng lai từng lưu lại. Nhân sinh đã được định rõ trong sổ Thiên Tào, không ai thoát được vòng luân hồi sinh lão bệnh tử. Vậy chẳng hay đại nhân đang đề cập tới cái chết nào?”

“À,” Địch Nhân Kiệt đáp, “trong lúc xem xét ký lục tại nha phủ, bản quan để ý thấy đạo quán đã gửi đến Hán Nguyên bản khai tử của ba thiếu nữ tới từ nơi khác. Hẳn họ đến đây thọ giới để trở thành các đạo cô.”

Thấy đạo trưởng nhíu đôi mày mỏng, huyện lệnh cười giả lả, “Bản quan không rõ danh tính hay bối cảnh của ba cô nương ấy, đáng ra ta phải đọc hết văn thư ký lục trước khi viếng thăm đạo quán. Nhưng tình cờ làm sao, lại có chuyến viếng thăm đột xuất này…”

Ông bỏ lửng câu, trông chờ phản ứng của đạo trưởng.

Đối phương khẽ gật đầu, “Bần đạo có biết về những cái chết mà đại nhân nói đến. Phải, hồi năm ngoái có một thiếu nữ họ Lưu đến từ kinh thành rồi lâm bạo bệnh ở đây. Đích thân Tôn Thiên sư đã chữa trị cho vị cô nương đó, nhưng…”

Bất chợt đạo trưởng ngưng bặt và nhìn thẳng ra cửa. Địch Nhân Kiệt xoay người lại, nhưng chỉ thấy hai cánh cửa vẫn đóng im lìm.

“Phường đào kép thật bất kính!” đạo trưởng tức giận thốt lên, “Dám bước vào mà không thèm gõ cửa!”

Nhận thấy vẻ mặt kinh ngạc của Địch Nhân Kiệt, ông ta mau mắn giải thích, “Theo thông lệ, một đoàn kịch nhỏ được thuê tói đây, cùng các đạo sĩ tham gia diễn xướng vào điển lễ của bản quán. Lúc giải lao giữa các màn diễn, họ sẽ mua vui cho quan khách bằng nhiều màn xiếc kỹ như tung hứng, nhào lộn. Họ cũng hữu ích đấy, nhưng lại chẳng biết quy củ và luật lệ của đạo quán là gì!”

Đạo trưởng bực tức nện cây tích trượng xuống sàn, “Lần tới, nhất định bần đạo sẽ không mời họ nữa!”

“À đúng,” Địch Nhân Kiệt nói, “bản quan đã nhớ ra thiếu nữ họ Lưu chết vì bệnh nan y. Vậy xin hỏi đạo trưởng, ai là người chẩn bệnh nghiệm thi? Ta chỉ muốn hoàn thiện ký lục mà thôi.”

“Bẩm đại nhân, viên giám viện của đạo quán là người nghiệm thi. Ông ta là một đại phu lành nghề.”

“Bản quan rõ rồi. Hình như một trong ba cô nương đã tự vẫn thì phải?”

“Quả là một cái chết thương tâm!” đạo trưởng thở dài, “Một thiếu nữ thông minh nhưng quá nhạy cảm. Cao cô nương thường bị ảo cảnh quấy nhiễu. Đáng ra bần đạo không nên nhận nàng vào, nhưng vị cô nương ấy rất sốt sắng thọ giới, phụ mẫu nàng lại năn nỉ… Một đêm, Cao cô nương cảm thấy tâm thần bất an, lòng vô cùng hoảng sợ, bèn uống thuốc độc tự tử. Thi hài thiếu nữ đã được trả về cho gia quyến và an táng tại quê nhà.”

“Bản quan nhớ thiếu nữ thứ ba cũng đã quyên sinh, không biết có đúng không?”

