← Quay lại trang sách

Phần 1 Chia ly

Tối nào họ cũng hẹn nhau lúc tám giờ. Bất kể hôm ấy trời đang mưa, tuyết đang rơi, đang có trăng hay chẳng có gì. Cứ thế thôi, chẳng có gì mới, cũng chẳng phải một ý định chợt đến. Năm ngoái họ đã hẹn hò như thế, năm trước rồi năm trước nữa cũng vậy. Tám giờ gặp nhau, mười hai giờ ai về nhà nấy. Tuy nhiên, năm nay lịch hẹn hò sắp có thay đổi. Một thời gian ngắn nữa thôi; một, hai tuần nữa thôi, thời gian hẹn hò sẽ kéo dài hơn; trọn hai mươi tư giờ một ngày. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, vào tháng Sáu. Anh và cô đều công nhận rằng tháng Sáu năm nay đến quá chậm. Như thể nó chẳng bao giờ đến vậy.

Đôi khi, họ cảm thấy như mình đã chờ đợi chuyện này cả đời. Đúng, họ đã mong chờ nó. Không nói quá chút nào đâu. Vì, bạn biết không, lần đầu tiên hai người gặp nhau là khi cô lên bảy và anh lên tám. Lần đầu tiên họ trúng tiếng sét ái tình là khi anh tám tuổi, còn cô bảy tuổi. Đôi khi mọi chuyện cứ diễn ra như thế.

Hai người đáng lẽ đã kết hôn từ lâu rồi. Tháng Sáu năm ngoái, tháng Sáu năm trước, tháng Sáu đầu tiên anh trở thành đàn ông còn cô thành thiếu nữ. Vậy sao họ lại không làm đám cưới? Vật cản luôn xuất hiện, lớn hơn hẳn những chướng ngại khác là gì? Tiền bạc. Hồi đầu anh chẳng có nghề ngỗng gì. Rồi đến một công việc với đồng lương bèo bọt nuôi mình anh còn không đủ, nói chi là thêm cả cô.

Rồi cha anh qua đời. Vào tháng Mười, sau khi một trong những tháng Sáu bị phí phạm đã trôi đi. Cha anh từng là người gác phanh xe lửa trên con đường sắt chạy ngang qua vùng đó. Một cái ghi bị hỏng đã cướp đi sinh mạng của ông, và dù rằng anh chẳng đòi hỏi gì, nhưng phía nhà ga chắc sợ về sau anh sẽ đổi ý, nên để tránh mất nhiều tiền, họ mau mắn, nhanh nhẹn thí cho anh một khoản ít hơn nhiều so với mức họ lo lắng sau này anh sẽ đòi, ngay sau khi anh muốn làm vậy. Mánh này đã hiệu quả.

Dù ít nhưng đây vẫn là một khoản lớn, đối với cả anh và cô. Sau khi nhận lại tiền từ tay luật sư thì anh được hơn tám ngàn. Số tiền ban đầu là mười lăm ngàn. Nhưng như tay luật sư cho biết, hầu hết luật sư đều sẽ hưởng năm mươi phần trăm khoản tiền đó, nhưng anh ta thì không, anh ta là một luật sư rất tử tế. Dù sao thì, vào tháng Sáu tới, hai người có thể thành vợ chồng, đó là tất cả những gì họ quan tâm. Phải vào tháng Sáu, vì cô muốn thế; nếu tổ chức vào tháng Năm hay tháng Bảy thì chẳng giống cưới xin gì cả. Chỉ cần cô muốn thế, thì anh cũng muốn. Và những con số lớn trên năm trăm gần như không có thật, họ không quen với chúng. Một ngàn đối với họ cũng chỉ như tám ngàn, và tám ngàn cũng chẳng khác gì mười lăm ngàn. Những con số to đến thế cũng chưa chắc là thật, ngay cả khi bạn đang cầm tờ séc trong tay.

Và tất cả là của anh, là của họ. Mẹ anh mất từ khi anh còn nhỏ, giờ thì chẳng còn ai hưởng chung số tiền đó nữa. Chà, tháng Sáu đang đến gần rồi! Hình như nó đang chần chừ, để tất cả các tháng còn lại chớp thời cơ vượt lên trước.

