Phần 6 Điểm hẹn thứ năm
Cameron nhún vai. “Sếp có biết phải làm sao để tìm ra một nửa yêu thương nhất trong đời một người đàn ông không? Hỏi họ à?”
Ông sếp cũng nhún vai. “Thế cậu có biết cách nào khác không? Đó là việc của cậu cơ mà.”
Cameron nghiến răng như thể thấy đau. “Nó không thể đong đếm chính xác được, sếp biết đấy. Sếp không thể đến gặp người ta với một cái cân và cân đo chuyện đó.”
“Tôi biết,” sếp của anh khô khan đáp, “rằng vụ này rất khó khăn và cần sự kiên trì. Tôi không muốn nghe nói nó khó khăn thế nào. Tôi chỉ muốn nghe câu trả lời. Câu trả lời chính xác. Thế nên sau khi sục sạo xong rồi, làm ơn mang nó về đây cho tôi được không?”
Cameron khổ sở, vặn vặn người một lúc rồi đứng thẳng lại. “Nhưng phải làm thế nào? Chỉ theo dõi ông ta thôi sao? Phải mất đến mấy tuần đấy. Vấn đề là những diễn biến nội tâm sếp à, nó không bao giờ thể hiện trên nét mặt của một người đàn ông đâu.”
“Thế thì vào trong nội tâm mà tìm!” Sếp của Cameron liên tục ấn mạnh khớp ngón tay xuống bàn làm việc.
“Mà chắc gì đã có ai cơ chứ.”
“Ai cũng thích một người khác, một người nào đó, một người mà họ yêu hơn bất kỳ ai khác. Đó là bản năng. Là tự nhiên. Với đàn ông, đó là đàn bà. Với đàn bà, đó là đàn ông.”
Cameron thở dài thườn thượt. “Bất khả thi sếp ơi.”
“Tôi thừa nhận,” sếp anh lạnh lùng đáp.
“Nhưng tôi sẽ truy tìm.”
Anh chẳng nhận được bất cứ lời khích lệ nào. “Tất nhiên là cậu đi rồi. Mà sao cậu không bắt đầu từ năm phút trước, thay vì phí thời gian của cả hai ta, cậu muốn lảng tránh chứ gì?”
“Sếp đã lập hồ sơ về ông ta đầy đủ chưa?”
“Kĩ lắm rồi. Toàn bộ công tác điều tra ban đầu đã xong.”
Cameron rướn người về phía trước. “Thế thì cho tôi danh sách tất cả những người phụ nữ trong cuộc đời ông ta đi. Sếp làm được không? Cho tôi một bản nhé?”
“Tôi có thể,” sếp anh đáp. Ông ta ấn một nút trên thiết bị liên lạc gì đó trên bàn. “Nó đang được biên soạn và sẽ được chuyển tới ngay bây giờ.” Ông ta ra lệnh sau đó ấn nút tắt.
“Để tôi cho cậu một lời khuyên,” ông ta nói trong khi họ đang chờ, “đừng có đi ngược đời; đừng phí hơi với họ làm gì, đám phụ nữ ấy, đừng cố tìm hiểu theo hướng đó. Bởi vì từng người phụ nữ trong cuộc đời của một người đàn ông đều sẽ nghĩ, hoặc thích nghĩ rằng mình là một nửa được yêu thương nhất trong cuộc đời hắn. Phải truy tìm từ chính thằng đàn ông kìa.”
Bản danh sách được chuyển đến, rất nhỏ, được đánh máy nắn nót; chỉ có năm cái tên.
Cameron nghiên cứu nó thật kĩ. “Đời ông ta có vẻ cũng không có nhiều đàn bà cho lắm.”
“Có thể không nằm trong danh sách đó. Nó chưa hoàn hảo đâu. Cậu chính là người đề nghị nó. Hãy nhớ, danh sách này chỉ căn cứ biểu hiện bên ngoài thôi - từ một khoảng cách vừa đủ. Không phải trong nội tâm. Nên là cậu sẽ phải tự tìm hiểu.”
Cameron nhét tờ danh sách vào ví rồi đứng dậy. “Tôi sẽ tìm hiểu,” anh hứa. “Tôi nghĩ ra một cách rồi.”
Anh chẳng nhận được lời khen nào. “Lề mề quá đi mất,” ông sếp nghiêm khắc nhận xét. “Nếu cấp dưới nào mà cũng lề mề khi nhận nhiệm vụ thế này, chúng ta sẽ còn mãi giậm chân ở vụ Rosenthal[*]”.
Rosenthal: Trong thời gian làm cảnh sát, Charles Becker đã lợi dụng chức vụ để tống tiền các nhà chứa, các casino phạm pháp hơn 100.000 đô la Mỹ. Một chủ sòng bạc tên Herman Rosenthal đã tố cáo hành vi sai trái đó của Becker. Chưa đầy hai ngày sau đó, Rosenthal bị bắn chết khi vừa rời khỏi khách sạn. Becker bị bắt vì tội giết người vào ngày 29/07/1912, và thừa nhận việc thuê người giết Rosenthal. Becker bị hành quyết năm 1915 và trở thành cảnh sát đầu tiên bị tuyên án tử hình trong lịch sử Mỹ. (ND)
Cameron đã ra đến cửa. “Có thể chính ông ta cũng không biết. Mà có thể còn chưa từng nghĩ đến nó. Nhưng ông ta sẽ nói cho tôi nghe. Tôi sẽ biết.”
Nhân viên lễ tân là sự kết hợp giữa vẻ ngoài bóng bẩy hoàn hảo của một ma nơ canh và phong thái lạnh lùng của một bà hiệu trưởng trường nữ sinh. Không nghi ngờ gì nữa, bà ta được thuê chính nhờ những phẩm chất này, bởi nếu không bà ta hẳn đã không dám thể hiện nó thường xuyên đến vậy.
“Anh có hẹn trước không?” Bà ta hỏi vẻ trịch thượng.
Cameron lắc đầu.
“Tôi rất tiếc…” bà ta vừa định nói. “Ông ấy có biết anh không?”
Anh nhìn bà ta khó chịu. “Khi nhà của bà đang cháy, chắc bà phải làm quen với tay lính cứu hỏa trước khi hắn bê thang đến tận cửa sổ nhà bà nhỉ?”
Bà ta nhướng mày. “Việc này liên quan gì đến thang cứu hỏa chứ?” Bà ta nói giọng khinh bỉ.
“Chỉ là một cách nói thôi, bà hiểu mà.”
“Ờ, vậy bình thường công việc của anh là gì?”
“Làm cảnh sát.”
Bà ta nhướng mày lần nữa, nhưng lần này không còn vẻ khinh bỉ nữa.
“Ờ. Có… có việc gì tôi có thể giúp không? Ý tôi là, nếu liên quan đến vé hay sự vi phạm…”
“Bà chẳng làm được gì ngoài việc cho phép tôi vào trong kia gặp ngài Ward hết. Tôi hiểu các bổn phận của bà, nhưng cái gì cũng phải đúng lúc đúng chỗ. Và tin tôi đi, bây giờ không phải lúc cấm tôi vào văn phòng đâu.”
“Chỉ một phút thôi,” bà ta nói, gần như gấp gáp. “Mời vào,” bà ta nói khi quay lại, giữ cửa cho anh bước vào. Cánh cửa đóng sập lại sau lưng hai người.
Ward đang đứng sau bàn làm việc. Ông mặc bộ vest xám rất nhạt màu. Cỡ khoảng năm năm trước chắc ông đẹp trai lắm, giờ vẻ đẹp đó đang dần phai nhạt. Mái tóc ông vẫn còn đen bóng, dù đâu đó đã bắt đầu xuất hiện mấy chỗ tóc hoa râm, như trên lông một con cáo xám. Đôi mắt ông cực kỳ sắc bén, nhưng vẫn có nét nhân từ và khoan dung, không giống như vẻ cứng rắn và gian xảo của một doanh nhân điển hình.
“Tôi là Cameron, cảnh sát,” Cameron tự giới thiệu bản thân.
Hai người bắt tay nhau qua bàn. Trông mặt ông lạnh tanh, không hề tỏ ra quan tâm.
“Bà Koenig nói với tôi…” Ông không nói hết câu, không cần phải làm thế.
