← Quay lại trang sách

Phần 2 Điểm hẹn đầu tiên

Jeanette GARRISON (nhũ danh: Wright).

Ngày ba mươi mốt tháng Năm. Người vợ yêu dấu của Graham S. Buổi lễ dành cho gia đình. Vui lòng không mang hoa.

(Cột cáo phó, Daily Newspapers, số ra ngày mùng hai tháng Sáu)

Các tấm rèm trên cửa sổ đã kéo xuống hết. Trên cánh cửa ra vào gắn một vòng hoa tang. Trời đang mưa nhẹ, ngôi nhà xây theo phong cách Georgian[*] bằng gạch đỏ cửa trắng mang vẻ ngoài lạnh lẽo và cô độc. Những giọt mưa rớt xuống từ hàng cây trồng xung quanh nhà, trông nổi bật hơn hẳn so với ngoài tự nhiên bởi hàng lệ long lanh vương trên bức màn lá dày, khiến hàng cây trông như đang nhất loạt khóc than.

Phong cách Georgian: Phong cách kiến trúc phổ biến trong thời đại của bốn vị vua Anh, từ George I đến George IV. Phong cách này du nhập vào Mỹ đầu thế kỷ XX và duy trì sự phổ biến đến những năm 1950. Đặc trưng của nó là sự đối xứng và tỷ lệ.

Chiếc Limousine cũng phủ kín rèm rẽ vào lối đi dành cho xe bóng loáng nước mưa, chậm rãi dừng tại điểm đỗ phía trước các bậc thềm lối vào. Tài xế xuống xe, đưa tay mở và giữ cửa xe bên ghế hành khách.

Một người đàn ông bước xuống, nét mặt nghiêm trang, ông ta cúi người vươn tay đỡ một người khác, vẫn đang ngồi trong xe.

Người thứ hai xuống xe. Gương mặt người này không những nghiêm trang, mà còn khắc khổ. Ông ta để mặc người kia dìu mình đi, khó nhọc bước lên những bậc thềm. Cánh cửa ra vào đã mở ra chào đón khi họ lên đến nơi. Đứng sau cánh cửa là viên quản gia, đang lịch thiệp đưa mắt nhìn xuống dưới.

Bên trong, bầu không khí câm lặng như quỷ ám bao trùm căn nhà vừa có người chết. Hai người bước vào thư viện ngay đối diện sảnh chính. Viên quản gia khéo léo đóng cửa lại, để hai vị khách được riêng tư.

Người kia đỡ ông ngồi xuống ghế. Lập tức ông ngẩng lên nhìn người bạn, nét mặt khẩn khoản thiết tha.

“Trông cô ấy vẫn vậy đúng không?”

“Trông cô ấy đẹp mà, Gray,” người bạn trấn an ông. Trong một lúc ông ta vừa siết chặt vai ông, vừa ngoảnh mặt nhìn ra chỗ khác, bỏ mặc bàn tay ông ta trượt đi trong sự bất lực vô vọng, chẳng làm được gì hơn nữa.

“Ông có muốn lên nhà nằm ngủ một lát không?” Ông ta hỏi.

“Không, tôi ổn mà. Tôi… tôi sẽ làm được.” Ông cố nở nụ cười gan góc. “Chuyện đó xảy đến với tất cả mọi người, có rên rỉ hay khóc lóc cũng chẳng khiến ta dễ chịu hơn. Dù sao cô ấy cũng chẳng muốn tôi đau khổ thế này. Tôi muốn trở thành con người mà cô ấy thích.”

“Ông uống chút brandy nhé?” Bạn ông nhẹ nhàng nói. “Ngoài kia ẩm ướt lắm.”

“Không, cảm ơn.”

“Cà phê thì sao? Từ ngày hôm qua đến giờ ông đã ăn uống gì đâu.”

“Cảm ơn, không cần đâu. Bây giờ thì không. Còn khối thời gian mà. Tôi vẫn còn cả đời để ăn uống cơ mà.”

“Ông muốn tôi nghỉ lại đây với ông đêm nay không? Morgan có thể dọn cho tôi một phòng dành cho khách.”

Garrison xua tay phản đối. “Không cần phải thế đâu, Ed. Thực sự tôi không sao mà. Ông đã lặn lội đến tận đây rồi, ngày mai ông còn cuộc họp tại văn phòng nữa. Về nhà nghỉ ngơi đi. Ông đã làm đủ rồi, tốt lắm rồi. Tôi sẽ chẳng làm được gì nếu không có ông. Cảm ơn ông về tất cả.”