Tên anh là Johnny Marr, và trông anh giống… Johnny Marr. Giống như cái tên của anh. Như bất kỳ Johnny nào, ở bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào. Ngay cả những người đã gặp anh cả trăm lần cũng không thể mô tả anh thật rõ ràng, trông anh chẳng khác gì những người bình thường khác, cách hành xử cũng chẳng có gì nổi bật. Chỉ cô mới có thể nhìn ra, nhưng đó là vì anh có sức hút đặc biệt đối với cô. Anh giống như cả ngàn anh chàng trẻ tuổi khác ở khắp nơi. Bạn có thể gặp họ ở bất kỳ đâu. Bạn nhìn họ nhưng không nhận ra họ. Tức là chẳng có gì nhiều để miêu tả. “Tóc hơi hung hung”, họ có thể nói thế. “Đôi mắt nâu”, thế rồi họ bỏ cuộc, vô thức đi trệch khỏi nội dung miêu tả đặc điểm thể chất rõ nét. “Thằng cha đẹp trai, ăn mặc sáng sủa, đầu tóc gọn gàng, chẳng có gì nhiều để mà nói; chẳng nói được gì nhiều về hắn.” Và rồi ngay cả những chi tiết này cũng biến khỏi trí nhớ. Có lẽ khi sống chung, cô sẽ nhuộm màu con người anh, điều ấy sẽ chậm rãi bắt đầu từ tháng Sáu tới. Anh đang đợi chờ cái ngày mình trở nên hoàn thiện, nhưng anh sẽ không đánh mất chính mình.

Vậy là bạn đã biết về họ rồi nhé.

Vào một đêm, đêm nay, đêm cuối cùng trong tháng, anh tới điểm hẹn hơi muộn. Chỉ một hoặc hai phút, không hơn. Anh vội vã rảo bước, vì không muốn cô phải đợi. Anh luôn tới điểm hẹn trước, vì anh thấy mình làm thế là phải lẽ. Nhưng đêm nay cô sẽ đến sớm hơn, anh gần như chắc chắn, điều đó giải thích vì sao anh lại vội vàng đến thế.

Đêm ấy giống như một đêm xuân, một trong những đêm xuân đầu tiên trong năm, bất chấp không đúng lịch. Ngay cả bầu trời cũng không phải là một bức màn đêm kín mít mà đang giăng đầy những vì sao. Và, như sau đó anh nhớ lại, một chiếc máy bay vừa xuất hiện trên bầu trời từ đâu đó, vào đúng lúc ấy. Anh có thể nghe thấy tiếng ro ro đều đều của nó vọng lại vài phút sau khi đã bay xa, rồi tất cả lại chìm vào tĩnh lặng. Nhưng anh chẳng buồn ngước lên nhìn, đôi mắt anh đang còn bận việc khác; anh sẽ dành đôi mắt ấy cho cô, khi anh xuống quảng trường và thấy cô đang đứng đó chờ anh ngoài hiệu dược phẩm.

Và rồi khi anh rẽ vào góc phố cuối cùng và có mặt trên quảng trường, nơi này người đông như kiến, nhất thời anh không thể nhìn thấy cô. Họ xúm xít bu kín như bầy ong. Như thể hiệu dược phẩm kia vừa bị cướp, hoặc bị cháy, hoặc gặp phải chuyện gì đó tương tự. Họ đứng quanh đó thành từng tốp, hiếm hoi lắm mới để chừa một lối đi. Bao trùm khắp quảng trường là sự câm lặng lạ lùng. Mọi người không nói chuyện, họ chỉ đứng đó im lặng tuyệt đối, không ai nói một lời. Thật không tự nhiên khi người ta đứng đó trong sự câm lặng chết chóc thế này. Như thể họ đã đông cứng thành đá, choáng váng trước điều gì đó mình vừa thấy, đến nỗi không thể trở về trạng thái ban đầu.

Dù là chuyện gì đi nữa, nó cũng đã kết thúc. Đây chỉ là dư âm.

Anh chen qua đám đông tiến về phía trước. Anh đến ngay chỗ mà lẽ ra cô đang đứng, chỗ của họ, tựa vào đúng ô cửa sổ sáng đèn, với những chai đựng thuốc tẩy và nước thơm sau lưng cô. Nhưng chỗ ấy trống trơn. Những người khác đang đứng xung quanh, nhưng cô thì không thấy đâu.

Có lẽ chỉ đơn giản là cô đang đứng cách đó một quãng, lẫn vào trong đám đông trong khi đợi anh đến. Anh kiễng chân, cố gắng nhìn qua đầu những người đứng trước mặt. Anh chẳng thấy cô đâu cả. Thế là anh lại chen qua đám đông, một lần nữa, đẩy họ sang một bên, dáo dác nhìn xung quanh.

Đôi chân chợt dẫn anh tới bên vệ đường, lúc này đang bị cơ man là người che khuất, ngăn cách anh với vệ đường. Và họ chỉ đứng yên đấy. Chẳng có ai bước xuống lòng đường, chẳng có ai bước thêm, họ chỉ đứng đó, xếp thành một đội hình hình vuông rỗng[*]. Một cảnh sát đang ngăn cản người dân, với sự giúp đỡ của một người tình nguyện.

Đội hình hình vuông rỗng (hollow square, hay còn được gọi là infantry square): là một đội hình quân sự số đông, với các binh sĩ đứng sát bên nhau xếp thành một hình vuông rỗng.