“Tôi không thích phải đến tận văn phòng ngài như thế này, nhưng dù sao thì đây là cách hợp lý nhất. Có nhiều thứ quá tàn nhẫn để có thể nói qua điện thoại…”
“Hợp lý? Tàn nhẫn?”
“Tôi có tin xấu cho ngài đây,” Cameron thẳng thừng đáp. Anh lấy ra tờ danh sách đánh máy, giữ nó trong tay. Ward bước đến từ sau bàn làm việc, rồi đứng khựng lại.
“Đã xảy ra một tai nạn,” Cameron nói. “Có người bị thương. Chúng tôi không rõ ngài và người phụ nữ đó…”, anh cố tình nhấn mạnh, “… có quan hệ gì?”
Danh sách trong tay anh chỉ mình anh thấy, Ward không thể đọc được.
“Có phải Louise không? Có phải vợ tôi không?”
Gương mặt Ward căng thẳng và tái nhợt, nhưng vẫn bình tĩnh. Cameron quan sát nó rất kĩ. Anh lẩm bẩm điều gì đó, vẻ ngập ngừng, mơ hồ.
“Không phải mẹ tôi đúng không? Không phải mẹ…?”
Gương mặt ông càng lúc càng trắng bệch ra. Nó nhăn nhó như sắp khóc khi ông cố trấn tĩnh. Cameron theo dõi rất kĩ.
Chỉ còn ba cái tên trên danh sách: hai người em gái đã lấy chồng, và con gái đồng nghiệp của ông, một cô bé mười hai hoặc mười ba tuổi. Cameron lắc đầu với chính mình.
“Tôi không tin…” Ông lẩm bẩm.
Ward loạng choạng bước một bước về phía anh, rồi tiếp bước nữa. Bàn tay ông túm chặt lấy ve áo trong lời khẩn cầu. Hai mí mắt ông cụp xuống, nửa che đi đôi mắt.
“Martine…” Ông thì thầm, thở hắt ra.
“Martine là ai?” Cameron vội hỏi.
Ông không trả lời. “Ôi lạy Chúa tôi,” ông lên cơn rùng mình dữ dội, hai đầu gối run rẩy, ông hẳn là đã khuỵu xuống, hoặc thậm chí là đã ngã, nếu không có Cameron xốc nách và giữ ông đứng thẳng một lúc, cho đến khi ông đủ sức đứng vững. “Tên khác của cô ta là gì? Họ của cô ta là gì?” Cameron phải ghé sát môi vào thật gần, để những từ ngữ rót thẳng vào tai ông, để ông hiểu được trọn vẹn câu hỏi, nhận thức được chúng. Thính giác của ông đang bị nghẽn do nỗi đau choáng váng, đến nỗi dường như không còn khả năng tiếp nhận âm thanh nữa.
“Jensen,” ông rên rỉ, trong một câu trả lời máy móc.
Cameron dìu ông đến một cái ghế, đỡ ông ngồi xuống.
“Uống chút nước đi, ngài Ward,” anh nói.
Ward gật đầu, đưa tay chỉ. Cameron đi rót nước rồi bước đến trao cho ông.
“Chẳng có tai nạn nào cả. Chẳng ai bị thương hết.” Anh viết cái tên vào danh sách của mình. “Martine Jensen.”
Anh phải nhắc lại tuyên bố. “Không ai bị thương hết. Cả cô Jensen hay bất kỳ ai khác.”
Lần này phản ứng của Ward có chậm hơn, nhưng nó vốn đã chậm như thế ngay từ đầu. Khi đã hoàn toàn trấn tĩnh lại, ông đứng lên, hất thẳng ly rượu brandy mới uống hết một nửa vào mặt Cameron.
“Cút ngay ra khỏi văn phòng của tao.” Người ông run lên khi cố kiềm chế.
Ông tiến đến, vung tay giáng cho Cameron một quả đấm vào cạnh hàm.
Cameron loạng choạng, cố vươn tay níu lấy cái gì đó ở đằng sau để giữ thăng bằng.
“Tôi sẽ không phản kháng đâu,” anh nói. “Tôi cũng sẽ làm thế với bất kỳ kẻ nào làm điều tương tự như tôi vừa làm với ngài.”
Ward vận hết sức để ngăn mình không tung ra quả đấm thứ hai, nỗ lực này khiến ông run rẩy.
“Mày làm thế để làm gì?”
“Tôi phải tìm hiểu xem người ngài yêu thương nhất là ai. Không còn cách nào khác.”
Ward không hỏi tại sao. “Cút ngay,” ông nói qua hàm răng nghiến chặt.
Cameron mở cửa. “Tôi hiểu. Tôi sẽ quay lại… sớm thôi.”
Cameron quay lại và đưa cho ông sếp xem danh sách của mình. Ba cái tên đã bị gạch đi. Ba cái tên còn lại, mà một trong số này vốn không có trong danh sách ban đầu, mới được thêm vào sau cuộc thẩm vấn. Danh sách như sau:
1.3. Vợ ông ta.
2.2. Mẹ ông ta.
3.1. Martine Jensen.
Ông sếp bực mình. “Thế này là thế nào? Tại sao lại có hai dãy số thế, ý cậu là gì?”
“Đó là điều tôi muốn hỏi sếp. Là thế này: dãy số đầu là trình tự ông ta nói đến họ. Nói cách khác, là tốc độ những con người này xuất hiện trong tâm trí ông ta. Dãy số thứ hai là mức độ cảm xúc ông ta thể hiện ra. Giờ thì, là ai mới đúng? Là người đầu tiên xuất hiện trong tâm trí ông ta, bà vợ? Hay là người đã khiến ông ta bộc lộ nhiều cảm xúc nhất, Martine Jensen? (Dù cô ta là ai đi nữa). Tôi không phải là nhà tâm lý học.”
“Điều đó thì rõ rồi,” ông sếp chen vào.
“Tôi đã tưởng rằng mọi chuyện đã rõ ràng, sẽ rất dễ đoán. Nhưng không hề. Đó là rắc rối hay xảy ra với những bài trắc nghiệm hành vi kiểu này. Khi đã liên quan đến bản tính con người, sẽ không thể nào dự đoán được, nó luôn…”
Ông sếp vẫn đang cân nhắc. Rồi ông ta gật đầu, vẻ chắc chắn. “Người mà ông ta dành nhiều tình cảm nhất,” ông ta nói, sau khi đã suy xét kĩ.
“Nhưng có thể đó là tình cảm tích tụ, hậu quả của một sự căng thẳng tăng dần. Có thể người đầu tiên xuất hiện trong tâm trí là người ông ta yêu nhất, nhưng vào lúc đó ông ta vẫn hoàn toàn kiểm soát được lý trí không để nó biểu lộ ra ngoài. Nó chỉ biểu lộ sau đó, khi ông ta không còn kiểm soát được mình nữa. Nói cách khác, cảm xúc của ông ta là dành cho vợ mình, nhưng nó đã chuyển sang giai đoạn khác, đã qua thời điểm ấy, và nó chỉ tự thể hiện ra khi chúng ta đến với cái tên thứ ba, ở bề ngoài.”
Ông sếp không buồn tranh cãi với anh. “Người mà ông ta dành nhiều tình cảm nhất,” ông ta vẫn gan lì nói.
“Nhưng liệu hắn có hiểu theo cách ấy như chúng ta không? Tên sát nhân ấy? Nếu cảnh sát chúng ta còn không biết chắc, thì làm sao là người ngoài như hắn có thể chứ? Chúng ta có thể bảo vệ người tình nhưng hắn lại bám theo người vợ.”
“Người mà ông ta dành nhiều tình cảm nhất. Nghe này, đừng cố nghĩ nữa, cậu sẽ càng rối hơn đấy. Cứ xem mình như cái máy thôi. Một chút logic sẽ cho chúng ta câu trả lời đúng và đó là tất cả những gì tôi đã dùng. Bởi ông ta còn có một người tình khác ngoài vợ, nên tất nhiên là ông ta yêu ả nhân tình này nhiều hơn. Nếu ông ta yêu vợ nhiều hơn, thì hẳn ông ta chẳng cần thêm nhân tình làm gì. Ông ta sẽ chẳng cần ai hết. Cô ta sẽ thành người thừa.”