“Bẩm không phải, đó là một tai nạn đáng tiếc. Hoàng cô nương cũng là một thiếu nữ có tài, dành nhiều quan tâm đến lịch sử của đạo quán, thường xuyên xuất môn tham quan thượng điện lẫn các dãy nhà lân cận. Chẳng may, lúc Hoàng cô nương ở trên Đông Nam lầu, hàng lan can bất chợt đổ sập khiến nàng rơi xuống hẻm núi rìa đông đạo quán,”

“Không có nghiệm thi án quyển của Hoàng cô nương sao?” Địch Nhân Kiệt thắc mắc.

Đạo trưởng buồn bã lắc đầu.

“Bẩm đại nhân, tiếc là không có,” ông ta từ tốn đáp. “Chúng bần đạo đã không thể tìm thấy thi thể vị cô nương đáng thương đó. Hẻm núi ấy là một vực sâu hơn trăm thước, chưa từng ai xuống được đáy vực.”

Có một khoảng lặng ngắn ngủi trước khi Địch Nhân Kiệt lên tiếng, “Vậy là thiếu nữ ngã xuống từ lầu thượng phía trên gian nhà kho, ngay đối diện với dãy nhà phía Đông nơi bản quan đang ở?”

“Thưa, quả đúng là như vậy.” Đạo trưởng nhấp một ngụm trà, rõ ràng muốn kết thúc cuộc trò chuyện tại đây, nhưng Địch Nhân Kiệt chưa có ý định bái biệt. Ông trầm ngâm vuốt bộ râu dài rồi hỏi tiếp, “Đạo quán ta không lưu các đạo cô lại lâu dài phải không?”

“Bẩm đại nhân, tuyệt đối không có chuyện đó,” đạo trưởng mỉm cười yếu ớt. “Chẳng có họ thì trách nhiệm của bần đạo cũng đủ nặng nề rồi! Bởi danh tiếng của Triều Vân quán trong huyện rất tốt, nên nhiều gia môn muốn cho nhi nữ sùng đạo thọ giới tại đây. Sau vài tuần lễ được truyền thụ lễ nghi kinh tạng, họ sẽ được ban cho đạo hiệu rồi cầm giới điệp* rời khỏi đây, đến các đạo quán dành riêng cho đạo cô trong huyện để tiếp tục tu luyện.”

giới điệp là văn tự chứng nhận đã thọ giới.

Địch Nhân Kiệt hắt hơi mấy cái. Sau khi dùng khăn lụa lau nhẹ bộ râu, huyện lệnh lễ độ nói, “Đa tạ đạo trưởng đã cất công giảng giải! Mong ngài cảm thông cho, chuyện hỏi han là bổn chức phận sự của bản quan, chứ ta chưa bao giờ nghĩ có điều chi khuất tất ở đây.”

Đạo trưởng kính cẩn gật đầu. Huyện lệnh uống cạn chén trà rồi nói tiếp, “Vừa rồi đạo trưởng có nhắc đến một vị Tôn Thiên sư. Phải chăng đó chính là Tôn Minh, vị học giả và tác giả danh tiếng lẫy lừng, người từng là thái phó và đã hồi hưu vài năm về trước?”

“Dạ bẩm, quả đúng như vậy! Sự hiện diện của Thiên sư là phúc phận của Triều Vân quán! Đại nhân cũng thấy đó, sự nghiệp của ngài ấy thật vẻ vang. Ngài ấy từng giữ chức Thứ sử ở kinh thành trong suốt nhiều năm, hồi hưu sau khi hai vị phu nhân từ trần. Sau đó, ngài ấy lại được triệu hồi vào hoàng cung và sắc phong làm thái phó. Ba vị công tử cũng nối gót lệnh phụ làm quan trong triều. Do vậy, ngài ấy yên tâm dành những năm tháng cuối đời để tu luyện và chọn Triều Vân quán làm nơi an cư. Đến nay, Thiên sư đã lưu lại đạo quán được hai năm rồi.”

Đạo trưởng chậm rãi gật gù, hài lòng tiếp tục, “Sự hiện diện của Tôn Thiên sư cũng là niềm vinh dự lớn lao cho chúng bần đạo! Ngài không hề tỏ ra lánh đời. Trái lại, ngài ấy luôn quan tâm đến mọi việc thường nhật và có mặt ở mọi nghi lễ. Nhờ vậy mà Thiên sư thấu hiểu chuyện lớn chuyện bé trong đạo quán và không bao giờ tỏ ra miễn cưỡng khi cho chúng bần đạo những lời khuyên hữu ích.”