Có gì đó nằm giữa họ. Một con búp bê rách nát hay cái gì đó trông mềm oặt tương tự, đang nằm trên đường. Con búp bê to bằng người thật. Bạn chỉ có thể thấy được đôi chân và tấm thân bé nhỏ méo mó. Đầu và mặt của nó bị các tờ báo che phủ, nhưng thứ chất lỏng gì đó đã thấm qua chúng. Nhớp nháp và đen ngòm, như xăng hay…

Mấy mảnh thủy tinh vỡ, những mảnh vụn của thứ từng là một cái chai sẫm màu, lởm chởm vương vãi khắp nơi. Toàn bộ phần cổ chai, còn nguyên vẹn, nằm cách đó một quãng.

Vài người đang rướn cổ ngước lên cửa sổ của những ngôi nhà trông xuống quảng trường. Vài người còn ngước lên cao hơn, dọc theo các gờ đắp nổi trên mái nhà. Vài người khác thậm chí còn đưa mắt về phía vừa phát ra tiếng động cơ máy bay lúc nãy.

Johnny Marr cuối cùng cũng nhúc nhích. Anh bước những bước lảo đảo lạ lùng rời khỏi vệ đường người đứng lố nhố, một mình tiến vào khoảng không gian mở… và thứ đang nằm ở đó.

Ngay lập tức, viên cảnh sát đến đứng bên cạnh anh. Ông đặt tay lên vai Johnny Marr, ngăn cản và kéo anh lùi lại.

Johnny Marr thì thầm, “Làm ơn bỏ tờ báo kia ra một chút. Tôi… tôi chỉ muốn xem mình có biết đó là ai không…”

Viên cảnh sát cúi xuống, túm lấy góc xa nhất của một trong các tờ báo ướt đẫm, lật ngược nó lại một lúc, rồi lại duỗi thẳng ra như cũ.

“Anh có biết không?” Ông khẽ hỏi. “Có biết không?”

“Không,” Johnny yếu ớt đáp. “Không, tôi không biết.” Anh đang nói thật.

Đó không phải thứ anh sẽ lấy làm vợ. Anh sẽ không kết hôn với cái thứ đó. Cô gái mà anh sẽ kết hôn trông không như thế. Chẳng ai lại trông như thế cả.

Mũ anh rớt xuống mặt đường. Họ nhặt nó lên và trả lại cho anh. Dường như anh không biết phải làm gì với nó, nên cuối cùng ai đó đã đội mũ lên đầu giúp anh.

Anh quay người bỏ đi, như thể không hề quen biết cô. Đám đông nhường lối khi anh chen qua họ, rồi lại xúm vào như cũ; anh bị nó nuốt chửng.

Anh quay về điểm hẹn hò của hai người, bên cạnh cửa sổ hiệu dược phẩm, bên cạnh những chai đựng thuốc tẩy và những lọ mỹ phẩm màu hổ phách cũng như lục nhạt sáng rực, quay về chốn xưa bé nhỏ của anh và cô; anh lảo đảo tựa người vào đó, tê liệt.

Chẳng ai nhìn anh nữa, mọi người đang nhìn theo hướng khác, nhìn ra lòng đường.

Cái gì đó có đèn pha đỏ rực, một cỗ xe ngựa đến từ địa ngục, đang lượn xung quanh đó, lùi dần vào vị trí. Một thứ đang được đưa vào cỗ xe đó. Một thứ mà không ai muốn dùng nữa, không ai yêu thương nữa, một thứ bị vứt bỏ. Hai cánh cửa sau của cỗ xe địa ngục đóng sập lại. Ánh sáng đỏ quay tròn, lướt qua đám đông chừng một phút, nhuộm họ trong sắc máu, như một quả pháo bông bị xịt trong ngày Quốc khánh mùng bốn tháng Bảy, thay vì bay lên nó chỉ xì xì quay tròn dưới mặt đất, rồi tan biến với một tiếng rền rĩ than van.

Anh vẫn đứng đó. Anh chẳng biết mình phải đi đâu. Anh chẳng còn nơi nào để đến. Khắp thế gian này chẳng còn chỗ nào ngoài chỗ này.

Ban đầu cú sốc không tệ lắm. Nó giống một dạng tê liệt hơn bất kỳ cảm giác nào khác. Bạn không thể đoán được. Anh chỉ lặng lẽ đứng đó, đôi khi hơi lắc lư như tay dẫn chương trình dự báo thời tiết quá nhạy cảm với cơn gió nhẹ mà không ai cảm thấy. Chiếc tủ hàng sau lưng và phần hơi nhô ra bên cạnh đỡ thân hình anh ở giữa đứng thẳng. Nhưng rồi nỗi đau bắt đầu khắc sâu. Nó khắc sâu đến nỗi không thể nào quay trở ra được nữa. Những nơi bị khắc sâu một khi sinh bệnh sẽ không bao giờ có thể lành lại. Khắc thật sâu vào tâm trí, vào tận trong tiềm thức.

Lúc này đôi mắt anh chợt hướng lên trên, như thể ký ức về cái âm thanh vo vo kia, về chuyến bay của tử thần trên bầu trời kia, đột nhiên hiện về trong ý thức đang suy sụp của anh.