Người bạn nắm chặt bàn tay ông. “Sáng mai tôi sẽ gọi xem ông thế nào.”

“Tôi sẽ lên gác ngủ một chút,” Garrison hứa. “Nhưng trước tiên tôi sẽ ngồi xem qua chồng thư chia buồn mà Morgan chất đống ở đây. Đầu óc tôi nhờ thế sẽ nhẹ…”

“Chúc ngủ ngon, Gray,” bạn ông lặng lẽ nói.

“Chúc ngủ ngon, Ed.”

Cánh cửa ra vào khép lại.

Ông chờ đến khi nghe tiếng người bạn rời khỏi nhà. Ông đợi thêm tiếng gõ cửa chúc ngủ ngon của Morgan, lát nữa sẽ vang lên.

Ông cũng nói với Morgan điều tương tự như với bạn mình, khi ông ta mở cửa ló đầu vào. “Ông đi ngủ được rồi, Morgan. Không cần đợi tôi. Tôi sẽ ngồi đây xem mấy lá thư này một lúc. Không, cảm ơn, tôi không muốn dùng gì hết. Chúc ngủ ngon.”

Giờ ông chỉ còn lại một mình, đúng như ông mong muốn. Ngay cả khi đang đau khổ, được ở một mình vẫn tốt hơn nhiều so với khi có người khác bên cạnh.

Đầu tiên ông có khóc một chút. Theo kiểu một người đàn ông không hay khóc, người trước đây hiếm khi rơi nước mắt. Ông khóc một cách khẽ khàng, kiềm chế, đầu gục xuống hai bàn tay. Thế rồi thôi. Ông ngẩng lên, đôi mắt ông như thể tự biết lau khô. Ông ngồi đó suy nghĩ về người vợ một lúc. Tiếng cười của cô vang lên ngoài sảnh; giọng nói của cô khi về nhà từ chỗ làm và hỏi Morgan, “Ông Garrison đã về chưa?”; bóng dáng cô khi mở cửa, với tất cả vẻ hoạt bát và tiếng reo vui. “Ôi anh đây rồi! Chào anh yêu! Anh tưởng em bị lạc à?”

Quá bất ngờ. Quá đột ngột. Quá chóng vánh.

Thậm chí cả khi khóc ông cũng không đau nhiều đến thế. Nó sẽ chẳng bao giờ dừng lại, mà sẽ luôn khiến ông đau đớn, bởi vì ông sẽ không ngừng nghĩ về cô ấy.

Ông cố gắng xua tan ý nghĩ ấy, tự làm mình khuây khỏa bằng cách xem những lá thư chia buồn. Ông đọc từng bức một. “Lời chia buồn sâu sắc nhất của chúng tôi”; “Lời chia buồn tận đáy lòng của chúng tôi”; “Xin chia buồn với mất mát của ngài”. Chúng cứ đều đều như thế. Nhưng ông nhận ra, họ còn biết nói gì nữa? Họ còn có thể nói gì nữa?

Ông tiếp tục đọc. Lá thư thứ tư ngay dòng đầu tiên viết rằng…

Ông khẽ giật nảy mình, đôi mắt ông mở to hơn.

Ông trừng trừng nhìn nó một lúc. Rồi trừng trừng nhìn không gian trống rỗng xung quanh, tay vẫn nắm chặt lá thư. Rồi ông lại nhìn lá thư.

Lúc này ông đã đứng hẳn dậy, nhưng mắt vẫn không rời lá thư. Ông đặt nó xuống bàn, giữa hai bàn tay duỗi thẳng, đầu ông nghiêng nghiêng, từ trên cao nhìn trừng trừng xuống lá thư, chú mục, căng thẳng.

Như thể vừa quyết định làm gì đó trong tích tắc, ông lao ra cửa, mở tung hai cánh, bước vào sảnh. Ông quay lại chỗ đặt điện thoại, một tay nhấc ống nghe, một tay quay số trong trạng thái căng thẳng. Rồi ông đứng đó chờ đợi.

Khi cuối cùng cũng lên tiếng, giọng ông gấp gáp vì hồi hộp.