Ông ta lấy một cái bút chì rồi cầm lấy danh sách của Cameron, gạch đi hai chữ “vợ” và “mẹ”.
“Giờ thì đi làm việc đi,” ông ta nói.
Danh sách chỉ còn lại một cái tên “Martine Jensen”.
Ngày hôm sau Cameron quay lại văn phòng.
Nhân viên lễ tân không còn giữ vẻ mặt lạnh như băng nữa. Bà ta đang nóng nảy, bốc hỏa vì phẫn nộ, cho dù chỉ là phẫn nộ lây.
“Ngài Ward sẽ không gặp anh đâu,” bà ta tức tối nói. “Tôi sẽ không chuyển cho ngài ấy tên của anh. Tôi được ngài ấy chỉ thị rồi. Đây là văn phòng tư nhân theo luật định và được bảo vệ bằng quyền công dân. Dù cho anh có là sĩ quan cảnh sát đi chăng nữa, anh cũng không thể ép tôi phải cho anh vào, anh không thể ép buộc ngài ấy phải gặp anh. Nếu anh cố tình xông vào, ngài ấy sẽ liên hệ với luật sư ngay lập tức và kiện cả cái đồn cảnh sát của anh ra tòa dân sự yêu cầu đền bù thiệt hại. Giờ anh có giỏi thì xông vào thử xem.”
Cameron tự biết là mình không thể. Anh quay lưng bước ra ngoài. Từ hành lang tòa nhà, anh gọi cho sếp. Sếp anh gọi cho Ward. Thế rồi Cameron được gọi lại, từ trong hành lang nơi anh đang đứng.
“Cứ đi đi,” ông sếp nói. “Ông ta sẽ gặp cậu bây giờ. Tôi đã phải dùng ảnh hưởng của mình để nói đỡ cho cậu đấy.”
Nhân viên lễ tân đã nhận được thông báo khi anh quay lại. Bà ta tuy vẫn tức tối nhưng giờ là tức tối một mình, không dám thể hiện ra ngoài nữa. Bà ta không nói “Mời vào”. Bà ta chỉ đơn giản là giữ cửa cho anh ta bước vào. Cửa văn phòng của Ward phía đằng kia.
Ward cũng đang tức giận.
“Ngồi đi,” ông nhíu mày nói.
Cameron ngồi xuống. “Chúng ta có thể nói chuyện mà không bị quấy rầy không?”
“Lệnh được ban ra rồi,” Ward đáp cụt lủn.
“Điều cơ bản là ngài phải tin từng lời tôi sắp nói với ngài.”
“Chúng ta sẽ bình luận về chuyện đó sau.”
“Ngài đang nằm trong danh sách chết người. Không phải tên của ngài, mà là của một người có liên quan đến ngài, tên của Martine Jensen. Nếu ngài dành cho chúng tôi sự hợp tác tốt nhất, tôi nghĩ chúng tôi có thể hứa với ngài rằng cô ấy sẽ không gặp phải tổn thương nào. Chúng ta có một lợi thế, đó là chúng tôi biết chính xác ngày mà cô ấy sẽ gặp nguy hiểm. Vụ tấn công sẽ xảy ra trong vòng hai mươi tư giờ bắt đầu vào nửa đêm, ngày ba mươi mốt tháng Năm, và kết thúc vào nửa đêm, ngày mùng một tháng Sáu, hoặc sẽ không xảy ra.” Ward đang khẽ lẩm bẩm gì đó. “Ngài vừa nói gì?”
“Tuyệt vời.”
“Ngài không tin tôi, tôi hiểu mà.”
“Tôi chẳng có kẻ thù nào cả.”
“Chẳng ai có thể vỗ ngực nói thế cho đến sau khi họ xuống mồ. Ngài có thể không có kẻ thù mà ngài biết, nhưng hai điều này không giống nhau.”
“Động cơ là gì? Tống tiền à?”
“Tiền không giải quyết được đâu. Không phải với ai tiền cũng có sức mạnh. Những kẻ điên rồ thì không có động cơ. Tôi có thể gọi đó là trả thù, nhưng ngay cả thế cũng không chính xác; bởi vì nếu tổn thương xảy ra là không chủ tâm hay không cố ý, chuyện trả thù có thể được gạt sang một bên. Nên điều gần gũi nhất tôi có thể nghĩ đến đó là: một tên cuồng trả thù.”
“Hắn là ai?” Ward hỏi, giọng chế nhạo.
“Ngài không biết hắn đâu, bởi vì…” Anh ngần ngừ, và rồi miễn cưỡng nói thêm. “Chúng tôi cũng không biết.”
“Cậu biết điều gì đã thúc đẩy hắn, hoặc đã khiến hắn sa ngã. Cậu biết tiền sẽ không gây ảnh hưởng gì tới hắn. Cậu biết hắn là một thằng điên. Cậu biết ngày hắn sẽ tấn công, chính xác trong vòng hai mươi tư giờ. Nhưng cậu lại không biết hắn là ai. Cảnh sát giỏi ghê. Đổi lại là cậu thì cậu sẽ nói gì?”
“Đôi khi mọi thứ lại diễn ra như thế. Đôi khi. Không thường xuyên, ơn Chúa. Nhưng lần này thì đúng là như thế.”
Anh đợi Ward nói câu gì đó. Nhưng ông chẳng nói gì. Tuy nhiên, có một chuyển động xảo trá trên khóe miệng ông, như thể ông đang gặp khó khăn khi cố nén tiếng cười.
“Ngài phải giúp chúng tôi,” Cameron nói.
“Tôi quá già cho mấy cái trò này rồi.”
“Ngài phải cung cấp cho tôi mọi thông tin ngài có thể, về Martine Jensen…”
“Ví dụ?”
“Chúng tôi còn chẳng biết cô ấy sống ở đâu.”
Mặt Ward tối sầm. “Để cậu có thể đến nhà cô ấy, tra hỏi, quấy rầy và làm cô ấy khiếp sợ hả? Tôi sẽ không làm thế. Cứ vác cả đống chuyện vẽ vời, bịa đặt của cậu đến đây nếu muốn nhưng tránh xa cô ấy ra, để cô ấy yên đi! Cậu có hiểu không?”
“Không thể bỏ mặc cô ấy đứng ngoài chuyện này,” Cameron kiên nhẫn đáp, “bởi vì cô ấy là trung tâm của nó, cô ấy là đối tượng, là mục tiêu. Không phải ngài, mà là cô ấy.” Anh cố gắng tìm từ chính xác. “Chúng ta phải rất khôn khéo với chuyện này. Cảnh sát chúng tôi hiểu rất nhiều chuyện, chúng tôi từng trải qua rất nhiều vụ. Chúng tôi biết đôi khi… đôi khi có những mối quan hệ nhất định trong cuộc đời một người đàn ông, mà họ không muốn… chúng tôi sẽ cố gắng không để liên lụy đến ngài, ngài Ward…”
Ward ngồi thẳng dậy, như thể đúng lúc này vấn đề danh dự nào đó đã chạm đến ông. Giờ đây ông cực kì nghiêm túc, căng thẳng.
“Cậu không hiểu. Cậu chẳng hiểu gì hết. Cậu nghĩ tôi đang vụng trộm sau lưng vợ tôi sao?” Ông hắng giọng vẻ ghê tởm, lại thu mình sâu hơn vào ghế, như thể thấy chuyện này thật vô ích. “Đàn ông không bao giờ tâm sự chuyện gái gú cho nhau nghe.”
“Nhưng với một sĩ quan cảnh sát, đang cố gắng bảo vệ mạng sống một người rất gần gũi với họ thì sao?” Cameron khôn khéo thúc giục.
Cuối cùng Ward gật đầu, một cách chán nản, sau một lúc suy nghĩ. “Đúng, tôi đoán là cậu đang làm thế,” ông thừa nhận. “Cho dù tôi chưa bao giờ ngoại tình.”
“Chỉ là cơ sở chung chúng tôi đưa ra thôi,” Cameron khẳng định đầy thuyết phục, nín thở vì sợ rằng đối phương sẽ không chịu mở miệng.
Cuối cùng ông cũng chịu nói, trầm ngâm như thể đang bị thôi miên, lật giở lại các sự kiện trong cuộc đời mình, tập trung đến mức quên rằng có một người đang chăm chú lắng nghe.