Hai bàn tay anh siết chặt, anh giơ nắm đấm về phía bầu trời, nhắm thẳng về phía chiếc máy bay. Anh cứ giữ nguyên tư thế ấy, dứ mạnh nắm đấm, dứ mạnh thêm lần nữa, lần nữa rồi lần nữa, như lời hứa hẹn khủng khiếp về màn tính sổ không khoan nhượng sắp tới.

Và đúng vào lúc anh thể hiện quyết tâm ấy, bóng tối phủ trùm xuống anh.

Gác chuông nhà thờ ngay bên kia quảng trường điểm mười hai tiếng. Đám đông đã về nhà hết, quảng trường chẳng còn ai ngoài anh. Lúc này trên mặt đường chẳng còn gì nữa, ngoài mấy tờ báo bẩn thỉu và đen ngòm, chẳng khác gì giấy gói ở mấy cửa hàng thịt.

Tối nay cô đến muộn vài phút, nhưng cô sẽ đến. Bạn biết mấy người đẹp rồi đấy, có thể vào phút cuối họ vẫn còn bận bịu với trang phục hay tóc tai. Bạn phải kiên nhẫn với họ thêm vài phút nữa, trong bất kỳ cuộc hẹn nào. Lúc này, vào bất kỳ phút nào, anh vẫn như thấy cô đang chạy về phía mình từ bên kia quảng trường, cô luôn chạy đến từ phía ấy, vẫy tay chào anh khi sang đường, cô luôn làm như thế. Đêm nay nơi họ đứng gần như chìm trong bóng tối, có thể bộ truyền động có chuyện gì đó không ổn, mới tám giờ mà trời đã tối mịt. Nhưng mặc kệ sáng hay tối, lúc này vào bất kỳ phút nào anh cũng như đang nhìn thấy cô.

Đồng hồ ở tháp chuông đang nói láo; nó chạy chẳng có thứ tự gì cả; cần phải sửa ngay. Bốn tiếng chuông là quá nhiều. Anh xem đồng hồ đeo tay. Ngay cả nó cũng phản bội anh; nó cũng đang nhiễu. Nó chạy băng băng về phía trước, nó đang giết chết cô, đang cứa nát trái tim anh. Anh tức giận tháo đồng hồ ra quẳng xuống đất, giậm nó thật mạnh dưới gót giày. Rồi anh cầm đồng hồ lên đeo lại vào tay, nó dừng lại vài phút trước tám giờ.

Anh đưa đồng hồ lên tai lắng nghe. Nó im lặng, đứng yên một chỗ. Cô an toàn rồi. Cô vẫn đang đến gặp anh, ở nơi nào đó ngay góc phố cuối cùng khuất tầm nhìn. Và bây giờ chẳng còn chuyện gì không may có thể xảy đến với cô nữa, chẳng có chuyện gì như tai họa vừa giáng xuống đầu cô gái tội nghiệp nào đó; anh sẽ quan tâm đến chuyện đó. Chừng nào còn chưa đến đúng tám giờ, cô sẽ bình yên mà đến đây. Cả buổi tối nay cô sẽ không sao. Cô sẽ sống bình yên đến hết đời.

Giờ thì nó sẽ luôn là tám giờ, trên đồng hồ của anh, trong trái tim anh, trong tâm trí anh.

Một người tốt bụng bước đến bên anh. “Anh sống ở đâu hả Mac? Tôi sẽ đưa anh về nhà. Anh không muốn đứng đây như thế này nữa đâu.”

Johnny Marr nhìn xung quanh, trời đã sáng bảnh. Ánh mặt trời sáng sớm đang nhòm xuống quảng trường.

“Tôi nghĩ mình đã đến sớm quá,” anh ấp úng. “Trời vẫn chưa tối. Chẳng hiểu sao tôi… tôi lại nhầm lẫn đến vậy.”

Anh để mặc người kia dìu mình rời xa quảng trường. Anh đang lầm bầm nhẹ nhàng, đầy mơ hồ. Thậm chí anh còn khẽ mỉm cười.

“… ngày cuối cùng của tháng Năm, ngày ba mươi mốt tháng…”

“Vâng,” người tốt bụng đó nói, hẳn cho rằng anh đã nốc quá nhiều bia, “là hôm qua rồi.”

“Mỗi năm một lần,” Johnny Marr nhẹ nhàng lẩm bẩm, “mỗi năm một lần ngày ấy lại đến… vì một người khác.”

Người đàn ông bên cạnh không lắng nghe anh, kể cả có nghe thì cũng chẳng hiểu gì.

“… không sớm thì muộn, một ngày nào đó, một cô gái sẽ bước vào cuộc đời mỗi người. Một cô gái luôn phải bước vào cuộc đời mỗi thằng đàn ông. Chúng sẽ không chết đâu, nhưng các cô gái thì có. Khi ta chết, ta chẳng còn cảm thấy gì nữa. Chúng sẽ sống, và chúng sẽ cảm nhận được…”

“Có chuyện gì với anh thế hả Mac?” Người đang dìu anh hỏi cộc lốc, thiếu kiên nhẫn. “Cứ nhìn lên đấy mãi làm gì thế? Mất gì trên đấy à?”

