Mười Một Năm Trước
Các giả thuyết hiện tại về sự ra đời của vũ trụ nói rằng, nếu quả thực vũ trụ được tạo ra chứ không cứ thế bắt đầu, chẳng lệ thuộc vào ai, thì nó hình thành đâu đó trong khoảng mười đến hai mươi tỉ năm trước. Cũng tương tự như vậy, Trái đất nhìn chung được coi là có tuổi đời khoảng bốn tỉ rưỡi năm.
Các con số này đều không chính xác.
Các học giả Do Thái Trung cổ xác định rằng năm Sáng Thế là 3760 TCN. Các nhà thần học thuộc giáo hội Hy Lạp chính thống lại lùi năm Sáng Thế đến tận 5508 TCN.
Các đề xuất này cũng không chính xác.
Tổng Giám mục James Usher (1580-1656) đã xuất bản cuốn Annales Veteris et Novi Testament (*) vào năm 1654, trong đó có đề xuất rằng Thiên đường và Trái đất được tạo ra vào năm 4004 TCN. Một phụ tá của ngài còn tính toán kỹ hơn và đắc thắng tuyên bố rằng Trái đất được tạo ra vào Chủ nhật ngày 21 tháng Mười năm 4004 TCN, vào đúng 9 giờ sáng, vì Chúa Trời thích hoàn thành mọi việc vào buổi sáng, lúc Người còn đang thấy sảng khoái.
Thời điểm này cũng sai nốt. Sai gần mười lăm phút.
Mấy vụ xương khủng long hóa thạch chỉ là một trò đùa mà các nhà khảo cổ học chưa hiểu ra.
Chuyện này chứng tỏ hai điều:
Thứ nhất, đó là chúa có cách hành xử vô cùng bí hiểm, Nếu không muốn nói là vòng vo ngoắt ngoéo. Chúa không chơi trò xúc xắc với vũ trụ. Người chơi một trò chơi bất khả tư nghị do Người tự nghĩ ra, mà khi nhìn từ góc độ của bất kỳ người chơi nào khác (*) , có thể được ví với một phiên bản poker phức tạp và khó hiểu, trong một căn phòng tối đen, với các lá bài trắng, tiền cược là vô tận, cùng một tay chia Bài không chịu cho ta biết luật chơi và còn không ngừng mỉm cười.
Thứ hai, đó là Trái đất thuộc cung Thiên Bình.
Phần tử vi chiêm tinh cho cung Thiên Bình trong mục “Tử vi mỗi ngày” trên tờ Nhà quảng cáo làng Tadfield, vào ngày mà câu chuyện này bắt đầu, viết như sau:
THIÊN BÌNH, 24 tháng Chín - 23 tháng Muời
Bạn có thể cảm thấy mệt mỏi và thấy mình cứ mãi mắc trong cái vòng luẩn quẩn hằng ngày. Các vấn đề gia đình trở nên nổi bật và không mấy tiến triển. Hãy tránh những rủi ro không cần thiết. Một người bạn là rất quan trọng với bạn. Đừng vội đưa ra các quyết định hệ trọng cho tới khi con đường trước mặt trở nên rõ ràng. Hôm nay bạn dễ bị đau bụng, nên đừng ăn rau sống. Trợ giúp sẽ đến từ một nơi bạn không ngờ tới.
Tất cả đều hoàn toàn chính xác trừ đoạn về rau sống.
Đó không phải là một đêm tối tăm và bão tố.
Lẽ ra phải thế, nhưng thời tiết là vậy mà. Với mỗi nhà khoa học điên nhận được một trận bão hết sức thích hợp đúng vào cái đêm Công trình Vĩ đại của ông ta đã hoàn thành và đang nằm trên bàn mổ, thì có đến hàng tá kẻ khác phải ngồi vơ vẩn dưới những vì sao yên ả trong khi Igor (*) quần quật làm thêm giờ.
Nhưng đừng để sương mù (cùng với cơn mưa tới sau đó, và nhiệt độ giảm xuống còn chừng bảy độ) khiến ta lầm tưởng mình được an toàn. Đêm nay trời yên gió lặng không có nghĩa là không có những thế lực đen tối đang hoành hành. Chúng luôn hoành hành. Chúng ở khắp mọi nơi.
Chúng luôn là vậy. Mấu chốt là ở đó.
Hai trong số đó đang rình rập trong một nghĩa địa đổ nát. Hai hình thù tối thui, một khom khom chồm hỗm, một cao nghều đầy hăm dọa, cả hai đều là những tay rình rập tầm cỡ Olympic. Nếu Bruce Springsteen có thu âm bài “Sinh ra để rình rập” (*) thì hai tên này sẽ có mặt trên bìa album. Chúng đã rình rập trong màn sương được một tiếng đồng hồ, nhưng chúng rất thong thả và có thể rình rập cả đêm nếu cần, mà vẫn còn đủ vẻ lầm lì hăm dọa cho một cú rình rập chót vào lúc bình minh.
Cuối cùng, sau khi hai mươi phút nữa trôi qua, một tên lên tiếng: “Tổ cha tổ mẹ nó đi. Hắn phải có mặt từ mấy tiếng trước rồi chứ.”
Kẻ vừa nói đó tên là Hastur. Hắn là một Công tước Địa ngục.
Nhiều hiện tượng - chiến tranh, dịch bệnh, các đợt kiểm toán bất ngờ - đã được lấy ra làm bằng chứng cho việc Satan ngầm nhúng tay vào cuộc sống Con Người, nhưng bất kỳ khi nào các nhà nghiên cứu ngành ma quỷ học tụ tập lại với nhau, thì họ đều nhất trí rằng đường cao tốc vành đai M25 (*) của London xứng đáng nằm trong số những đấu thủ tranh suất Mẫu vật loại A.