“Tôi biết Martine rất lâu trước khi có bà Ward. Cô ấy là mối tình đầu của tôi, cũng là tình cuối; cô ấy là tình yêu duy nhất của tôi.” Ông không ngừng giữ thăng bằng cây bút chì trên mặt bàn, không hề rời mắt khỏi nó. Bỗng ông sững lại hỏi, “Có phải đây là chuyện sinh tử không?”
“Chuyện sinh tử,” Cameron đồng ý, thận trọng cụp mắt xuống.
“Tôi chưa bao giờ yêu Louise. Cuộc hôn nhân ấy chỉ là lựa chọn thứ hai. Mà thực ra thì chẳng có lựa chọn nào hết. Tôi cũng chẳng biết phải gọi nó là gì. Trước kia lúc nào cũng chỉ có Martine và tôi. Trọn cuộc đời mình tôi chỉ yêu Martine. Nhưng chúng tôi đã chờ đợi, như những kẻ ngốc. Chúng tôi chắc chắn rằng sẽ chẳng còn ai khác ngoài cô ấy và tôi, tôi và cô ấy, nên chúng tôi đã chờ đợi. Năm tới, sẽ luôn là năm tới. Một ‘năm tới’ chẳng bao giờ đến. Thế rồi bất thình lình, tất cả đã quá muộn. Cô ấy sẽ chẳng có được tôi. Đã xảy ra một chuyện… chen vào giữa chúng tôi. Mà cô ấy cũng nghĩ chuyện sẽ không thành. ‘Em không thể đồng ý bây giờ được’, cô ấy nói. Cô ấy sẽ chẳng có được tôi. Tôi cứ thế đợi chờ, đợi mãi, và cô ấy sẽ chẳng có được tôi. Những ‘năm tới’ ấy đến và nhanh chóng trôi qua, và chúng tôi vẫn thế, ai cũng chỉ có một mình. Cô ấy bảo tôi hãy cưới người khác. Rằng đó là ước nguyện của cô ấy với tôi. Cô ấy nói cô ấy không muốn tôi tiếp tục cô đơn nữa. Cô ấy nói mình sẽ cảm thấy vui nếu ít nhất một trong hai chúng tôi không còn cô đơn. Và tôi luôn làm bất cứ điều gì tôi nghĩ sẽ khiến cô ấy hạnh phúc. Thế nên lần này cũng thế; lần cuối cùng trong tất cả. Tôi đã cưới Louise, người đến sau.”
“Bà ấy có…?”
“Bà ấy không biết gì về Martine. Bà ấy biết đã có một Martine. Bà ấy không biết người đó vẫn còn. Martine không hận thù gì bà ấy, bình đẳng với nhau. Tôi đã rất chung thủy với vợ tôi kể từ sau khi cưới. Nhưng bà ấy cũng không hận thù gì Martine. Martine là tình yêu của tôi và là tình yêu duy nhất.”
Ông không giữ thăng bằng cây bút chì nữa, nhét nó vào trong túi áo.
Cameron không ngước lên nhìn ông, ông cũng không nhìn Cameron. Cả hai người đều đang suy nghĩ về điều đó, đôi mắt họ dường như đang cùng suy ngẫm.
“Giờ thì tôi đã kể xong rồi,” cuối cùng Ward thở dài. “Và tôi cảm thấy làm thế thật rẻ tiền. Giống như kiểu lời thú tội trong quán bar nồng nặc mùi bia.”
“Không,” Cameron nói. “Đó là vấn đề sinh tử. Có hai thời điểm ngài sẽ nói ra mọi thứ. Khi ngài không tìm thấy sự bình yên trong tâm trí, ngài nói chuyện với cha xứ. Khi sự an toàn của ngài bị đe dọa, ngài nói chuyện với cảnh sát. Như ngài vừa làm.”
Cameron lấy ra một cuốn sổ tay, chuẩn bị ghi chép mọi thứ. “Bây giờ nếu ngài cung cấp cho tôi vài chi tiết cần thiết… nơi cô ấy sống…
“Không,” Ward nói. “Tôi không muốn quấy rầy cô ấy. Tôi không muốn nhà của cô ấy bị đột nhập và cô ấy phải sợ hãi. Tôi sẽ không cho cậu biết gì hết.”
“Nhưng chúng tôi đang cố gắng bảo vệ cô ấy. Chúng tôi phải có những đề phòng nhất định…”
“Giải thích của cậu về vụ này không thuyết phục được tôi. Cậu không biết hắn là ai, hoặc hắn ở đâu, hay hắn làm gì, hay thậm chí hắn trông như thế nào. Đó là điều khôi hài nhất tôi từng được nghe. Vào ngày ba mươi tháng Năm, cô ấy an toàn, nhưng rồi đến ngày ba mươi mốt tháng Năm, cô ấy phải đề phòng cả ngày. Rồi vào ngày mùng một tháng Sáu, cô ấy lại an toàn. Nghe như kiểu dự báo thời tiết hơn là…”
Có điều gì đó trong chuyện này khiến ông thấy buồn cười. Ông bắt đầu phá lên cười, không ngừng lại được. Ông ngả đầu ra đằng sau cười hô hố, bàn tay đập xuống bàn.
Cameron không cố kiềm chế ông. “Sẽ mất một thời gian, tôi hiểu mà,” anh nói, đứng dậy tiến ra cửa. “Không sao, tôi sẽ còn quay lại.”
Hôm sau anh quay lại.
Ward lại cười toét khi trông thấy anh. “Cậu lại định bắt đầu lại cái trò ông kẹ đấy à?”
“Tôi chỉ muốn cho ngài xem mấy thứ này,” Cameron lặng lẽ đáp.
Anh lấy ra mấy mẩu báo, vài tấm ảnh báo chí, hai “bức ảnh” chụp từ nhà xác, trải hết chúng ra trên bàn làm việc của ông.
Ward xem hết một lượt, vẫn cười khúc khích.
“Ông biết ông ta, đúng không?” Cameron chỉ tay.
Ward gật đầu.
“Con gái ông ta chết rồi.”
Ward bình tĩnh ngước mắt lên nhìn thẳng vào anh. “Tôi biết. Có nghe phong thanh, mơ hồ. Quá tồi tệ; nhưng chuyện đó vẫn xảy ra mà, cậu biết đấy. Có liên quan gì tới tôi đâu? Tôi không có con gái. Còn Martine thì không phải là một đứa trẻ vị thành niên không may bị mất đâu. Thế thôi.”
Cameron lại chỉ tay. “Ông biết anh ta đúng không?” Anh hỏi, với giọng tố cáo.
“Sơ sơ. Và tôi cũng có nghe nói về vụ này. Mệt mỏi do chiến tranh. Anh ta giết vợ mình sau đó tự sát. Nếu cậu đang cố gắng bảo vệ tôi khỏi âm mưu tự sát…” Ông gạt mẩu báo bị cắt ra sang một bên. “Chuyện đó từ vài năm trước rồi, trong thời chiến mà.”
Cameron đặt lại trang báo vào chỗ cũ. “Để ý ngày tháng trên ảnh đi.”
Ông không bị ấn tượng. “Tôi thấy rồi. Vậy ra cậu lấy ý tưởng từ đây. Chỉ là trùng hợp thôi. Hai chuyện này cách nhau hai năm.”
“Và xen giữa hai năm đó, là vụ này,” Cameron kiên nhẫn nói.
Ward nhún vai. “Anh ta giết chết nhân tình, và bị hành hình trên ghế điện. Đó là cách luật pháp nói, ác giả thì ác báo. Cậu tính chơi trò phù phép nào đây?”
“Nhìn dòng ngày tháng đi.”
“Lần này thì hoàn toàn không đúng trật tự. Cậu nhầm rồi.”
“Về tội ác kìa, không phải vụ hành hình.”
“Giờ thì làm ơn…” Ông nhẹ nhàng nhưng kiên quyết. Ông sẽ không lắng nghe nữa.
Cameron đứng dậy bỏ đi. “Được rồi, vẫn còn một chút thời gian.”
“Này, mang mấy cái này đi đi chứ.”
“Ngài không thích xem à?”