Johnny Marr chỉ nói thêm đúng một câu.

“Ai cũng có một nửa của mình,” anh nhăn mặt khó chịu. “Nhưng tại sao tôi lại không?”

Giờ đây, tối nào cũng thế, chìm trong cô đơn, một bóng hình bất động sẽ đứng chờ trong hốc tường cửa sổ hiệu dược phẩm, nơi bày các lọ mỹ phẩm và nước thơm. Một hình bóng kiên nhẫn, đôi mắt cô đơn, ám ảnh không ngừng mải miết kiếm tìm. Đợi chờ, đợi chờ hàng giờ liền cho đến tám giờ, một tám giờ chẳng bao giờ đến. Cứ đứng chờ như thế cả cuộc đời, cứ đứng chờ cho đến vĩnh hằng. Đợi chờ trong sự dịu dàng của tháng Sáu, trong cái nóng khắc nghiệt của con bão từ tháng Bảy, trong khoảng trời đêm không sao của tháng Tám và tháng Chín; đợi chờ trong cơn gió rứt lá của tháng Mười, khi cổ áo dựng đứng hết lên, kiên nhẫn di chuyển, lê bước trong cái giá buốt tháng Mười Một.

Anh đỏ mắt tìm kiếm, kiên nhẫn đợi chờ một người chẳng bao giờ đến, thi thoảng lại xem chiếc đồng hồ đã chết từ lâu, kiếm tìm trong đó sự an ủi; một chiếc đồng hồ luôn dừng ở tám giờ kém. Con số tám chất chứa đầy niềm hy vọng vĩnh hằng. Con số tám của tình yêu biến thành bi kịch và khổ đau.

Cho đến khi ánh đèn trên ô cửa sổ sau lưng anh tắt lịm. Cho đến khi ông chủ hiệu dược phẩm khóa cửa và đi ngủ. Cho đến khi con số tám không bao giờ nhúc nhích ấy biến thành nửa đêm, biến thành một giờ sáng, biến thành thực tế.

Phải đến lúc ấy anh chàng cao bồi hiệu dược phẩm đáng thương mới lê bước, tự tan nhòa vào bóng tối. “Tối mai cô ấy sẽ đến. Tối mai cô ấy sẽ đến vào lúc tám giờ. Có thể cô ấy không đến là có mục đích, bạn biết mấy cô gái thế nào mà, cô ấy đang cố gắng giễu cợt mình, khiến mình phải luôn sẵn sàng.” Tiếng bước chân yếu ớt không còn vang, bóng người ấy đã tan biến vào bóng tối ảm đạm.

Chẳng ai biết anh đến từ đâu. Chẳng ai biết anh đi đâu. Chẳng ai quan tâm nhiều. Đó chỉ là một cuộc đời khác, thế gian này vẫn còn nhiều lắm những mảnh đời. Anh không còn sống ở nơi anh từng sống; họ chẳng còn trông thấy anh nữa. Họ đưa tay lên gãi đầu, rồi gật đầu để người ta hiểu ý mình. Anh không còn làm việc ở nơi anh từng làm việc, cũng chẳng ai nhìn thấy anh nữa.

Nhưng bạn vẫn luôn có thể tìm thấy anh, khi đi xuống hiệu dược phẩm, khi đi xuống quảng trường. Vào một ngày sẽ không bao giờ trở thành sự thật.

Vậy nên rất nhiều người biết mặt anh, dù họ chẳng hề quen biết anh. Nhưng những người biết anh, họ chỉ đi lướt qua. Họ có thể làm gì cho anh? “Đừng nhìn. Tên Johnny Marr tội nghiệp ấy lại đứng chờ cô gái đã chết đấy.”

Vài người cố gắng tử tế với anh bằng những cách lạ lùng, chẳng ai giống ai. Loài người tức cười thật. Một trong những anh chàng trẻ tuổi quen biết anh tình cờ đi qua, lặng lẽ dúi vào tay anh một bao thuốc lá, rồi bỏ đi chẳng nói lời nào. Chỉ nhằm giúp anh đỡ cô đơn trong những đêm dài chờ đợi.

Vào một đêm đặc biệt buốt giá, ông chủ hiệu dược phẩm bất ngờ bước ra ngoài cửa, ấn vào tay anh tách cà phê bốc khói nghi ngút. Một lần nữa ông chẳng nói lời nào. Một lần nữa khi anh đã uống cạn tách cà phê. Chỉ lần đó; trước kia không như thế, sau này cũng sẽ không như thế.

Loài người tức cười thật. Họ rất tàn nhẫn, nhưng cũng rất nhân hậu; họ rất cứng cỏi, nhưng cũng thật yếu mềm.