Tất nhiên, họ đã nhầm khi cho rằng con đường khốn nạn đó xấu xa chỉ đơn giản là vì những cảnh tàn sát và cảm giác cáu điên nó gây ra mỗi ngày.
Thực ra, rất ít người trên Trái đất này biết rằng hình thù của đường M25 tạo thành con dấu odegra trong ngôn ngữ của các Tu sĩ Đen thuộc dòng Mu cổ đại, có nghĩa là “Hoan hô Quái Vật Vĩ Đại, Kẻ Nuốt Thế Giới”. Hàng ngàn người lái xe ngày ngày xả khói trên con đường nham hiểm này có vai trò tương tự nước chảy lên bánh xe cầu nguyện, không ngừng tạo ra một màn sương ma quỷ cấp độ thấp làm ô nhiễm không khí siêu hình trong phạm vi hàng chục cây số quanh đó.
Đó là một trong những thành tựu đáng kể của Crowley. Hắn đã tốn nhiều năm mới đạt được nó, và bao gồm ba vụ hack máy tính, hai vụ đột nhập, một vụ hối lộ nho nhỏ, và, vào một đêm ẩm thấp khi tất cả các cách khác đều thất bại, hắn đã phải bỏ ra hai tiếng đồng hồ bì bõm trên một cánh đồng để xê dịch các cọc đánh dấu đi vài mét, nhưng là những mét rất quan trọng xét theo môn huyền học. Khi Crowley ngắm nhìn cảnh tắc đường dài bốn mươi lăm cây số đầu tiên, trong hắn dâng lên cảm giác ấm áp dễ chịu khi một hành động xấu xa đã được hoàn thành tốt đẹp.
Nhờ nó, hắn đã được tuyên dương.
Crowley hiện đang lái xe với tốc độ một trăm tám mươi cây số giờ đâu đó ở phía đông Slough. Bề ngoài hắn không giống ma quỷ cho lắm, ít ra là khi xét theo tiêu chuẩn cổ điển. Không sừng, không cánh. Quả tình là hắn đang nghe băng Các bài hát hay nhất của Queen, nhưng không thể rút ra kết luận gì từ tình tiết này, vì tất cả các băng nhạc để trong xe quá hai tuần đều tự biến thành album Các bài hát hay nhất của Queen. Trong đầu hắn không có lấy một ý nghĩ đặc biệt ma quỷ nào. Thật ra, hắn chỉ đang lơ đễnh tự hỏi Moёt và Chandon (*) là ai.
Crowley có tóc đen, gò má đẹp, và hắn đi giày da rắn, hay ít nhất thì hắn hẳn cũng đang đi giày, và hắn có thể làm những trò rất kỳ quái bằng lưỡi. Và, bất kỳ khi nào không để ý, hắn thường có xu hướng rít lên.
Hắn cũng ít chớp mắt.
Chiếc xe hắn đang lái là một chiếc Bentley đen 1926, mới qua một đời chủ, và người chủ đó chính là Crowley. Hắn đã chăm sóc chiếc xe rất cẩn thận.
Lý do hắn đến muộn là vì hắn đang khoái trá tận hưởng thế kỷ hai mươi. Thế kỷ hai mươi thú vị hơn nhiều so với thế kỷ mười bảy, và thú vị hơn rất nhiều so với thế kỷ mười bốn. Crowley luôn nói rằng một trong những điều tuyệt vời của Thời gian đó là nó liên tục đưa hắn rời xa thế kỷ mười bốn, một trăm năm chán nhất trên thế giới của Chúa, xin lỗi nhỡ mồm. Thế kỷ hai mươi thì không hề chán chút nào. Thật ra, ánh đèn xanh nhấp nháy trong gương chiếu hậu đã cho Crowley biết, từ năm mươi giây trước, là hắn đang bị theo đuôi bởi hai người sẽ khiến mọi việc còn thú vị hơn với hắn.
Hắn liếc nhìn đồng hồ, vốn được thiết kế dành cho kiểu thợ lặn biển sâu nhà giàu muốn biết giờ ở hai mươi mốt thủ đô trên thế giới khi anh ta đang ở dưới biển (*) .
Chiếc Bentley rồ ga lên dốc, vòng qua ngã rẽ chỉ bằng hai bánh, và lao xuống một con đường đầy lá rụng. Ánh đèn xanh bám theo.
Crowley thở dài, bỏ một tay ra khỏi vô lăng, rồi xoay nửa người lại, với tay qua vai làm một cử chỉ phức tạp.
Ánh đèn xanh mờ dần về đằng xa khi chiếc xe cảnh sát dừng bánh, khiến hai người trong xe hết sức kinh ngạc. Nhưng đó chẳng là gì so với nỗi kinh ngạc của họ khi mở nắp capô và phát hiện ra động cơ đã biến thành cái gì.
Trong nghĩa địa, Hastur, tên quỷ cao, chuyền một mẩu thuốc lá hút dở cho Ligur, tên thấp hơn và là kẻ rình rập giỏi hơn.
“Tao thấy có ánh đèn,” hắn nói. “Hắn đến rồi đây, thằng khoe mẽ khốn kiếp.”
“Hắn lái cái gì thế?” Ligur hỏi.
“Đó là ô tô. Một cái xe ngựa không có ngựa,” Hastur giải thích. “Tao nghĩ lần trước mày lên đây thì chúng chưa có cái đó. Hay ít ra là chưa được sử dụng rộng rãi.”