Ward lắc đầu. “Cậu đang lãng phí thời gian của chính mình đấy.”
“Không hề. Mọi việc tôi làm đều có mục đích cả.”
Ward vẫn cười toe toét khi anh rời khỏi phòng.
Ngày hôm sau anh lại đến.
Lần này Ward chỉ nhếch mép khi thấy anh; không còn chắc chắn nữa.
“Nghe này, cậu đang bắt đầu khiến tôi căng thẳng đấy, cậu thanh tra. Tôi là một doanh nhân. Tôi còn việc phải làm. Tôi không thể cứ nghĩ về những chuyện như…”
“Ngài có chắc là tôi đang khiến ngài căng thẳng không, hay là… thứ gì khác?” Cameron nhẹ nhàng hỏi.
“Chà, rốt cuộc thì, cậu lại rình mò ở đây mỗi ngày chuẩn xác như giờ phát sóng, và cố biến nơi này thành căn phòng kinh hoàng.”
“Tôi chỉ muốn đưa ngài xem cái này.”
Ward đọc một vài dòng.
“Đây là giấy chứng tử,” ông sốt ruột nói. “Và hơn nữa, nó liên quan đến một người phụ nữ tôi chưa từng biết, chưa từng gặp mặt khi bà ta vẫn…”
“Nhưng ngài biết người chồng. Để ý cái tên đi.”
“Thấy rồi. Nhưng căn cứ theo cái này, bà ta chết vì… Có bao nhiêu người chết vì bệnh đó mỗi năm, hả cậu thanh tra?”
“Người ta bị nhiễm thì là ngẫu nhiên. Nhưng bà ta bị nhiễm thì là do mưu sát.”
“Cậu có thể chứng minh không?”
“Vụ này hẳn sẽ kết thúc ở đó nếu tôi có thể,” Cameron thừa nhận.
“Liệu,” Ward khô khan nói, trả lại tờ giấy chứng tử, “hôm nay như thế đã đủ chưa?”
“Ngài sẽ phải trả lời câu hỏi đó.”
“Rất tốt. Vậy thì tôi e câu trả lời là đủ rồi đấy.”
Lần này ông không mỉm cười nữa khi Cameron bỏ đi.
Thang máy không dừng ngay để đón Cameron. Trong khi anh đang đứng đợi, cánh cửa ra vào bằng kính phía cuối hành lang bất ngờ bật mở, bà lễ tân chạy đuổi theo anh.
“Ngài Ward muốn cậu quay lại,” bà ta vừa nói vừa thở hồng hộc. “Ngay lập tức!”
Suy sụp rồi, Cameron nghĩ, kèm theo tiếng thở phào đắc thắng.
Ward vừa uống xong một ly. Nhìn ông như thể sẽ cần thêm ly nữa.
“Đóng cửa lại,” ông run rẩy nói, ngồi thụp xuống ghế. “Tôi không biết có phải đây là chuyện cậu muốn gây ra cho tôi không, nhưng cậu đã làm được rồi,” ông nói như buộc tội. “Giờ thì tôi sợ rồi. Sợ ra trò rồi đấy.”
“Ngài cũng thông minh đấy, ngài Ward. Cuối cùng ngài cũng thông minh ra rồi.”
“Còn bao nhiêu thời gian nữa?”
“Còn đủ thời gian.”
“Tại sao cậu lại khiến tôi phí hoài mấy ngày qua như thế?”
“Thế tôi cứ phải tới đây liên tục là vì cái gì?”
Ward nhăn nhó. “Lạy Chúa! Nếu có chuyện gì xảy ra với cô ấy…”
“Sẽ không xảy ra chuyện gì đâu, nếu ngài để chúng tôi xử lý mọi việc. Giờ thì ngài dẫn tôi tới chỗ cô ấy được chứ? Giờ ngài sẵn sàng chưa?”
“Ngay bây giờ. Chúng ta sẽ đi ngay bây giờ.”
Ông chặn Cameron một lúc ngay ngưỡng cửa, túm chặt tay áo anh. “Cô ấy có phải biết chuyện này không? Có phải nói cho cô ấy biết không? Tôi đã luôn muốn cô ấy tránh xa mọi nguy hiểm… Tôi không muốn cô ấy biết chuyện này.”
“Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để cô ấy không biết” Cameron hứa. “Nếu có thể.”
Đó là một căn nhà kín đáo. Cameron không mong đợi điều này. Anh tưởng nó sẽ là một trong những căn hộ xa hoa lộng lẫy, là nơi để đàn ông tìm đến những cuộc vụng trộm. Nhưng đây lại là một ngôi nhà hiền lành, như tổ ấm được chăm chút kĩ lưỡng với một mặt tiền bằng đá vôi đẹp mắt, các ô kính cửa sổ được đánh bóng nổi bật, đằng sau là những tấm rèm gọn gàng sạch sẽ, dưới mỗi bệ cửa sổ đều đặt những chậu cây. Căn nhà giống hệt như những gì Ward đã nói với Cameron: đây không phải chuyện tình lén lút, mà là tình yêu của cuộc đời ông.
Một phụ nữ trông như người mẹ khoảng năm mươi tuổi ra mở cửa khi nghe thấy chuông. Rõ ràng bà vừa là bà nội trợ vừa là người bầu bạn, cho dù bà không đeo tạp dề cũng không mặc bất kỳ loại đồng phục nào, mà chỉ đơn giản là quần áo mặc ở nhà có thêu hoa.
“Ôi, ngài Ward!” Bà mừng rỡ thốt lên. “Martine hẳn sẽ vui lắm đây!”
“Đây là ngài Cameron, một người bạn của tôi,” Ward nói, hơi căng thẳng. “Bà Bachman.”
“Xin mời vào. Để tôi cất đồ cho.” Bà lăng xăng quanh họ. “Hai người ở lại ăn trưa chứ?” Bà nói với cả hai người.
“Tôi không biết…” Ward nghi ngờ đáp, ném sang Cameron cái nhìn dò hỏi.
“Tôi sẽ chạy lên ngay và…”
“Không. Cô ấy ở đâu, đang ở trên gác à? Để tôi lên làm cô ấy ngạc nhiên.”
“Vậy thì để tôi xuống dặn dò nhà bếp. Hai ngài cứ ở lại nhé.” Bà nghiêm nghị đặt bàn tay lên cánh tay Ward một lúc. “Ôi, đã mười hai giờ năm phút rồi. Hai người có muốn lên gặp cô ấy một lát không? Martine sẽ rất thích đấy; cô ấy sẽ rất hạnh phúc.”
Trên đường lên gác, Cameron cảnh báo ông ta. “Hãy bình tĩnh lại đi. Ngài hơi căng thẳng đấy. Nếu ngài không muốn cô ấy nhận ra điều gì…”
“Giúp tôi đi,” người đàn ông xúc động nói. “Giúp tôi đi.”
Cameron khoác vai Ward một lát, rồi lại buông ra. Anh cảm thấy tội nghiệp ông. Đến giờ này anh vẫn chưa từng biết đến tình yêu. Anh biết nó có tồn tại, nhưng anh cũng không chắc lắm.
Ward gõ cửa. Ông biết nên gõ cửa nào.
Một giọng nói đáng yêu, êm ái xen lẫn sự hồi hộp, vì giọng nói ấy đã đoán ra sự hiện diện của ông qua chính tiếng gõ cửa, vang lên, “Xin mời vào.”
Ông mở cửa và Cameron trông thấy cô.
Cả người cô đang tắm trong ánh nắng từ ô cửa sổ trước. Cô đang ngồi bên cửa sổ, và nó bao bọc cô bằng một vầng hào quang rạng ngời. Hoặc có thể chính cô mới là người tạo ra vầng hào quang đó, chứ không phải là những tia nắng chiếu xiên.
Cô ngoảnh mặt về phía họ. Cô đẹp. Hết sức xinh đẹp. Không ngạc nhiên khi cô ấy là tình yêu của cuộc đời ông ta, Cameron nghĩ. Yếu tố quan trọng nhất trong sắc đẹp của cô là tuổi thanh xuân phơi phới. Không phải như một trái cây ngon lành vừa chín tới, không phải vẻ đẹp bên ngoài; mà là vẻ ngây ngô và đáng yêu của một đứa trẻ trong thân xác một người phụ nữ trưởng thành.