Anh tự biến mình thành một cột mốc, một người ở lì mãi một chỗ, một người da đỏ trước cửa tiệm thuốc lá[*], nhưng bên trong vẻ khô cứng, khắc kỷ ấy là dòng máu nóng đang chảy rần rật.

Hồi đầu thế kỷ XX, các tiệm thuốc lá ở Mỹ thường đặt trước cửa một bức tượng thổ dân da đỏ.

Một đêm khác, một quý bà tuổi trung niên có thiện ý, người không hề biết, chưa từng nghe về câu chuyện này, sau khi bước ra khỏi rạp chiếu phim cách hiệu dược phẩm mấy nhà, đã bước đến chỗ anh.

“Anh bạn ơi, xin lỗi đã quấy rầy, nhưng làm ơn cho tôi biết bây giờ là mấy giờ rồi? Tôi e là mình đã ở trong đó lâu hơn dự kiến.”

Anh trang trọng xem đồng hồ. “Ba phút nữa là tám giờ.”

“Trời đất. Chắc anh bạn nhầm rồi!” Bà ta liến thoắng phản đối. “Không thể thế được. Giờ ấy tôi đã vào xem phim rồi, tôi ở trong đó chắc phải hai tiếng rưỡi. Chẳng nhẽ lịch sự trả lời tôi khó khăn với anh đến…”

Bỗng bà ta im bặt. Quai hàm bà ta cứng ngắc. Ánh mắt đáng sợ của anh khiến bà ta suýt đứng tim. Bà ta loạng choạng lùi lại, từng bước một, cho đến khi tạo ra khoảng cách đủ yên tâm giữa hai người, rồi mới quay ngoắt, lạch bà lạch bạch chạy một mạch, không ngừng ngoái lại nhìn để chắc chắn rằng anh không đuổi theo.

Thứ bà ta vừa thấy là tử thần sắp nhảy ra vồ lấy mình từ một khuôn mặt người.

Bà ta là một người thông minh, biết phòng xa; là người đã bỏ chạy kịp thời.

Một đêm nọ, viên cảnh sát cũ từng gác quảng trường bị thay thế. Ông ta hoặc đã quá già, bị thuyên chuyển hoặc đã qua đời. Anh chàng mới đến có vẻ lăng xăng, nhiễu sự và tỏ vẻ chuyên cần quá mức, như tất cả những cảnh sát mới vào nghề khác.

Cậu ta làm một vòng quanh quảng trường, và Johnny thì đang đứng đó. Cậu ta vòng lại lần thứ hai, Johnny vẫn đang đứng đó. Sau lần thứ ba, vòng tuần tra cuối cùng, cậu ta dừng lại và bước đến chỗ anh.

“Này, có chuyện gì thế?” Cậu ta hỏi. “Anh đang làm tôi căng thẳng đấy. Anh đã đứng đây suốt ba tiếng rồi. Anh không cần phải làm đẹp quảng trường đâu. Tôi cóc cần biết nhà anh đang phải chịu đựng những gì, nhưng đây là ca trực của tôi.” Cậu ta huých nhẹ dùi cui vào hông anh hòng ép anh phải di chuyển.

“Tôi đang đợi cô gái của tôi,” Johnny đáp.

“Cô gái của anh chết rồi,” viên cảnh sát tàn nhẫn nói. “Người ta kể cho tôi nghe thế đấy. Cô ta mồ yên mả đẹp rồi, lúc này cô ta đang yên nghỉ trong nghĩa trang trên sườn đồi kia. Tôi đã đi lên đó, chính mắt tôi đã trông thấy ngôi mộ của cô ta. Thậm chí tôi có thể nói cho anh biết trên bia mộ viết những…”

Johnny Marr bỗng đưa cả hai tay lên bịt tai lại, với sự căng thẳng khó chịu.

“Cô ta sẽ không trở về đây nữa đâu.” Cậu ta nói tiếp. “Chấp nhận đi. Đừng làm thế khi tôi đang nói chuyện với anh, hiểu chưa? Giờ thì đi đi, đừng để tôi thấy anh lần nữa.”

Johnny Marr khẽ xoay người, như thể vừa thoát khỏi trạng thái bị thôi miên. Bị thúc dùi cui, anh cử động một chân. Viên cảnh sát lại thúc nữa, anh di chuyển nốt chân kia. Cái dùi cui liên tục thúc đến khi anh phải bước cả hai chân. Viên cảnh sát cứ thế đứng nhìn cho đến khi anh đi khuất.

Và kể từ đêm đó, bỗng dưng không ai còn thấy anh đúng ở chỗ cũ nữa. Không ai còn gặp anh nữa.

Vài người đã thắc mắc về anh, rằng anh đi đâu, chuyện gì đã xảy đến với anh. Nhưng rồi họ cũng quên. Họ đã lãng quên anh.

Vài người cho rằng hôm sau họ trông thấy anh với một túi đồ bên cạnh, đứng trên sân ga chờ đợi chuyến tàu sẽ đưa anh đi xa. Nhưng chẳng ai biết được chuyện ấy có thật hay không.