“Hồi trước chúng có một người ngồi đằng trước cầm cờ đỏ,” Ligur nói.
“Từ đó đến nay chúng cũng tiến bộ tí chút rồi, tao nghĩ vậy.”
“Còn tên Crowley này thì thế nào?” Ligur hỏi.
Hastur nhổ toẹt. “Hắn ở trên này quá lâu rồi,” hắn nói. “Ngay từ Khởi đầu. Thành thổ dân rồi, xin thưa với mày. Lái một cái xe có cả điện thoại ở trong.”
Ligur ngẫm nghĩ về việc này. Như phần lớn bọn quỷ, hiểu biết của hắn về kỹ thuật rất hạn hẹp, và hắn đang định nói gì đó kiểu như là, Tao cá là nó cần rất nhiều dây dợ, thì chiếc Bentley dừng lại trước cửa nghĩa địa.
“Và hắn còn đeo kính râm nữa,” Hastur khinh bỉ, “dù không cần đến.” Hắn cao giọng hơn. “Satan vạn tuế,” hắn nói.
“Satan vạn tuế,” Ligur nói theo.
“Chào,” Crowley nói, giơ tay khẽ vẫy chúng. “Xin lỗi tao đến muộn, nhưng bọn mày biết đường A40 ở Denham là thế nào rồi đấy, rồi tao định đi tắt qua rừng Chorley rồi...”
“Giờ chúng ta đã có mặt đầy đủ,” Hastur nói vẻ nghiêm túc, “thì chúng ta cần báo cáo lại Công tích trong Ngày.”
“Ờ. Công tích,” Crowley nói, với cái vẻ hơi tội lỗi của một người mấy năm rồi mới đi nhà thờ và đã quên mất đến đoạn nào thì phải đứng lên.
Hastur hắng giọng.
“Tao đã dụ dỗ một lão linh mục,” hắn nói. “Khi lão đi xuống phố và thấy bọn gái đẹp dưới nắng, tao đã luồn Hoài Nghi vào tâm trí lão. Lẽ ra lão đã có thể trở thành một vị thánh, nhưng chỉ mười năm nữa là chúng ta sẽ có được lão.”
“Được đấy,” Crowley sốt sắng nói.
“Tao đã làm đồi bại một chính khách,” Ligur nói. “Tao để lão nghĩ một chút hối lộ sẽ không hại gì. Chỉ trong vòng một năm chúng ta sẽ có lão.”
Cả hai tên đều nhìn Crowley vẻ chờ đợi, hắn liền toét miệng cười với chúng.
“Bọn mày sẽ thích vụ này cho mà xem,” hắn nói.
Nụ cười của hắn càng toe toét hơn và có vẻ âm mưu hơn.
“Tao đã chặn hết các hệ thống điện thoại di động ở Trung tâm London trong vòng bốn mươi lăm phút giữa giờ ăn trưa,” hắn nói.
Im lặng, chỉ có tiếng xe phóng vun vút vọng lại từ xa.
“Ừ?” Hastur nói. “Rồi sao?”
“Nghe này, vụ đó không dễ đâu,” Crowley nói.
“Chỉ có thế thôi à?” Ligur hỏi.
“Nghe này, con người...”
“Thế chính xác thì chuyện đó liên quan gì đến việc kiếm thêm linh hồn cho chủ nhân chúng ta?” Hastur hỏi.
Crowley trấn tĩnh.
Hắn có thể nói gì với chúng? Rằng hai mươi ngàn con người đã tức điên lên ư? Rằng ta có thể nghe thấy các tuyến phố huyết mạch inh ỏi tắc cứng lại trên khắp thành phố ư? Rằng những người đó sẽ trút giận lên thư ký hoặc cảnh sát giao thông hoặc gì gì đó, và rồi những người này sẽ lại trút giận lên người khác? Theo đủ mọi kiểu thù hằn ti tiện mà, đây mới là phần hay nhất này, họ tự nghĩ ra. Suốt thời gian còn lại trong ngày. Hiệu ứng dây chuyền là không thể tính xuể. Hàng ngàn linh hồn đã bị phủ một lớp mỏng cáu bẩn, và ta gần như không phải động lấy một ngón tay.
Nhưng ta không thể nói như vậy với những con quỷ như Hastur và Ligur. Rặt một loạt đầu óc thế kỷ mười bốn. Chúng mất hàng năm chỉ tập trung vào một linh hồn duy nhất. Tất nhiên, như vậy mới là nghệ thuật, nhưng ngày nay chúng ta phải nghĩ khác. Không làm lớn, mà làm rộng. Với năm tỉ người trên thế giới, ta không thể vặt từng kẻ một được; ta phải mở rộng tầm ảnh hưởng. Nhưng những tên quỷ như Hastur và Ligur sẽ không hiểu. Ví dụ, chúng sẽ không bao giờ nghĩ ra được kênh truyền hình tiếng Wales. Hay thuê giá trị gia tăng. Hay Manchester.
Hắn đã rất ưng ý với Manchester.
“Các Nhà Cầm Quyền có vẻ hài lòng đấy chứ,” hắn nói. “Thời thế đang thay đổi rồi. Thế có gì mới không?”
Hastur với tay ra sau một bia mộ.
“Có cái này,” hắn nói.
Crowley trố mắt nhìn cái giỏ.
“Ồ,” hắn nói. “Không.”
“Có,” Hastur nhăn nhở nói.
“Đã đến lúc rồi à?”
“Ừ.”
“Và, ờ, tao sẽ phải...”
“Đúng.” Hastur đang hết sức thích thú với việc này.