Cô đang nhìn Ward. Cameron đứng ngay cạnh ông, họ đang đứng vai kề vai bên nhau. Nhưng cô chỉ nhìn Ward.
“Có ai đi cùng anh sao?” Cô nói.
Cô bị mù hoàn toàn.
Cameron báo cáo lại với sếp các biện pháp mình đã áp dụng đến lúc này.
“Tôi đã cử bốn người ở ngay trong nhà cô ấy, chia thành hai đôi làm việc theo ca, canh gác cả ngày lẫn đêm, suốt hai mươi tư tiếng. Một người phụ trách lò đốt là nơi nhiều người hay đến, quản lý việc sưởi ấm cho toàn bộ căn nhà. Người phụ trách lò đốt ban đầu không được nhận nữa, đã thanh toán hết tiền lương và cho nghỉ việc. Toàn bộ ổ khóa đã được thay mới, chúng tôi có lắp vào đó hệ thống báo động điện tử, cả cửa trước lẫn cửa sau. Không một nhân viên giao hàng nào được phép bước chân vào nhà. Không ai được phép đi qua cửa trước nếu khi tôi chưa cho phép, chỉ có Ward là ngoại lệ. Và ngay cả ông ta cũng chỉ được phép đến thăm cô ấy hai lần mỗi ngày; ông ta không thể đến thăm bất kỳ lúc nào ông ta muốn, đặc biệt là sau khi trời tối.”
Anh chờ một lời khen, nhưng chẳng hề nhận được. “Xong rồi chứ?” Chỉ có thế.
“Không hẳn. Tôi còn theo dõi căn nhà từ bên ngoài, hoặc ít nhất là con phố trước nhà. Bất kỳ chiếc xe nào ghé qua, hoặc nếu có bất kỳ kẻ nào lảng vảng quanh đó… Tôi không thể cài người của chúng ta vào các nhà đối diện, vì họ không nhận khách trọ. Tuy nhiên, tôi đã cắt hai người phục trên mái nhà bên kia đường, giả vờ đang làm công tác sửa chữa để có cớ nán lại trên đó cho đến khi hết giờ. Ở trên đó họ sẽ có tầm nhìn bao quát toàn bộ con phố. Họ có mang theo điện đài hai chiều lên đó, có thể chuyển tín hiệu xuống dưới ngay lập tức. Ngoài ra còn có mấy cái đèn công suất cao, giúp họ có thể quan sát tốt hơn.”
“Cậu sẽ phải theo dõi cả thức ăn được đưa vào. Nhớ bài học vợ của Garrison đấy. Cả các bưu kiện gửi qua bưu điện nữa; chúng có thể chứa chất nổ.”
“Chi nhánh bưu điện địa phương đã được lệnh giữ lại tất cả thư từ gửi đến địa chỉ đó, chấm dứt hết các hoạt động giao hàng cho tới khi có thông báo thêm. Hai ngày trước họ đã sa thải đầu bếp. Ngay cả khi đó là đầu bếp nữ từng làm cho họ nhiều năm rồi, tôi nghĩ tốt nhất nên để bà ấy tránh xa chuyện này. Dù sao thì bà ấy cũng có thể có quan hệ với nam giới bên ngoài, hay thậm chí là họ hàng mà không thể bảo đảm được. Hiện tôi đang cắt một cảnh sát nữ vào làm đầu bếp, chăm lo toàn bộ các khâu từ mua hàng đến chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà.”
“Thế còn người bạn đồng hành thì sao? Bà Bachman thân thiết với cô gái đó ấy?”
“Bà B, như cô gái hay gọi,” Cameron đáp, “là người giúp việc duy nhất tôi không hề đụng chạm đến.”
“Cậu có thể bảo đảm cho bà ta?”
“Tôi có thể bảo đảm bằng cả cuộc đời mình; không hề có một chút nghi ngờ nào đối với bà ấy. Tôi đã chỉ huy cả một đội quân truy tìm tất tần tật về bà ấy, toàn bộ thông tin liên quan đến giấy khai sinh của bà ấy ở tòa thị chính. Họ chẳng hề bỏ qua một chi tiết nào, ngay cả chuyện bà ấy bị lên sởi hồi bé, cũng như các tòa nhà bà ấy học tiểu học, hay những giáo viên của bà ấy là ai. Họ hàng của bà ấy không ai còn sống, chẳng có người em họ nào nữa; chồng bà ấy qua đời vì sốt vàng da trong thời gian chiến tranh Tây Ban Nha - Mỹ, một năm sau ngày cưới. Bà ấy sống chung với cô ấy kể từ khi cô ấy còn nhỏ; thậm chí tôi còn chẳng tưởng tượng được cô ấy đã rời nhà mà không có bà ấy, trong mười hay mười hai năm. Bà ấy không có cuộc sống riêng của mình; cô ấy là cả cuộc sống của bà ấy. Dù tôi vẫn muốn gạt bà ấy ra rìa một thời gian, chỉ tạm thời thôi, nhưng tôi có hỏi ý kiến Ward về chuyện này và cả hai chúng tôi cùng đồng ý rằng không nên làm như thế; vì điều đó không chỉ khiến cô ấy bị sốc và hoảng sợ một cách không cần thiết, mà có thể còn gây bất lợi về an ninh. Người phụ nữ này đã tận hiến cho cô ấy đến nỗi còn giám sát cô ấy tốt hơn cả người của chúng ta. Như thế chúng ta lại có thêm một người nữa làm việc cho chúng ta.”
“Sắp đặt xong xuôi rồi chứ?”
“Sắp đặt xong xuôi rồi,” Cameron kết luận. “Bên ngoài được bảo vệ, bên trong cũng được bảo vệ. Bây giờ không còn ai ở bên cạnh cô ấy nữa, ngoại trừ người của chúng ta và bà B. Nói cho sếp biết, tôi đã biến cái nhà ấy thành một pháo đài đích thực. Không một ai, và không có bất kỳ cái gì có thể xông vào được.”
“Cho đến giờ thì tốt đấy,” ông ta chỉ nói có vậy. “Hãy nhớ duy nhất một điều: một pháo đài chỉ thực sự tốt khi người đứng sau lưng nó thật sự tốt.” Và ông ta nhìn thẳng vào Cameron.
Khi Ward thức dậy lúc tám giờ - thời gian biểu bình thường của ông - vào hôm thứ Năm, ông không hề biết rằng mình sẽ làm việc đó. Thứ Năm là ngày mười lăm. Quyết định được đưa ra rất nhanh. Nó xuất hiện rất nhanh. Nó đã nằm yên đó suốt mấy ngày rồi, chắc chắn là vậy. Ngày càng mạnh mẽ hơn suốt thời gian đó. Hết ngày này qua ngày khác, giờ này qua giờ khác.
Ông cạo râu, tắm rửa, thay đồ. Ông chọn một chiếc cà vạt bằng lụa mỏng, thêu những bông hoa xám trên nền xanh. Ông quyết định không chọn cà vạt kẻ sọc. “Mình sẽ đeo nó vào ngày mai,” ông tự nhủ. Cho thấy rằng ông vẫn không biết việc mình sắp làm.
Ông bước xuống nhà. Bữa sáng của ông đã sẵn sàng. Vợ ông ngồi bên bàn. Tờ báo của ông nằm trên bàn. Chi tiết cuối cùng khiến ông hứng thú hơn chi tiết đầu tiên, và chi tiết đầu tiên lại hấp dẫn ông hơn chi tiết thứ hai, nhưng ông đủ lịch thiệp để không thể hiện ra trên nét mặt, ông dành sự chú ý tương đương nhau với cả ba, tờ báo có lẽ được ưu tiên hơn một chút so với hai chi tiết còn lại.
Ông hôn vợ và họ cùng nói chuyện phiếm. Thân thiện, dễ chịu nhưng không quá chân thành. Ít ra là không có sự thù địch. Cũng chẳng có sự thân thiết. Họ chỉ như hai con người đàng hoàng có giáo dục, không quá quan tâm đến nhau.