“Có phải Đồn Cảnh sát không? Tôi là Graham Garrison, số 16 đường Penrose Drive. Có thể cử một người đến đây được không? Một nhân viên điều tra được không? Phải, ngay bây giờ. Càng sớm càng tốt. Có dấu hiệu của một vụ giết người. Tôi sẽ thảo luận với người mà các ngài cử tới. Tôi không nói trên điện thoại được.”

Ông gác máy, quay vào thư viện, tiến đến cái bàn nơi ông bỏ lại lá thư để xem xét thêm.

Lá thư không có chữ ký, chỉ viết một câu đơn giản:

Giờ mày hiểu cảm giác ấy thế nào rồi chứ.

Người được cử đến là Cameron. Từ bây giờ anh sẽ phải chịu trách nhiệm với nó.

Cameron trông chẳng đáng tin chút nào. Có lẽ vì vào giờ ấy họ chẳng tìm được ai khác, hoặc có lẽ vì theo quan điểm của họ, một cuộc gọi như thế chẳng đáng phải bận tâm. Hoặc vì luật nghĩa vụ quân sự mới được ban hành nên các tiêu chuẩn bắt buộc phải hạ thấp[*].

Vào ngày 16 tháng 9 năm 1940, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã ký ban hành Đạo luật Nghĩa vụ và Huấn luyện Chọn lọc (Selective Service and Training Act), yêu cầu tất cả các công dân nam trong độ tuổi từ 26 đến 35 phải đăng ký thực hiện nghĩa vụ quân sự.

Tên của Cameron là MacLain, một quá trình đổi tên thành họ lạ lùng. Dù sao thì nó cũng chẳng ảnh hưởng tới ai ngoài anh. Người anh gầy như que tăm, và có lẽ vì thế mà anh thường xuyên mang nét mặt phờ phạc, hốc hác. Hai xương gò má gồ lên, hai má hõm vào. Cách làm việc của anh là sự pha trộn của sự lúng túng cộng với một loạt những hành động hấp tấp, khiến anh càng lúng túng hơn nữa, như thể hành động trước đó vừa kịp làm anh thấy hối hận. Anh luôn tỏ ra là tay gà mờ trước bất kỳ nhiệm vụ nào, như thể đó mới là lần đầu tiên anh tiếp xúc với chúng. Ngay cả khi đó là những vụ án cũ rích mà lẽ ra anh phải rất quen thuộc.

Chắc phải có những lúc trang phục của anh ở mức ít nhất chấp nhận được, vì thật khó mong đợi gì hơn thế. Nhưng lúc chuyện này xảy ra thì hẳn anh đang ở một mình, bởi vì chẳng còn ai khác có thể nhớ mình đã gặp anh vào thời điểm đó. Lúc này anh đang mặc cái áo sơ mi đã bao ngày không thay, và bạn không chỉ cảm nhận được điều đó bằng mắt.

“Ngài Garrison phải không?” Cameron hỏi. Anh tự giới thiệu bản thân. Garrison đáp, giọng khẩn nài, “Tôi xin lỗi vì đã làm thế. Có lẽ lúc đó đầu óc tôi đang mụ mị.”

Trên mặt Cameron bỗng hiện ra một dấu hỏi to đùng.

Garrison thừa nhận, “Thực lòng mà nói thì ngay sau cuộc gọi đầu tiên, tôi đã suy nghĩ kĩ càng hơn, và đã định gọi đến văn phòng cậu bảo không cần cử người đến nữa. Nhưng tôi sợ lại tự biến mình thành thằng ngu lần nữa. Tôi xin lỗi đã bắt cậu phải đến tận đây mà chẳng được việc gì…”

“Chà, vậy thì lúc đầu ngài đã nghĩ gì, thưa ngài Garrison? Ngài có thể cho tôi biết được không?”

“Chẳng có gì đâu. Chỉ là nó đến với tôi không đúng thời điểm chút nào, vào đúng tối nay. Tôi đang hốt hoảng, cậu biết đấy. Mệt rã rời. Và khi lần đầu tiên cầm thứ đó lên, tôi chợt có một ấn tượng khủng khiếp…”

Cameron chờ đợi, nhưng ông không nói tiếp.

“Cậu biết không, hôm nay tôi vừa chôn cất vợ mình,” ông giải thích.

Cameron gật đầu cảm thông. “Tôi đã trông thấy vòng hoa tang trên cửa khi đến đây. Nhưng ngài nói cầm thứ đó lên nghĩa là sao?”