“Sao lại là tao?” Crowley tuyệt vọng hỏi. “Mày biết tao đấy, Hastur, đây không phải là, mày biết đấy, mặt mạnh của tao...”
“Ồ, có chứ, có chứ,” Hastur nói. “Đây đúng là mặt mạnh của mày còn gì. Vai chính của mày luôn. Nhận lấy đi. Thời thế đang thay đổi rồi.”
“Ừ,” Ligur nhăn nhở cười nói. “Trước hết là nó đang đi đến kết thúc.”
“Nhưng tại sao lại là tao?”
“Rõ ràng là mày rất được ưu ái,” Hastur độc địa nói. “Tao đoán Ligur đây sẽ sẵn sàng đổi cánh tay phải để được làm việc này đấy.”
“Đúng thế,” Ligur nói. Ít ra là cánh tay phải của ai đó, hắn thầm nghĩ. Quanh đây tay phải đầy ra; ngu gì tự bỏ một cánh tay phải lành lặn.
Hastur rút một cái bảng kẹp giấy ra từ giữa các nếp áo mưa cáu bẩn của hắn.
“Ký. Đây,” hắn nói, để một khoảng ngắt khủng khiếp giữa hai từ.
Crowley loay hoay lục lọi một túi trong và rút ra một cái bút. Cái bút thanh mảnh và bóng mờ. Nhìn nó như có thể chạy vượt tốc độ.
“Bút đẹp nhỉ,” Ligur nói.
“Nó có thể viết được dưới nước đấy,” Crowley lầm bầm.
“Chúng còn có thể nghĩ ra cái gì tiếp theo nữa đây?” Ligur trầm ngâm.
“Dù là cái gì thì chúng cũng nên nghĩ nhanh nhanh đi,” Hastur nói. “Không. Không ký tên A. J. Crowley. Tên thật của mày cơ.”
Crowley rầu rĩ gật đầu, rồi viết một chữ ký rắc rối, ngoằn ngoèo trên tờ giấy. Chữ ký rực đỏ trên tờ giấy trong thoáng chốc, rồi mờ đi.
“Thế tao phải làm gì với nó?” hắn hỏi.
“Mày sẽ nhận được chỉ dẫn.” Hastur cau mày. “Sao lo lắng thế, Crowley? Khoảnh khắc chúng ta đã mất bao nhiêu thế kỷ phấn đấu, cuối cùng cũng đã tới!”
“Ừ. Đúng thế,” Crowley nói. Giờ nhìn hắn không còn giống dáng người uyển chuyển đã uyển chuyển nhảy ra khỏi chiếc Bentley mấy phút trước nữa. Hắn trông như đang bị săn đuổi.
“Thời khắc khải hoàn vĩnh hằng của chúng ta sắp đến!”
“Vĩnh hằng. Ờ,” Crowley nói.
“Và mày sẽ là một công cụ góp phần tạo nên định mệnh vẻ vang đó!”
“Công cụ. Ờ,” Crowley lẩm bẩm. Hắn xách cái giỏ lên như thể nó sắp nổ tung. Mà nói theo một cách nào đó thì nó sẽ sớm như thế thật.
“Ờ. Được rồi,” hắn nói. “Vậy, ờ, tao đi đây. Thế nhé? Làm cho xong đi. Không phải là tao muốn làm cho xong đâu,” hắn vội vã thêm vào, biết rõ chuyện gì có thể xảy ra nếu Hastur đem nộp một bản báo cáo bất lợi. “Nhưng bọn mày biết tao rồi đấy. Rất sốt sắng.”
Hai tên quỷ cấp cao không nói gì.
“Thế nên tao sẽ đi ngay đây,” Crowley lảm nhảm. “Hẹn gặp bọn mày ở... gặp lại bọn mày sau. Ờ. Tốt. Tuyệt. Ciao.”
Khi chiếc Bentley lao vào bóng tối, Ligur hỏi, “Từ đó nghĩa là gì?”
“Tiếng Ý đây,” Hastur nói. “Tao nghĩ nó có nghĩa là ‘thức ăn’.”
“Nói thế thì lạ thật,” Ligur nhìn đèn hậu đang xa dần. “Mày tin hắn không?” hắn hỏi.
“Không,” Hastur đáp.
“Phải rồi,” Ligur nói. Hắn thầm nghĩ, sẽ là một thế giới kỳ cục nếu bọn quỷ lại tin tưởng lẫn nhau.
Đâu đó phía tây Amersham, Crowley lao qua màn đêm, hú họa chộp lấy một băng cát xét và cố lôi nó ra khỏi cái vỏ nhựa giòn mỏng trong khi vẫn giữ làn đường. Một ánh đèn pha lóe lên giúp hắn biết đấy là bản Bốn mùa của Vivaldi. Nhạc êm dịu, đó chính là cái hắn cần.
Hắn nhét cái băng vào chiếc đài Blaupunkt.
“Chết tiệt chết tiệt chết tiệt chết tiệt . Tại sao lại là bây giờ? Tại sao lại là mình?” hắn lẩm bẩm khi tiếng nhạc quen thuộc của nhóm Queen vang lên quanh hắn.
Và đột nhiên, Freddie Mercury nói với hắn.
VÌ NGƯƠI XỨNG ĐÁNG VỚI NHIỆM VỤ NÀY, CROWLEY.
Crowley lầm bầm kêu trời. Sử dụng các thiết bị điện tử để liên lạc chính là ý của hắn, và chỉ riêng lần này, Cõi Dưới đã chấp nhận nó, nhưng cũng như mọi khi, ngài đã hiểu sai bét hết cả. Hắn đã hy vọng có thể thuyết phục họ đăng ký vào mạng lưới di động, nhưng thay vào đó họ lại cứ thế can thiệp vào bất kỳ thứ gì hắn đang nghe lúc đó.