Lẽ ra viên cảnh sát nên để mặc anh đứng đó, lẽ ra nên để cho anh yên. Cho đến tận lúc đó, anh chưa từng làm hại bất cứ ai.

Hãng hàng không Tri-State cực kỳ hài lòng với sự phục vụ của nhân viên có tên ghi trên hồ sơ là Joseph Murray. Anh đã làm việc với họ được ba tháng. Công việc của anh là lập hồ sơ. Họ trao cho anh quyền tiếp cận các lịch bay, danh sách chỗ đặt trước và vô số hồ sơ lưu trữ tích tụ của một tổ chức tầm cỡ. Dường như anh rất có hứng thú với công việc này. Anh không ngừng sục sạo, đào bới đống hồ sơ; tìm tòi, tra cứu các hồ sơ đặt chỗ đã lâu, xem xét các danh sách khách hàng cũ. Anh thường ở lại công ty rất muộn, cặm cụi làm việc theo thời gian biểu của riêng mình. Anh cứ đào, đào và đào… những hồ sơ đã phủ bụi thời gian. Nhưng bỗng dưng anh trở nên mất hết hứng thú.

Thậm chí anh còn sắp được tăng lương nhẹ. Đó là chính sách của công ty, cứ sau sáu tháng. Chỉ là bất ngờ anh không muốn nhận. Anh không từ chức, ngay cả thông báo nghỉ việc cũng không. Anh chỉ bước ra khỏi văn phòng và không bao giờ quay lại nữa. Một hôm, sáng vẫn thấy anh làm việc, nhưng đến chiều anh đã biến mất.

Họ đợi anh quay lại. Nhưng anh không trở về. Họ bèn kiểm tra. Theo địa chỉ anh để lại, họ đến tìm nhưng không thấy. Chẳng ai biết anh đã đi đâu.

Tuy thấy khó hiểu, nhưng họ cũng không thể dừng lại và lo lắng về chuyện đó. Họ nhận một người khác thế chỗ anh, họ buộc phải làm thế. Nhưng người kế nhiệm chẳng hề sốt sắng hay tận tâm với công việc được như vậy. Anh ta chỉ lại gần các hồ sơ khi được sai bảo.

Hãng hàng không Liberty cực kỳ hài lòng với sự phục vụ của nhân viên có tên ghi trên hồ sơ là Jerome Michaels. Anh ta cũng không ngừng sục sạo, sàng lọc các hồ sơ, ghi chú lại các ngày tháng, suy nghĩ về giờ đi và giờ đến, soạn thảo những tuyến đường bay trên các bản đồ tham khảo. Nhưng rồi bỗng dưng anh ta không còn tích cực nữa. Hôm trước vẫn thấy anh ta đi làm, nhưng hôm sau thì không.

Hãng hàng không Continental cũng có trải nghiệm tương tự. Great Eastern cũng thế. Mercury cũng vậy. Nó xảy ra với từng hãng hàng không trong số họ, với một trong số các nhân viên mặt đất của họ.

Sau đó các hãng hàng không nhỏ hơn cũng bắt đầu gặp phải hiện tượng lạ lùng ấy. Từng công ty một, từng tủ hồ sơ một. Ngay cả những công ty rất nhỏ, mỗi công ty chỉ có khoảng sáu máy bay hoạt động, thực hiện những chuyến bay không được xếp lịch. Tức là, những chuyến bay không tuân thủ theo thời gian biểu nhất định… bay theo đơn đặt hàng, hoặc có thể nói là cho các cá nhân hoặc các tập đoàn tư nhân nào đó thuê, nhân một dịp nào đó. Tuy nhiên, họ vẫn lưu giữ các sổ sách kế toán, theo quy định của pháp luật, để được cấp giấy phép vận hành bay và đóng thuế.

Thí dụ như một tổ chức rất nhỏ tự gọi mình bằng cái tên hết sức phô trương, nhưng chẳng lừa được ai dù nghe cũng hay, Hành trình Sao Chổi. Tổ chức này có văn phòng trụ sở rất khiêm tốn, chỉ gồm hai phòng nhỏ, có đúng hai nhân viên, vài cái máy bay rách nát nhưng cố gắng chèo chống thì cũng không đến nỗi, do hai đối tác luôn lo lắng và căng thẳng điều hành. Tuy nhiên các hồ sơ của họ lại được sắp xếp không tốt.

Một hôm, một trong hai nhân viên của họ, tên là Jess Miller, đã huýt sáo trước những hồ sơ này. Người còn lại, cô gái làm việc cùng anh ta trong cái văn phòng xập xệ, đầy bụi, nhìn xung quanh và nói, “Chuyện gì thế Jess? Anh bị bệnh hay sao thế?”

Anh ta không đáp. Anh ta chẳng nói lời nào.

Thay vào đó, anh ta giật mạnh tấm thẻ chỉ mục hồ sơ màu vàng khỏi ghim.

“Này đừng, các sếp sẽ la đấy!” Cô ta thốt lên.