“Nó đây, nằm lẫn trong đống thư từ này.”

Cameron nhận lá thư từ tay ông, xem xét nó.

Rồi anh ngước mắt lên, nhìn thẳng vào mặt ông.

“Tất nhiên là chẳng có gì đâu,” cuối cùng Garrison nói. “Khá tàn nhẫn, khó nghe; có lẽ là một kẻ đã gặm nhấm nỗi đau của riêng hắn quá lâu, nhưng ngoài cái đó ra…”

Cameron bất ngờ ngồi xuống mà không đợi được mời. Như thể anh muốn ở lại đây thêm chút nữa.

“Tôi phải đề nghị ngài nói ra hết cái điều ngài định nói lúc nãy,” anh nói. “Cái ‘ấn tượng khủng khiếp’ ngài bảo mình cảm thấy khi lần đầu tiên cầm lá thư lên là gì vậy?”

Garrison có vẻ lưỡng lự khi trả lời câu hỏi đó. “Sao, à… cái chết của vợ tôi là do các nguyên nhân tự nhiên, hẳn là thế rồi. Nhưng khi đọc lá thư này lần đầu tiên, có lúc tôi đã nghĩ có thể nó… nó chẳng hề tự nhiên chút nào. Tôi chẳng biết nữa. Những dòng chữ trong thư nghe như thể… như thể ai đó đã gây ra nó, có liên quan đến nó. Chính cái ý tưởng khủng khiếp, sai lầm ấy vừa lướt qua óc tôi.” Ông kết thúc bằng nụ cười hối lỗi.

Cameron không cười đáp lại. “Đó cũng là một khả năng,” anh nghiêm trang đáp. “Và nó thật khủng khiếp. Nhưng dù nó có phải sai lầm hay không, chúng ta cũng phải cố gắng tìm hiểu nó, và chúng ta sẽ bắt đầu ngay bây giờ.”

Anh lại cầm bức thư lên, giữ nó cân bằng, không nắm chặt, trên các đầu ngón tay vươn thẳng, như thể anh muốn xem thử lá thư nặng bao nhiêu. Trọng lượng tự nhiên của lá thư không phải là thứ anh quan tâm.

“Tôi nghĩ ngài đã làm đúng khi gọi cho chúng tôi về lá thư,” anh nói.

“Tôi không phải là bệnh nhân,” Cameron nói chuyện với nhân viên lễ tân của bác sĩ Lorenz Muller. “Tôi không phiền nếu phải đợi đến khi bác sĩ có thể dành toàn tâm toàn ý cho tôi. Tôi sẽ còn quay lại đây nếu tôi phải làm thế.”

“Có quý ông đây đến từ Đồn Cảnh sát muốn gặp bác sĩ vì chuyện của bà Garrison…” Và cô ta lặp lại phần còn lại của lời nhắn.

Có vẻ ông bác sĩ cũng chỉ là một kẻ hiếu kỳ. “Anh có thể vào,” cô ta nói. Vài phụ nữ mặc váy đầm kiểu cách đến trước anh trong phòng đợi nguýt một cái rõ dài đến tận cánh cửa phía trong.

Ông bác sĩ hình như khoái chuyện phiếm với kẻ không phải bệnh nhân để thay đổi không khí. Cái ý tưởng chuyện phiếm với lực lượng cảnh sát thậm chí còn hấp dẫn hơn nhiều, cứ như tiểu thuyết. Ông ta lấy ra một điếu xì gà, mời Cameron một điếu, rồi ngả người thoải mái xuống lưng ghế.

“Ít nhất thì tôi không phải cầm tay cậu, cậu thanh tra ạ, và hít phải một đống vi khuẩn,” ông ta nói. “Ước gì được làm thanh tra nhỉ, được tiếp xúc với toàn người khỏe mạnh.”

“Những tội phạm khỏe mạnh,” Cameron nói nhát gừng. “Và kết cục là nghèo rớt.”

“Nhưng hãy nghĩ đến sự kích thích cậu được hưởng.”

Sau khi đã vui vẻ cà kê, hai người liền quay về chủ đề chính. Cameron rất thích ông bác sĩ này và khá bị ấn tượng bởi sự thật thà của ông ta.

“Ông đã điều trị cho bà Garrison, phải vậy không?”