Crowley nuốt xuống đánh ực.
“Cảm ơn ngài rất nhiều, thưa chúa tể,” hắn nói.
CHÚNG TA RẤT TIN TƯỞNG VÀO NGƯƠI, CROWLEY.
“Xin cảm ơn, thưa chúa tể.”
VIỆC NÀY RẤT QUAN TRỌNG, CROWLEY.
“Tôi biết, tôi biết.”
ĐÂY LÀ TRẬN CHIẾN VĨ ĐẠI, CROWLEY.
“Xin cứ để tôi lo liệu, thưa chúa tể.”
ĐÂY LÀ ĐIỀU CHÚNG TA ĐANG LÀM, CROWLEY. VÀ NẾU CÓ GÌ SAI SÓT THÌ TẤT CẢ NHỮNG KẺ LIÊN QUAN SẼ BỊ TRỪNG PHẠT KHỦNG KHIẾP, KỂ CẢ NGƯƠI, CROWLEY. NHẤT LÀ NGƯƠI.
“ Đã hiểu, thưa chúa tể.”
ĐÂY LÀ HƯỚNG DẪN CỦA NGƯƠI, CROWLEY.
Và đột nhiên hắn biết. Hắn ghét chuyện đó. Họ có thể nói cho hắn biết là được, việc gì họ phải bất thình lình thả thông tin lạnh lẽo vào não hắn như thế. Hắn phải lái xe đến một bệnh viện nọ.
“Tôi sẽ có mặt ở đó trong vòng năm phút, thưa chúa tể, không vấn đề gì.”
TỐT. I see a little silhouetto of a man scaramouche scaramouche will you do the fandango (*) ...
Crowley đấm lên vô lăng. Mọi thứ đang rất êm đẹp, hắn đã kiểm soát được tất cả suốt mấy thế kỷ vừa qua. Mọi chuyện là thế đấy, ta cứ nghĩ mình đã làm chủ thế giới, thế rồi tự nhiên họ tống Tận thế cho ta. Cuộc chiến Vĩ đại, Trận chiến Cuối cùng. Thiên đường đấu với Địa ngục, ba hiệp, một bên phải bại, không quy phục. Và thế là xong. Không còn thế giới nữa. Tận thế có nghĩa là như thế. Không còn thế giới nữa. Chỉ toàn Thiên đường vô tận, hoặc, tùy ai thắng, Địa ngục vô tận. Crowley không biết cái nào khủng khiếp hơn.
Ờ, tất nhiên Địa ngục theo định nghĩa thì phải tệ hơn rồi. Nhưng Crowley vẫn còn nhớ Thiên đường là như thế nào, và nó có vài điểm tương đồng với Địa ngục. Trước hết, ở cả hai nơi ta đều chẳng kiếm nổi một thức uống ra hồn. Và sự nhàm chán ở Thiên đường cũng tệ không kém gì cơn kích động ở Địa ngục.
Nhưng chạy đằng trời. Ta không thể làm quỷ mà lại có ý chí tự do.
... I will not let you go (let him go)...
Thôi, ít nhất cũng chưa phải là ngay năm nay. Hắn vẫn có thời gian để lo liệu mọi việc. Trước hết là tống khứ các cổ phần dài hạn đi cái đã.
Hắn tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu hắn cứ dừng xe ở đây, trên con đường tối tăm, ẩm ướt và vắng hoe này, cầm cái giỏ lên xoay vài vòng rồi thả tay...
Sẽ xảy ra một chuyện khủng khiếp chứ gì nữa.
Hắn đã từng có thời là thiên thần. Hắn không chủ đích Sa Ngã. Chỉ là hắn đã chơi với nhầm người thôi.
Chiếc Bentley lao tiếp qua màn đêm, kim nhiên liệu chỉ về số không. Kim đã chỉ về số không từ sáu chục năm nay rồi. Làm quỷ cũng không đến nỗi. Ít ra cũng không phải đổ xăng. Lần duy nhất Crowley mua xăng là vào năm 1967, để được tặng miếng dán lỗ-đạn-trên-kính-chắn-gió kiểu James Bond, mà hồi đó hắn rất thích.
Trên ghế sau vật nằm trong giỏ bắt đầu khóc; tiếng khóc của trẻ sơ sinh nghe như còi báo có máy bay ném bom. The thé. Không lời. Và xưa ơi là xưa.
Đây là một bệnh viện khá dễ chịu, ông Young nghĩ. Nếu không có mấy bà xơ thì nó sẽ còn khá yên tĩnh nữa.
Ông khá mến các bà xơ. Không phải vì ông là dân cuồng đạo hay gì gì đâu. Không, khi nói đến chuyện tránh đi nhà thờ thì cái nhà thờ duy nhất ông lạnh lùng tránh như tránh hủi là nhà thờ Thánh Cecil và Các Thiên thần, nhà thờ Giáo hội Anh chính hiệu, chứ mọi nhà thờ khác thì ông nào có dám từ chối. Các nhà thờ khác đều có mùi không đúng - Dòng Thờ Nhỏ thì toàn mùi xi đánh sàn, Dòng Thờ Lớn thì lại toàn mùi hương trầm ám muội. Sâu thẳm trong chiếc ghế da là linh hồn mình, ông Young biết Chúa sẽ thấy ngượng vì những thứ như vậy.
Nhưng ông thích thấy các bà xơ quanh mình, cũng như ông thích thấy Đội quân Cứu Tế. Nó khiến ta có cảm giác mọi chuyện đều ổn, rằng đâu đó vẫn có người đang giữ cho thế giới cân bằng.