Địch Nhân Kiệt trầm tư suy nghĩ, cảm thấy mình phải đi vấn an bậc cao nhân này, bèn lên tiếng hỏi, “Ngài có thể cho ta biết hiện Thiên sư đang ngụ ở đâu trong đạo quán?”

“Bẩm, bần đạo đã bố trí Tây lầu làm nơi nghỉ ngơi cho Thiên sư. Đại nhân có thể diện kiến ngài ấy ở đại sảnh khi buổi diễn xướng diễn ra. Ngài cũng sẽ gặp Bao phu nhân, một quả phụ sùng đạo đến từ kinh thành. Vài ngày trước, phu nhân đã đến đây cùng lệnh ái tên Bạch Hồng, vị tiểu thư này ngỏ ý muốn được thọ giới tại đây. Ngoài ra còn có Tông Lê, một thi sĩ trẻ cũng có chút tiếng tăm vị công tử ấy đã lưu lại đạo quan vài tuần nay. Hiện chúng bần đạo chỉ có vài khách nhân thăm viếng, nhiều người đã phải tiếc nuối cáo lỗi do thời tiết quá khắc nghiệt. Tất nhiên còn có đoàn kịch của hí đầu Quan Lại, song đại nhân không cần bận tâm đến đám người vô luân ấy làm gì.”

Địch Nhân Kiệt tức giận hỉ mũi, cảm thấy thật bất công khi người đời khinh rẻ nghiệp ca vũ và coi đào kép là những kẻ xướng ca vô loài. Ông đã tưởng đạo trưởng sẽ có cách nhìn nhân văn hơn.

Huyện lệnh ôn tồn nói, “Theo bản quan, đào kép cũng có vai trò hữu ích. Thông qua những màn diễn mua vui bình dân, họ khuấy động cuộc sống buồn tẻ của quảng đại quần chúng. Hơn nữa, những vở kịch lịch sử sẽ giúp bách tính hiểu hơn về quá khứ hào hùng của chúng ta. Tiếc là các buổi diễn xướng của ngài lại thiếu vắng khía cạnh này.”

Đạo trưởng trả lời cứng nhắc, “Thưa đại nhân, thay vì tập trung vào những danh nhân lịch sử các buổi diễn xướng của chúng bần đạo hàm chứa đầy dụ ngôn. Chúng truyền bá Chính đạo tại thượng mà mấy vở kịch thông thường không thể bì được.”

Ông ta mỉm cười cầu hòa rồi nói thêm, “Bần đạo hy vọng đại nhân không vì thế mà cho rằng các buổi diễn xướng coi nhẹ lịch sử. Y phục và những chiếc mặt nạ được chế tác từ hơn một trăm năm trước tại chính bản quán, đó thực sự là những món đồ cổ trân quý. Kính mời đại nhân theo bần đạo đến đại sảnh. Buổi diễn xướng đã bắt đầu từ lúc chính ngọ, hẳn mọi người đang diễn đến những màn cuối cùng. Sau đó, bản quán sẽ dọn lên một bữa ăn đơn sơ đạm bạc mời khách, mong đại nhân có thể dùng cơm cùng chúng bần đạo.”

Địch Nhân Kiệt không mấy thoải mái khi phải tham dự các buổi tiệc trang trọng, nhưng thân là huyện lệnh Hán Nguyên, ông không tiện từ chối.

“Một vinh dự cho bản quan,” Địch Nhân Kiệt vui vẻ đáp.

Sau khi đứng dậy, đạo trưởng dẫn lối cho huyện lệnh. Ra khỏi cửa, ông ta nhanh chóng nhìn khắp hành lang tờ mờ tối, nhẹ nhõm trước quang cảnh vắng lặng bên ngoài. Sau đó, đạo trưởng cung kính đưa huyện lệnh đến cánh cửa cao của đại sảnh.