“Tôi đã làm bác sĩ riêng cho họ nhiều năm nay rồi. Ông ấy là bạn học cũ của tôi. Tôi được gọi đến vào hôm…” Ông ta ngẩng lên. “Có thể là ngày ba mươi mốt, ngay sau nửa đêm. Tôi không thích những gì mình đã thấy, nhưng không thể chẩn đoán ngay được. Nên tôi đã quay lại căn nhà ấy cùng ngày hôm đó. Tôi đưa bà ấy vào viện ngay lập tức.” Giọng ông ta chùng xuống. “Tôi không phí phạm bất cứ giây phút nào, nhưng chẳng ích gì. Đến tối bà ấy đã qua đời.”

“Nguyên nhân tử vong là gì?”

Mặt ông bác sĩ sa sầm. Ông ta nhìn sang chỗ khác một lúc, như thể không muốn nói. “Chứng khít hàm,” ông ta lặng lẽ đáp. Cameron nhận thấy có lúc ông ta để điếu xì gà cách xa, như thể vị của nó không còn ngon nữa. “Ngay cả với kẻ thù tồi tệ nhất của mình, tôi cũng không muốn hắn dính phải chứng bệnh đó.”

“Ông nói mình đã không nhận ra nó ngay, vào lần đầu tiên được gọi đến?”

“Bác sĩ thì hiếm khi gặp may lắm. Mà nếu có thì cũng toàn chuyện lặt vặt. Lần thứ hai đến thăm bệnh tôi đã nghi ngờ rồi, nhưng không còn thời gian để chắc chắn nên tôi đã đưa bà ấy ra khỏi nhà thật nhanh. Các xét nghiệm tại bệnh viện đã khẳng định điều ấy.” Ông ta hít một hơi sâu. “Đã quá muộn nên vắc xin không hiệu quả nữa. Đã quá trễ để tiêm vắc xin. Có giới hạn thời gian để có thể tiêm đấy, cậu biết không. Nếu quá thời hạn, không gì cứu nổi cậu đâu.”

Cameron bắt đầu cảm thấy lạnh sống lưng.

“Bà ấy mắc bệnh như thế nào?”

“Khi bước qua ngưỡng cửa, một cái đinh đâm vào chân bà ấy. Quan trọng là bà ấy bệnh tình ra sao, chứ không phải bà ấy mắc bệnh như thế nào.”

Cameron gật đầu thấu hiểu. “Tôi cho rằng đó là sự khác biệt cơ bản giữa hai ta. Thanh tra quan tâm đến quá khứ, bác sĩ quan tâm đến hiện tại.”

“Nhưng đây không phải là tội ác, nên so sánh của cậu không có hiệu lực.”

Cameron cụp mắt xuống một lúc như thể muốn nói, “Ông có chắc không?”

“Ông có thể cho tôi biết một chút về căn bệnh này được không? Và xin ông dùng ngôn ngữ dễ hiểu nhất. Tôi không phải là chuyên gia y tế. Nói thật tôi không chắc mình đã từng nghe đến tên căn bệnh này.”

“Có, cậu đã từng nghe rồi. Đó là thứ mà các cậu hay gọi là bệnh uốn ván. Nó được truyền qua một vết thương hở trên da. Ngay cả một vết xước hoặc vết kim châm cũng chơi xỏ chúng ta… luôn là môi trường cho virus. Nhưng may mắn không phải trường hợp nào cũng thế, không thì chúng ta chết hết rồi. Thậm chí ngay cả một vết xước măng rô chẳng hạn. Hoặc kể cả khi vết thương đã xuất hiện trước khi đến gần nguồn lây nhiễm.”

“Có bất kỳ cách nào khác không? Tiếp xúc với người khác thì sao?”

“Không. Nó không lây nhiễm theo cách đó. Bệnh không thể truyền từ người sang người.”

Có thể đấy, chỉ là không theo nghĩa như ông nói thôi. Cameron nghĩ khi anh đứng dậy.

Garrison bước xuống cầu thang, trên người khoác áo choàng tắm, hiện ra chiếc quần pyjama mặc bên trong.

“Xin lỗi đã dựng ngài dậy, ngài Garrison,” Cameron nói từ dưới chân cầu thang. “Tôi biết mới ba giờ sáng, nhưng tôi đã sục sạo khắp nơi suốt cả đêm, nên chẳng thể tới đây sớm hơn được.”