Nhưng đây là trải nghiệm đầu tiên của ông với dòng Thánh Beryl Huyên thuyên. (*)
Deirdre đã tình cờ gặp họ trong lúc đương thực hiện một đại nghĩa nào đó, hình như liên quan đến nhiều người Nam Mỹ khó ưa đang tẩn nhau với nhiều người Nam Mỹ khó ưa khác và đám linh mục lại bơm cho họ đánh hăng hơn thay vì quan tâm đến những việc linh mục, như là xếp lịch phân công dọn dẹp nhà thờ chẳng hạn.
Vấn đề là, các bà xơ phải yên lặng. Họ có hình dáng thích hợp cho sự yên lặng, như những vật nhọn nhọn trong các căn phòng mà ông Young mang máng nhớ là được dùng để thử loa hi-fi. Họ không nên, ờ, huyên thuyên luôn mồm như thế.
Ông nhồi thuốc lá vào tẩu - ờ, họ gọi nó là thuốc lá, nhưng nó lại không phải cái mà ông nghĩ là thuốc lá, không phải loại thuốc lá ta thường mua được ngày xưa - và băn khoăn tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu ta hỏi một bà xơ xem nhà vệ sinh nam ở đâu. Có lẽ Giáo hoàng sẽ gửi cho ta một lá thư quở trách hoặc là gì đó. Ông lúng túng vặn vẹo người và liếc nhìn đồng hồ đeo tay.
Nhưng dù sao cũng được một điều: ít ra các bà xơ đã khăng khăng không cho ông có mặt trong buồng sinh. Deirdre thì lại muốn ông có mặt. Bà ấy đã lại đọc phải cái gì đó. Đã có một đứa rồi mà tự dưng bà ấy lại tuyên bố lần sinh nở này sẽ là trải nghiệm hạnh phúc và san sẻ nhất mà hai con người có thể có được. Đó là hậu quả của việc để bà ấy tự đặt báo đấy. Ông Young nghi ngờ bất kỳ tờ báo nào mà các trang bên trong có những cái tên như là “Lối sống” hoặc “Lựa chọn”.
Thực ra ông cũng không phản đối các trải nghiệm hạnh phúc san sẻ. Ông hoàn toàn ủng hộ các trải nghiệm hạnh phúc san sẻ. Thế giới có lẽ cần nhiều trải nghiệm hạnh phúc san sẻ hơn. Nhưng ông đã nói rất rõ rằng đây là một trải nghiệm hạnh phúc san sẻ mà Deirdre cứ hưởng lấy một mình.
Và các bà xơ đã nhất trí. Họ thấy không có lý do gì ông bố phải dính dáng đến quá trình sinh nở cả. Ông Young tự nhủ, nghĩ lại thì có lẽ họ thấy không có lý do gì ông bố phải liên quan đến bất kỳ việc gì.
Ông nhồi xong cái gọi là thuốc lá vào tẩu và trợn mắt nhìn tấm biển nhỏ trên tường phòng chờ thông báo rằng, vì sự thoải mái của chính ông, ông sẽ không hút thuốc. Vì sự thoải mái của chính ông, ông quyết định sẽ ra ngoài hiên đứng. Nếu ở đó có một bụi cây kín đáo cho sự thoải mái của chính ông thì càng tốt.
Ông đi xuống các hành lang trống trơn và tìm thấy một cánh cửa dẫn ra một mảnh sân đẫm mưa, đầy các thùng rác công chính.
Ông rùng mình và chụm tay lại để châm tẩu.
Các bà vợ đến một tuổi nào đó đều bị thế cả. Hai mươi lăm năm trời không chê vào đâu được, thế rồi tự dưng họ chập mạch rồi bắt đầu tập những bài thể dục như người máy trong đôi tất hồng hở chân và trách cứ ta vì chưa bao giờ đi làm kiếm tiền. Chắc là tại hormone hay gì gì đó.
Một chiếc xe hơi lớn màu đen phanh kít lại bên mấy cái thùng rác. Một gã trai trẻ đeo kính râm nhảy ra dưới màn mưa bụi, cầm theo một cái nhìn như một cái nôi xách và uốn éo đi về phía cửa vào.
Ông Young bỏ tẩu thuốc ra khỏi miệng. “Anh quên tắt đèn kìa,” ông nói vẻ ân cần.
Tên kia nhìn ông bối rối với cái vẻ của người không bao giờ bận tâm đến chuyện đèn đóm, rồi lơ đễnh vẫy một tay về phía chiếc Bentley. Đèn xe tắt ngóm.
“Tiện nhỉ,” ông Young nói. “Hồng ngoại phải không?”
Ông hơi ngạc nhiên khi thấy tên kia có vẻ không bị ướt. Và dường như trong cái nôi xách đã có em bé.
“Đã bắt đầu chưa?” tên kia hỏi.
Ông Young thấy thoáng tự hào khi người ta tức thì nhận ra ông là một ông bố.
“Rồi,” ông nói. “Họ bắt tôi ra ngoài,” ông nói thêm vẻ cảm ơn.
“Đã bắt đầu rồi cơ à? Có biết bao lâu nữa thì chúng ta xong không?”
Chúng ta, ông Young để ý ngay. Rõ ràng đây là một tay bác sĩ với quan điểm cùng nuôi dạy con.
“Tôi nghĩ chúng ta đang, ờ, thực hiện đấy,” ông Young nói.
“Bà ta ở phòng số mấy?” tên kia vội vã hỏi.