Ông rời nhà đến văn phòng, mang theo tờ báo và va li. Ông nói, “Tạm biệt, Louise,” từ cách đó một căn phòng. Ông không biết rằng mình có thể sẽ không bao giờ gặp lại bà nữa. Mà giả như có biết, hẳn ông vẫn sẽ nói, “Tạm biệt, Louise,” từ cách đó một căn phòng, cũng với cái giọng đó.
Ông vẫn không biết rằng mình sẽ làm việc đó.
Ông bước vào chiếc xe đang đợi mình ngoài cửa. Trên đường đến văn phòng ông tiếp tục ngồi đọc báo.
Dòng ghi ngày tháng là thứ đập vào mắt ông trước tiên. Đây không phải lần đầu tiên. Còn mười sáu ngày nữa. Và ngày mai sẽ là mười lăm. Tại sao cứ phải ngồi đây chờ nó xảy ra, khi còn cả thế giới này để trốn trong đó? Mắc kẹt, như con thỏ trong lồng.
Bất thình lình ông biết rằng mình sẽ làm việc đó.
Ông gõ gõ vào tấm kính. Tay tài xế ngoảnh đầu lại. Ward ra lệnh cho anh ta tấp vào lề và dừng lại ngay lập tức.
Ông xuống xe, đóng cửa.
“Đi đi,” ông nói cụt lủn. “Đừng đợi tôi.” Chiếc xe là một vật cản, có thể bị nhận ra, có thể phản bội ông. Bởi vì ông biết vào đúng lúc này mình đang bị theo dõi.
Tay lái xe có vẻ ngạc nhiên, nhưng vẫn phóng xe đi.
Ward bắt một chiếc taxi khác. Ông đến ngân hàng bước vài bậc cầu thang xuống hầm. Ông ký tên nhận diện, chữ ký được chứng thực, ông được phép vào hầm. Giờ ông thấy biết ơn vô vàn những biện pháp đề phòng này.
Chỉ có một mình trong buồng riêng bé nhỏ với chiếc hộp ký thác an toàn trước mặt, ông lục lọi nó một cách vội vã nhưng vẫn theo tuần tự. Đồ trang sức của Louise; ông không muốn chúng. Cổ phiếu của hãng General Motors xếp thành từng bó màu vàng; ông cũng gạt chúng sang một bên. Nhiều quá không thể chuyển đổi được. Các bó cổ phiếu của hãng American Tel&Tel màu sô cô la; quá nhiều. Goodyear. General Electric. Tất cả đều không được chú ý đến. Một hợp đồng bảo hiểm trị giá bảy mươi lăm nghìn đô la, vợ ông là bên hưởng lợi. (Ông rùng mình, như thể nhìn thấy nó khiến ông sợ hãi.)
Nằm dưới cùng tất cả mọi thứ, các trái phiếu Chính phủ xuất hiện. Đây mới là thứ ông muốn, là thứ mà ông đến để tìm. Ông nhét chúng vào túi áo. Trị giá năm mươi nghìn đô la. Chuyển đổi được theo yêu cầu, khi xuất trình, ngay tức thì. Áp dụng được trên toàn thế giới, khắp mọi nơi, chỗ nào cũng được.
Ông nhanh chóng chạy lên, đề nghị được vào văn phòng của giám đốc ngân hàng.
Mười phút sau ông quay ra, cùng một thư tín dụng trị giá năm mươi nghìn đô la trong túi. Mười sáu ngày. Khắp gầm trời này đi đâu cũng được. Khi một con gà tây nằm chờ chết, nó không thể thoát ra khỏi cái lồng mình bị nhốt vào. Khi một con người ngồi chờ chết, anh ta có thể chạy trốn đến nơi tận cùng trái đất; vì anh ta biết chết nghĩa là gì. Chúa đã dạy cho anh ta điều đó.
Ông bắt một chiếc taxi khác. Đến trước cửa một công ty du lịch lữ hành, ông xuống xe. Ông trao cho tay nhân viên phần thưởng năm mươi đô la, hứa rằng khi xong việc sẽ tặng gấp đôi. Tuy nhiên, ông không để lại tên, địa chỉ hay số điện thoại, vốn là quy định bắt buộc trong những trường hợp như thế này. Ông nói mình sẽ trực tiếp quay lại vào ngày hôm sau. Tay nhân viên đành phải dùng tên của mình, Breuer, trong tất cả các giao dịch mà anh ta thực hiện. Và cho dù tay nhân viên không nhận ra, nhưng anh ta đã ngay lập tức trở thành “cha đỡ đầu”.
Sau đó Ward quay về văn phòng. Ông hủy bỏ tất cả các cuộc hẹn trong ngày, tảng lờ hết tất cả các vấn đề đang treo, các vấn đề trước mắt và tập trung hoàn tất những gì đang triển khai được một thời gian hoặc chưa làm xong; những vấn đề mà vì ông đã quá quen thuộc nên chẳng còn ai ngoài ông thích hợp để giải quyết.
Ông làm việc quá giờ ăn trưa, đến tận giữa chiều. Cuối cùng tới ba giờ ông cũng dừng lại, vì quá kiệt sức không thể làm thêm được nữa. Việc cuối cùng ông làm là khóa cửa văn phòng từ bên trong, bật máy ghi âm, và soạn bằng miệng một tin nhắn từ chức gửi cho người đồng nghiệp, chuyển cổ phần và quyền hạn của ông sang cho người này. “… Và Chúa phù hộ anh, Jeff.” Khi tắt máy, trên đôi mắt ông rưng rưng những giọt lệ. Đàn ông đôi khi cũng ủy mị, ngay cả trong kinh doanh.
Vào lúc ba giờ mười lăm phút chiều cùng ngày ông rời văn phòng. Và trong suốt phần đời còn lại của mình ông sẽ không quay về đây nữa.
Lúc này ông ranh ma hơn hồi sáng, vì đích đến giờ nằm gần trái tim ông hơn, và nó đang bị đe dọa nhiều hơn. Ông bắt ba chiếc taxi, gọi xe rải rác tại nhiều điểm đến giả để ngụy trang như các cửa hàng hoặc những điểm tương tự, nhằm phá vỡ tính liên tục trong hành trình của mình.
Khi rời khỏi văn phòng, theo thói quen ông mang theo chiếc va li. Khi nhận ra điều đó, ông đã cố gắng vứt bỏ nó, cố tình bỏ quên trên chiếc taxi đầu tiên.
Tay tài xế phá hỏng dự tính của ông khi gọi với theo, “Thưa ngài, ngài bỏ quên va li này,” và chạy theo trả lại va li cho ông.
Ward chợt mỉa mai nghĩ, giá như cái va li là một thứ ông nỗ lực đến cùng để không đánh mất, thì hẳn nó sẽ mãi nằm trong xe taxi mà không bị phát hiện.
Ông thử lại lần nữa với chiếc taxi thứ hai, lần này một phụ nữ đã kêu ré lên khi phát hiện chiếc va li từ cửa sổ xe, rồi phải vất vả lắm mới theo kịp để có thể trả lại nó cho ông.
Lần thứ ba ông giấu nó dưới đệm ghế, và cuối cùng ông cũng thoát khỏi nó.
Chiếc taxi thả ông xuống trước cửa nhà Martine, ông vội vã tiến vào trong, cố gắng hết sức ngăn mình không nhìn khắp con phố bằng ánh mắt sợ hãi, vì ông nhận ra rằng, dù có đang bị theo dõi thì ông cũng chẳng thể nào phát hiện ra. Ông vốn không quen với những chuyện như thế này, và đoán chừng những ai theo dõi ông cũng vậy.
Bà Bachman vẫn vui vẻ chào đón ông như thường lệ, nhưng ông ra hiệu cho bà im lặng và thì thầm. “Tôi phải ở một mình cùng cô ấy. Có chuyện tôi muốn nói với cô ấy. Bà trông chừng dưới chân cầu thang, đừng để bất kỳ ai đến gần chúng tôi.”
Bà gật đầu, luôn sẵn lòng bảo vệ ông chống lại những kẻ ngoài cuộc.
Martine đang ngồi đọc sách bằng các đầu ngón tay, mái đầu cô hơi nghiêng nghiêng, như thể cô đang lắng nghe thay vì cảm nhận.
Cô mặc chiếc váy màu vàng, trên đường viền cổ áo buộc một dải băng đô màu đen, và trên một bên tai, bà Bachman (có lẽ thế) đã gài cho cô một chiếc nơ xinh xắn màu vàng ngộ nghĩnh.