“Không thành vấn đề,” Garrison uể oải đáp. “Tôi cũng chẳng tài nào ngủ được nữa.”

“Tôi muốn hỏi ngài vài câu,” Cameron nói, “về cái đinh là nguyên nhân gây ra cái chết của vợ ngài.”

Garrison có vẻ ngạc nhiên, như thể đang tự hỏi tại sao lại tìm hiểu một chuyện như thế. “Chỉ là cái đinh thôi mà,” ông đáp.

“Ngài cho tôi xem nó được không?”

“Mất rồi. Tôi nhổ nó ra và quẳng đi rồi.”

“Ngài cho tôi xem trước đấy nó nằm ở đâu được chứ?”

“Được.” Ông dẫn anh đến cửa trước. “Ngay ngoài kia,” ông đưa tay chỉ. “Cậu có thấy cái lỗ nhỏ trong kết cấu gỗ không? Nó nằm ở đó đấy, thò ra khỏi khung. Tối hôm đó chúng tôi về nhà muộn, và khi tôi mở cửa cho cô ấy vào, cái thứ chó chết ấy làm chân cô ấy bị sượt da khi bước qua. Chúng tôi không hiểu nổi suốt thời gian ấy nó làm cái gì ở đó. Chẳng phục vụ cho mục đích nào cả. Chẳng có khe hở nào trong kết cấu gỗ để giữ chắc nó. Dường như nó được đóng vào đấy hoàn toàn ngẫu hứng.”

“Ngẫu hứng à?” Cameron khô khan đáp, nhướng mày thắc mắc. “Ngài có biết nó đã nằm đấy bao lâu rồi không?”

“Chắc phải vài năm rồi. Thế nhưng chúng tôi chưa từng trông thấy nó.”

“Cho đến trước buổi tối hôm ấy, hai vợ chồng ngài đã bao giờ bị sượt da như thế chưa?”

“Chưa bao giờ. Cả hai đều chưa từng bị.”

“Vậy thì nó không hề có mặt ở đây cho tới tối hôm đó. Nếu cái đinh này làm chân bà nhà bị sượt da đêm hôm ấy, thì nó cũng phải làm điều tương tự với ngài, nếu nó đã được đóng vào đấy từ lâu. Thôi xong rồi đấy.” Nhưng nghe giọng anh chỉ thấy u buồn, không hề vui vẻ.

Cả hai cùng đứng thẳng dậy, không thể tiếp tục cúi lâu hơn nữa.

“Có ai nghe thấy tiếng gõ hay tiếng búa đóng đinh không?”

“Không ai ở nhà nên chẳng có ai nghe thấy gì cả. Chúng tôi không ở nhà vào dịp cuối tuần. Hôm ấy là tối Chủ nhật và chúng tôi đi vắng từ thứ Sáu. Căn nhà này khóa cửa trong hai ngày hôm đó. Người hầu chỉ trở lại sau khi chúng tôi đã về nhà, vào sáng hôm sau, tức sáng thứ Hai.”

Cameron xoay xoay cánh cửa. Anh đóng chặt cửa rồi lại mở vào trong đến hết tầm.

“Cái đinh vẫn thòi ra ngoài, ngay cả khi cửa đã đóng chặt. Cửa mở vào phía trong nên không vướng phải cái đinh. Giờ xem nào. Ngài chính là người lấy chìa khóa ra mở cửa. Thế rồi ngài bước tránh sang bên để bà ấy vào trước. Nhưng phía bà ấy hơi chật một chút. Bàn tay của ngài sẽ nằm trên núm cửa, giữ cửa mở cho bà ấy bước vào. Toàn bộ cơ thể của ngài đứng phía bên này bà ấy. Thế nên bà ấy sẽ phải bước sang phía có cái đinh. Thế nên nó mới quệt vào chân bà ấy. Nói cách khác, nếu bà ấy chọn bước vào giữa cửa, hẳn bà ấy sẽ tránh được nó. Bước qua cửa nhiều khi là một thói quen,” anh giải thích. “Ngài không bao giờ nghĩ về điều đó, nhưng ngài sẽ không bao giờ thay đổi thói quen.” Và anh tự nói thêm với chính mình, “Tôi tự hỏi ngoài tôi ra còn ai nghĩ vậy nữa không?”

“Ngài đã rút cái đinh ra ngoài,” anh nói, “rồi ném đi à?”