“Chúng tôi ở Phòng Ba,” ông Young đáp. Ông vỗ vỗ túi và tìm thấy gói thuốc lá rúm ró mà ông đã đem đi, theo đúng truyền thống.
“Chúng ta có muốn cùng san sẻ một trải nghiệm thuốc lá hạnh phúc không?” ông hỏi.
Nhưng tên kia đã đi mất.
Ông Young cẩn thận cất gói thuốc lá vào túi và trầm ngâm nhìn cái tẩu. Lúc nào cũng vội vã, đám bác sĩ này ấy. Làm việc quần quật chẳng bao giờ ngừng.
Có một trò ảo thuật được thực hiện bằng một hạt đậu và ba cái cốc, rất khó theo dõi, và một chuyện tương tự thế, nhưng với khoản đặt cược lớn hơn nhiều so với một nắm tiền lẻ, sắp diễn ra.
Đoạn này sẽ được viết chậm lại để các bạn có thể theo dõi được trò ảo thuật.
Bà Deirdre Young đang chuyển dạ trong Phòng Hộ sinh Số Ba. Bà sẽ sinh ra một bé trai tóc vàng chúng ta gọi là Bé A.
Vợ của ngài Tùy viên Văn hóa Mỹ, bà Harriet Dowling, đang chuyển dạ trong Phòng Hộ sinh số Bốn. Bà sẽ sinh ra một bé trai tóc vàng chúng ta gọi là Bé B.
Xơ Mary Lắm Mồm đã là tín đồ Satan rất thành kính từ lúc lọt lòng. Khi nhỏ xơ đã đi học trường Sabbat và được thưởng sao đen vì viết chữ đẹp và chịu ăn món gan (*) . Khi được bảo phải gia nhập dòng tu Huyên thuyên, xơ đã ngoan ngoãn gia nhập, vì có tài thiên phú trong lĩnh vực đó, và dù sao xơ biết ở đó mình sẽ có bạn. Lẽ ra xơ đã có thể khá sáng dạ, Nếu xơ có cơ hội biết ra điều ấy, nhưng từ lâu xơ đã phát hiện ra rằng làm một đứa óc bã đậu, như xơ nói, sẽ giúp ta có cuộc sống dễ dàng hơn. Hiện tại xơ đang được giao cho một bé trai tóc vàng mà chúng ta sẽ gọi là Địch Thủ, Kẻ Hủy Diệt Vương Triều, Thiên Thần Hố Thẳm, Quái Vật Vĩ Đại tên gọi là Rồng, Ông Hoàng của Thế giới Này, Cha Đẻ của Dối Trá, Con của Satan, và Chúa Tể Bóng Tối.
Theo dõi cho kỹ nhé. Họ sẽ đi lòng vòng...
“Ngài đấy ư?” Xơ Mary nói, trố mắt nhìn đứa bé. “Thế mà tôi nghĩ ngài sẽ có cặp mắt kỳ khôi cơ. Đỏ, hoặc xanh lá. Hoặc có những cái móng guốc nhỏ xíu xìu xiu. Hay một cái đuôi xinh xinh.” Vừa nói xơ vừa lật đứa bé lại. Cũng không có sừng. Con của quỷ sứ nhìn bình thường đến đáng sợ.
“Ừ, nó đấy,” Crowley nói.
“Thử tưởng tượng xem, tôi lại được bế Kẻ Chống Chúa,” xơ Mary nói. “Và tắm cho Kẻ Chống Chúa. Và đếm từng ngón chân xíu xìu xiu...”
Giờ xơ đang nói trực tiếp với đứa bé, chìm đắm trong một thế giới của riêng mình. Crowley huơ tay trước khăn trùm của xơ. “Xin chào? Xin chào? Xơ Mary?”
“Xin lỗi ông. Chỉ là ngài dễ thương quá. Ngài có giống bố ngài không? Tôi cá là có. Ngài có giống bố ba bố bị không nhỉ...”
“Không,” Crowley quả quyết nói. “Giờ thì nếu tôi là xơ, tôi sẽ nhanh chân lên phòng hộ sinh ngay.”
“Khi lớn lên liệu ngài có còn nhớ tôi không nhỉ?” Xơ Mary bâng khuâng nói, chầm chậm đi xuôi hành lang.
“Hãy cầu mong là ngài không nhớ,” Crowley nói, và ba chân bốn cẳng chạy đi.
Xơ Mary đi qua bệnh viện buổi đêm, ẵm gọn Địch Thủ, Kẻ Hủy Diệt Vương Triều, Thiên Thần Hố Thẳm, Quái Vật Vĩ Đại tên gọi là Rồng, Ông Hoàng của Thế giới Này, Cha Đẻ của Dối Trá, Con của Satan, và chúa Tể Bóng Tối trên tay. Xơ tìm thấy một cái xe nôi và đặt nó vào đó.
Nó ậm ọe. Xơ cù nó một cái.
Một cái đầu nghiêm trang xuất hiện sau một khuôn cửa. Cái đầu nói, “Xơ Mary, xơ làm gì ở đây? chẳng phải xơ đang làm nhiệm vụ ở Phòng Bốn sao?”
“Ông Crowley nói...”
“Xơ đi nhanh lên, chóng ngoan nào. Xơ có thấy ông chồng đâu không? Ông ta không có trong phòng chờ.”
“Tôi mới chỉ gặp ông Crowley thôi, và ông ấy bảo tôi...”
“Tôi dám chắc là thế rồi,” xơ Grace Liến Thoắng nghiêm nghị nói. “Chắc tôi phải đi tìm người đàn ông khốn khổ ấy thôi. Xơ vào trông chừng bà ấy đi nhé? Bà ấy hơi mụ mị một tí, nhưng đứa bé thì ổn cả.” Xơ Grace ngừng lời. “Sao xơ lại nháy mắt? Mắt xơ làm sao à?”