“Allen à?” Cô hỏi, khi tiếng chân ông vang trên ngưỡng cửa. Ánh mặt trời tỏa rạng ngời trên gương mặt cô. Không phải trên gương mặt, mà là từ bên trong, ánh nắng tỏa sáng từ trong ra ngoài.
“Marty bé bỏng của anh,” ông gần như nức nở.
Ông ôm cô trong vòng tay thật lâu, thật chặt, cho đến khi cô nhận ra rằng cái ôm này có gì đó không ổn.
“Chuyện gì vậy, Allen?” Cô vỗ về. “Chuyện gì thế?” Cô vuốt ve những đường nét trên gương mặt ông bằng những đầu ngón tay am hiểu, những đầu ngón tay cho cô biết mọi điều.
“Anh sẽ phải làm em khiếp sợ một chút.”
Cô lại ngồi xuống ghế, tự trấn tĩnh, và ông, vẫn đang siết chặt hai bàn tay cô trong tay mình, quỳ xuống bên cạnh cô, để hai mái đầu sát kề nhau đến nỗi họ chỉ cần thì thầm.
“Phải chăng anh muốn rời bỏ em? Phải chăng em sẽ chỉ còn cô đơn một mình trong bóng tối?”
“Không bao giờ; chừng nào anh còn sống. Đó là lời thề anh tự đặt ra cho mình nhiều năm trước, và anh sẽ không bao giờ làm trái nó.”
“Thế thì chuyện gì…?”
“Có… có kẻ nào đó đang mưu toan cướp em khỏi tay anh.”
“Bằng cách nào? Sao họ có thể?”
“Bằng cách nào ư? Cách duy nhất là gì? Em nghĩ đi.”
“Cái chết,” cô thở hổn hển, khiếp sợ.
“Bằng cách đó đấy,” ông thừa nhận. “Đó là một cách. Cách duy nhất chúng có thể.”
Cô áp mặt vào ngực ông; giật giật ve áo ở vạt trước sơ mi của ông, như thể muốn kéo chúng lại gần hơn, để vùi mình trong đó sâu hơn nữa. Hơi thở của cô gấp gáp và khiếp sợ, và cho dù ông vẫn ôm chặt cô trong vòng tay, cố gắng khiến cô bình tĩnh lại, bất chấp điều đó ông vẫn có thể cảm thấy cô đang run rẩy.
“Không,” ông cứ liên tục van xin, với cái giọng người ta hay dùng với một đứa trẻ đang sợ hãi. “Không. Không. Không.”
“Ngay cả trong bóng tối, cuộc sống còn tốt hơn… là không sống. Tại sao chúng phải cố gắng… cướp đi của em điều nhỏ bé ấy chứ?”
“Không. Không. Không,” ông chỉ nói được có vậy.
“Em có làm tổn thương ai đâu?”
“Là anh làm, không phải em. Và anh chẳng biết mình đã làm cái gì. Nhưng mà…”
“Là kẻ nào?” Cô hỏi.
“Anh không biết. Họ cũng không biết. Anh chưa từng gặp hắn. Họ cũng thế. Kẻ nào đó… không, con quỷ sát nhân nào đó đã từng là người. Nỗi đau bệnh hoạn nào đó cần một cái chết nhân từ. Chắc chắn là thế, còn ai có thể làm tổn thương Martine nữa cơ chứ?”
Lúc này cô đã bình tĩnh lại một chút; vẫn nằm đó vùi mặt vào ngực ông, nhưng đã bình tĩnh lại một chút. Rồi ông tạm rời xa cô, chỉ một lúc thôi; một nút chai thủy tinh bật lên vang như tiếng đàn; rồi ông lại trở về bên cô.
“Uống cái này đi. Xong rồi anh muốn em lắng nghe anh thật kĩ.”
“Cái gì vậy?”
“Chỉ là một ngụm brandy thôi.”
Ông giữ cốc cho cô uống cạn.
“Giờ lắng nghe anh cho kĩ đây. Anh sẽ thì thầm vào tai em. Anh không muốn bất kỳ ai nghe thấy hết. Chờ chút, anh phải đi khóa cửa đã.”
Ông tiến ra cửa và xoay chìa khóa. Ông rút chiếc khăn tay trong túi ra, treo trên núm cửa, che kín bất kỳ hình ảnh nào có thế truyền ra ngoài qua khe hở lỗ khóa.
Xong xuôi ông quay về bên cô, quỳ một gối bên cạnh và áp sát môi vào tai cô.
Lúc này cô bắt đầu gật đầu.
“Vâng, em sẽ làm,” cô lẩm bẩm. “Em tin tưởng anh bằng cả cuộc đời em. Anh chính là cuộc đời em.”
Cô lại gật đầu trong khi ông vẫn đang thì thầm.
“Vâng, em sẽ làm. Em sẽ nghe lời anh. Bất kể là gì. Không, em không sợ đâu. Có anh thì em không sợ.”
Giọng của ông cao lên một chút, khi thông điệp bí mật đã đi đến đoạn kết. Một vài từ rời rạc cũng vang lên rõ mồn một.
“Cơ hội duy nhất của chúng ta… không một ai…không được nói với bất kỳ ai… ngay cả bà B.”
Và cuối cùng ông hôn cô. Hôn lên trán, hôn lên đôi mí mắt, và cuối cùng hôn lên bờ môi, như lời khẳng định quyết tâm của họ, bất kể đó là gì.
“Chúng sẽ không thể có được em, tình yêu của anh,” ông nồng nhiệt nói. “Chúng sẽ không thể làm hại em. Anh sẽ đưa hai đứa mình đến nơi cùng trời cuối đất.”
Cô thận trọng đưa tay lên chải tóc, cô có thể tự mình làm việc đó. Và lạ lùng làm sao, cô luôn làm thế khi đứng trước gương. Như một thói quen. Cho dù đối với cô có gương hay không cũng nào khác biệt gì.
Cô bước đến gần cái ghế, nơi bà Bachman đã chuẩn bị mọi thứ cho cô. Bằng cảm giác cô biết rằng hôm nay bà B đã chọn cho cô chiếc váy len màu đen. Mười đầu ngón tay cho cô biết điều đó. Chẳng phải phi thường gì, bình thường thôi. Cô đã thuộc hết những đường dệt, những nút áo bọc kim loại, hai tay áo, thậm chí là cả cổ áo. Cô thuộc nằm lòng từng bộ đồ - chỉ bằng cách chạm tay, tất nhiên. Duy chỉ có một thứ duy nhất cô không phân biệt được, đó là màu sắc. Bà B đã nói cho cô biết cái váy này màu đen. Cô mặc váy lên người.
Giờ đây cô đã thay đồ xong. Thậm chí cô có thể thoa son môi nếu muốn, và làm việc đó rất giỏi. Nhưng cô không bao giờ dùng son môi. Cô bước đến cửa phòng - không một chút ngần ngừ - mở cửa và bước ra ngoài. Cô tìm đường đến bàn ăn sáng không chút khó khăn, tìm đến cái ghế quen thuộc cạnh bàn, kéo nó ra, ngồi xuống và thưởng thức bữa sáng mà bà B đã dọn sẵn trên bàn.
Mình cô có thể làm được tất cả những việc này.
Cô vươn tay ra lấy ly nước cam, đưa cốc lên môi. Bà B luôn đổ đầy hai phần ba các cốc nước cô uống, như vậy chúng sẽ không bị tràn ra ngoài. Đó là sự nhân nhượng duy nhất giữa hai người trước tình trạng khuyết tật của cô. Đó là vấn đề về lòng kiêu hãnh, mà cả hai đều coi trọng như nhau.
Cô sờ thấy miếng bánh mì nướng và tự phết bơ. Bà B đã chuẩn bị sẵn cốc cà phê cho cô (dù khoản này cũng dành cả cho người sáng mắt), tuy nhiên đích thân cô sẽ cho thêm đường và kem. Hỗ trợ cho cô trong hai quy trình này là cảm nhận tinh tế về trọng lượng và cân bằng. Thật kỳ lạ khi cô có thể nói khá chính xác một cái thìa đựng bao nhiêu đường; rằng đường đang ?