“Giữ lại cái thứ ấy làm gì?” Garrison phản đối. “Tôi rút nó ra ngay và luôn, để không bao giờ bị lại nữa. Chân cô ấy rất đau đớn nên tôi thương lắm. Morgan không có ở đây, thế nên tôi đã mang hai cái kìm ra đây và tự làm. Mà có chuyện vui lắm, cậu muốn biết không?”

Cameron vô cùng háo hức đáp, “Có, nói tôi nghe đi.”

“Đó là cái đinh bị đóng ngược. Đầu đinh đóng sâu vào lớp gỗ, còn đầu nhọn thì thòi ra ngoài.”

“Vậy thì không thể đóng bằng búa được. Ở tư thế đó thì không thể dùng búa. Bởi đơn giản đinh sẽ bị uốn cong và gập lại. Cái miếng nêm cũng phải nhọn lắm, không phẳng đâu.”

“Nhưng nó cắm ngập vào trong mà, sâu lắm. Nó là một con quỷ dài, gần bằng bàn tay tôi đấy.”

“Trước tiên có thể khoan lỗ bằng một cái dùi, sau đó cái đinh đơn giản là thụt vào phía trong, lấp đầy cái lỗ. Nếu nó dài như ngài nói, vậy thì chính độ sâu ấy đã ghim chắc cái đinh. Ngài tháo nó ra có dễ không?”

“Tốn sức ra phết đấy.”

“Ngài thấy cái đinh có gì lạ không?” Cameron hỏi. “Nó còn mới không hay gỉ rồi?”

“Thực ra tôi chẳng buồn xem xét nó cho kĩ. Như đã nói, tôi thương cô ấy, nên sau khi dùng kìm rút mạnh cái đinh ra khỏi lớp gỗ, tôi quẳng luôn nó qua vai. Nhưng đúng vào khoảnh khắc nó trôi qua trước mắt, dường như tôi trông thấy một mẩu giẻ rách nhỏ màu xám bẩn thỉu dính quanh cái đinh, hoặc là được buộc vào dưới đầu đinh. Một mẩu nhỏ thôi. Giống cái thứ anh hay thấy bám vào mấy cái đinh lạc. Nhưng tôi không chắc lắm, vì lúc ấy nó lướt qua mắt tôi rất nhanh.”

“Đinh lạc,” Cameron nhắc lại, cũng bằng cái giọng khô khan như lúc nãy.

Garrison đợi anh nói tiếp câu gì đó, nhưng anh vẫn im lặng.

“Tất cả những thông tin ấy có giúp được gì cho anh không?” Cuối cùng ông hỏi.

“Giờ thì không. Cái đinh thì đã mất tăm,” Cameron trả lời một cách khó hiểu. “Vợ ngài thì đã chết.”

“Tôi không hiểu cậu đang tìm cái gì nữa,” Garrison thẳng thừng nói.

“Câu trả lời nằm ngay đằng kia. Ngài đã tự tay vứt nó đi,” Cameron nghiêm khắc cam đoan với ông ta. “Đó là tất cả những gì tôi muốn tìm.”

Sếp của Cameron trao cho anh một xấp giấy mỏng kẹp vào nhau. “Tôi muốn trao cho cậu vụ này,” ông ta nói gọn lỏn.

Cameron xem qua xấp giấy, miệng há hốc. “Nhưng đây là vụ khác mà,” anh nói. “Đâu phải Jeanette Garrison…”

“Quên vụ đó đi,” sếp anh ngắt lời. “Mà đúng hơn là, bởi vì ngay từ đầu đó đã không phải là một vụ án, cho nên hãy quên luôn cái vụ điều tra không chính thức mà cậu đang dính vào đi. Phải, tôi biết hết đấy. Và tôi không thích mấy cái chuyện cá nhân đó. Cậu phụ trách án mạng thì nên chú trọng vào án mạng đi. Tôi có thể trao cho cậu cả đống việc làm không xuể đấy.”

“Nhưng thưa sếp, người phụ nữ này…”

Ông sếp dằn mạnh cả hai bàn tay xuống bàn, đến nỗi hai khuỷu tay khuỳnh sang hai bên. Như thể ông ta định đứng bật dậy, nhưng rồi quyết định vẫn ngồi im tại chỗ.