Ngăn kéo hồ sơ mở tung ra, cánh cửa văn phòng mở tung, anh ta không còn trong văn phòng cùng cô nữa.

Thậm chí anh ta còn chẳng mang theo mũ. Nó vẫn nằm yên trên móc. Nó nằm đó suốt mấy ngày cho đến khi người ta vứt nó đi. Anh ta cũng không thèm lấy 6,25 đô la, mức lương nửa tuần làm việc. Và dù bạn có tin hay không, thì việc không phải trả khoản tiền đó, khi đó đối với Hành trình Sao Chổi mà nói, thật không khác gì một ân huệ.

Cô ta kể lại cho một trong các sếp việc anh ta đã làm, ông ta bèn xem xét, cố gắng tự tìm hiểu xem anh ta đã xé đi tấm thẻ nào. Nhưng không thể. Toàn bộ hồ sơ đã quá cũ kĩ, lẫn lộn lung tung đến nỗi ông ta không thể tìm ra.

Tuy nhiên, ngoài việc tự dưng phải hứng một đống bụi, ông ta còn nảy ra một ý tưởng. Ông ta lôi ra cả đống hồ sơ và ném hết chúng vào sọt rác.

“Chắc phải từ đời tám hoánh nào rồi ấy,” ông ta nói. “Thậm chí tôi còn chẳng biết chúng vẫn còn nằm ở đấy. May có anh ta nhắc.”

Trên tấm thẻ là dòng chữ đánh máy đã mờ:

Số hiệu (một dãy chữ số chẳng còn ý nghĩa gì nữa).

Bên thuê: Câu lạc bộ Rod & Reel, Tổ chức Thể thao Nghiệp dư.

Điểm đến: Hồ Star-of-the-Woods.

Mức giá: 500 đô la.

Giờ khởi hành: Sáu giờ chiều, ngày ba mươi mốt tháng Năm năm 19…

Phi công: Tierney, J. L.

Tiếp theo là những cái tên hành khách dưới đây, kèm theo địa chỉ hồi ấy của từng người:

Graham Garrison.

Hugh Strickland.

Bucky Paige.

Richard R. Drew.

Allen Ward.

Trên một bản đồ, dưới ánh đèn bí mật, tấm thẻ nằm bên cạnh để tham khảo nhanh, một cây thước và một cái bút chì kẻ một đường thẳng thận trọng giữa thành phố lớn, nơi chuyến bay bắt đầu, với mặt hồ có hình như một ngôi sao nhỏ, nơi là điểm đến cuối cùng. Đường thẳng giữa hai điểm này là ngắn nhất. Như đường chim bay. Những chuyến tàu không thể chạy qua, tương tự là xe ô tô. Nhưng máy bay thì có thể, mà chẳng gặp chướng ngại nào.

Giữa thành phố và mặt hồ, cây bút chì kẻ một đường dẫn hướng thẳng tắp đến một nơi gọi là…

Đầu chì gãy. Thân bút chì đập xuống bản đồ văng ra ngoài. Một nắm đấm giáng thẳng xuống tấm bản đồ, khiến nó bị vò nát và bóp chết bằng sức mạnh hận thù, thành một đống nhăn nhúm, không rõ hình thù giữa những ngón tay tàn bạo.

“Nó chết rồi,” người phụ nữ trông có vẻ mệt mỏi đứng trên ngưỡng cửa nói, giọng vô cảm. “Chết được hai năm rồi. Nó là con cả của chị gái tôi. Cũng khấm khá. Cái loại người liều mạng với mấy cái thùng thưa buộc bằng dây thép, sắp hỏng đến nơi để kiếm chút tiền còm đâu có gọi là sống. Chở mấy thằng say đến hội nghị, các buổi họp chi nhánh, các chuyến du ngoạn câu cá rồi cái chết tiệt gì nữa. Mà nó chẳng uống giọt nào đâu nhé. Nhưng hành khách toàn mang rượu lên máy bay, nó toàn kể với bọn tôi thế. Đúng ra là cấm đấy, nhưng nó đành nhắm mắt cho qua. Làm được gì chứ? Kiếm sống cả mà. Chúng lén mang rượu lên không cho nó biết, nốc hết rượu chúng ném chai ra ngoài. Chưa bắt tận tay day tận trán được, nhưng nó chắc chắn. Tất cả bọn chúng đều là một lũ say sưa bét nhè, la hét rồi hát rống lên khi đến nơi. Nhưng chẳng tìm thấy cái chai nào trên máy bay.”

“Anh ta chết thế nào?”

“Đúng kiểu của nó,” bà ta nói giọng dửng dưng. “Dưới mặt đất, và chỉ cách nhà nó ba khu phố. Nó bị đẩy ngã xuống đường ray tàu điện ngầm, tàu cắt nó ra làm hai.”

Danh sách bây giờ như sau:

Hành khách:

Graham Garrison.

Hugh Strickland.

Bucky Paige.

Richard R. Drew.

Allen Ward.