“Người phụ nữ này chết vì uốn ván. Bác sĩ riêng của bà ta đã chứng thực điều đó. Các chuyên gia ông ta gọi đến, những người nổi tiếng khắp đất nước, đã chứng thực điều đó. Giấy chứng tử bác sĩ pháp y của chúng ta gửi đến đã chứng thực điều đó. Thậm chí cậu còn yêu cầu được khai quật tử thi và tôi đã cho phép cậu làm thế. Những phát hiện giải phẫu chỉ khẳng định chắc chắn thêm điều ai cũng đã biết. Nếu còn bất kỳ điều gì khó hiểu, và tôi cam đoan với cậu là có đấy, thì đó là bí ẩn về mặt sinh học và Bộ Y tế sẽ lo chuyện đó chứ không phải chúng ta. Dù sao thì, cậu cũng chỉ cần biết rằng mọi chuyện đã kết thúc rồi. Vào lúc này tôi nghĩ sẽ chẳng có cách nào khác đâu. Cậu có thể dành cả cuộc đời mình tìm kiếm, Cameron ạ, nhưng sẽ chẳng hiểu nổi làm thế quái nào vi khuẩn lại lọt vào trong máu bà ấy. Nhưng việc của cậu không phải là đối phó với vi khuẩn, mà là những kẻ giết người có hai chân. Nếu cậu muốn truy tìm lũ vi khuẩn thì sao không thi quách vào trường y đi?”

Cameron cố gắng nói gì đó. Lần này anh không dám thốt ra nửa chữ “nhưng”. Sếp của anh dường như đọc được ý nghĩ của thuộc cấp. Ông ta xua xua tay sốt ruột.

“Ôi, đừng bắt tôi nghe thêm bất cứ điều gì về lá thư đó nữa! Mỗi lần chúng ta nhận một vụ án mạng thì phải có cỡ tám chục lá thư gửi đến nói rằng chính chúng làm thế, cậu biết rõ điều đó mà. Những kẻ giết người thực sự sẽ chẳng viết thư thẩn gì để tâng công hết. Tôi nói rồi, bà ta chết vì uốn ván. Còn gì nữa không? Giờ thì báo cáo…”

“Vâng, thưa sếp. Nhưng bà ấy có thể bị sát hại bởi bệnh uốn ván. Có hai loại bệnh uốn ván, có nguyên nhân tự nhiên và nguyên nhân cố ý. Uốn ván có thể được dùng như một loại hung khí, giống như một khẩu súng, con dao hay một cái rìu.”

Giọng ông sếp trở nên rất khẽ. Ông ta phát âm chậm rãi từng từ một, rất rõ ràng. Từ nào cũng mang hàm ý đe dọa.

“Tôi-nói-dẹp-ngay-vụ-điều-tra-đi! Đó là lệnh!”

Chỉ có một câu trả lời Cameron có thể thốt ra, nếu anh không muốn bị loại khỏi lực lượng. “Rõ, thưa sếp,” anh lặng lẽ đáp.

Garrison nặng nề bước xuống nhà, không còn chút sức sống. Ông ngồi xuống bàn ăn sáng. Morgan mang vào một nửa quả bưởi ngâm trong đá, đặt xuống trước mặt ông. Chồng thư buổi sáng được đặt bên cạnh.

Một lúc sau, Garrison quay sang chồng thư, bắt đầu mệt mỏi xem từng bức một.

Ông đọc đến lá thư thứ ba. Chỉ có một dòng:

Giờ mày biết cảm giác ấy thế nào rồi chứ, Garrison?

Thư không có chữ ký.

Trong một lúc, chỉ một lúc thôi, ông như lấy lại được chút sức sống. Ông ngoái đầu nhìn về phía cửa ra vào, nhìn xa hơn nữa tới chỗ để điện thoại. Thậm chí dường như ông còn định rời khỏi ghế ngồi, đứng dậy bước ra ngoài đó.

Thế rồi một tia tinh anh uể oải lướt qua mắt ông. Ông vẫn ngồi yên trên ghế. Ông cắn môi, khẽ lắc đầu với chính mình. Như thể muốn nói, “Mày từng để mình bị một trong mấy lá thư này bịp một lần rồi. Mày sẽ không mắc lừa lần thứ hai nữa.”

Ông vò nhàu lá thư trong tay, ném nó vào gầm bàn khuất tầm nhìn, rồi quay lại với nửa trái bưởi đang ăn dở.