“Xơ biết đấy!” Xơ Mary rít lên vẻ tinh quái. “Hai đứa bé sơ sinh. Vụ hoán đổi...”
“Tất nhiên rồi, tất nhiên rồi. Từ từ rồi đâu sẽ vào đó. Nhưng chúng ta không thể để ông bố đi vơ vẩn xung quanh được, đúng không?” Xơ Grace nói. “Ai biết được ông ta sẽ thấy gì. Nên xơ cứ đợi ở đây và để mắt đứa bé nhé, ngoan lắm.”
Xơ Grace lướt đi dọc hành lang bóng lộn. Xơ Mary, đẩy cái xe nôi, tiến vào phòng hộ sinh.
Bà Young không chỉ hơi mụ mị. Bà đang ngủ say tít, với cái vẻ tự đắc rành rành của người biết rằng những người khác sẽ phải chạy nhốn nháo trong dịp này. Bé A đang nằm ngủ bên cạnh bà, đã được cân và đeo thẻ tên. Xơ Mary, từ bé đã được dạy là phải luôn tỏ ra có ích, liền gỡ cái thẻ tên ra, chép nó lại, và đeo thẻ tên sao chép này vào đứa bé mà xơ đang trông.
Hai đứa bé na ná nhau, đều nhỏ, da lốm đốm đỏ, và nhìn hơi giống, tuy không hẳn thế, Winston Churchill.
Giờ, xơ Mary thầm nghĩ, mình cần một tách trà thật ngon.
Phần lớn các thành viên của tu viện đều là những người thờ Satan kiểu ngày xưa, như bố mẹ và ông bà họ trước kia. Họ đã được nuôi dạy trong môi trường đó, và xét cho cùng thì họ cũng không phải là người đặc biệt xấu xa. Hầu hết con người đều không phải là người xấu. Họ chỉ bị những ý tưởng mới lôi kéo, như là đi ủng cao đến gối và bắn mọi người, hay trùm khăn trắng và hành hình mọi người, hay mặc quần bò nhuộm loang và chơi ghita vào mặt mọi người. Hãy cho con người một tín ngưỡng mới với bộ đồ mới, và con tim lẫn bộ óc của họ sẽ theo liền. Dù sao thì được nuôi dạy thành tín đồ Satan cũng khiến mọi chuyện bớt ghê gớm đi. Đó chỉ là những việc ta vẫn làm mỗi tối thứ Bảy. Và thời gian còn lại thì ta cố xoay xở hết mức có thể với cuộc sống, như tất cả những người khác thôi. Hơn nữa, xơ Mary là y tá, và y tá, dù tín ngưỡng của họ là gì đi chăng nữa, thì trước hết vẫn cứ là y tá, tức là liên quan đến những chuyện như là đeo đồng hồ mặt trong cổ tay, bình tĩnh trong trường hợp khẩn cấp, và thèm uống trà. Xơ hy vọng sẽ sớm có người tới đây; xơ đã hoàn thành phần quan trọng rồi, giờ xơ chỉ muốn uống trà.
Ta sẽ hiểu nhân loại hơn khi nhận rõ rằng phần lớn các thắng lợi và các bi kịch vĩ đại của lịch sử đều được thực hiện không phải bởi những con người cốt lõi là thiện hay cốt lõi là ác, mà bởi những con người cốt lõi là con người.
Có tiếng gõ cửa. Xơ ra mở cửa.
“Đã xong chưa?” ông Young hỏi. “Tôi là bố. Ông chồng. Sao cũng được. Cả hai.”
Xơ Mary tưởng ngài Tùy viên Văn hóa Mỹ phải nhìn giống Blake Carrington hoặc J. R. Ewing (*) . Ông Young nhìn chẳng giống bất kỳ người Mỹ nào xơ đã thấy trên tivi, có lẽ ngoại trừ ông cảnh sát trưởng có vẻ cha chú trong loại phim trinh thám cao cấp hơn (*) . Ông khiến xơ hơi thất vọng. Xơ cũng thấy cái áo khoác len của ông thật quá tầm thường.
Xơ nén nỗi thất vọng. “Ôôôi, phải rồi,” xơ nói. “Xin chúc mừng. Phu nhân vợ ngài đang ngủ, tội nghiệp.”
Ông Young ngó qua vai xơ. “Sinh đôi à?” ông hỏi. Ông lần tìm cái tẩu. Ông ngừng lần tìm cái tẩu. Ông lại lần tìm nó. “Sinh đôi à? Không ai nói gì về chuyện sinh đôi cả.”
“Ồ không!” Xơ Mary vội nói. “Đây mới là con ngài. Cháu kia là... ờ... con người khác. Tôi chỉ đang trông cháu cho đến khi xơ Grace quay lại thôi. Không,” xơ nhắc lại, chỉ vào Địch Thủ, Kẻ Hủy Diệt Vương Triều, Thiên Thần Hố Thẳm, Quái Vật Vĩ Đại tên gọi là Rồng, Ông Hoàng của Thế giới Này, Cha Đẻ của Dối Trá, Con của Satan, và Chúa Tể Bóng Tối, “đây chắc chắn là con ngài. Từ đỉnh đầu cho đến chót móng guốc xỉnh xình xinh... mà cháu không có,” xơ vội nói thêm.
Ông Young nhìn xuống.
“À, phải,” ông nói vẻ nghi ngờ. “Nhìn nó giống đằng nội. Nó, ờ, không có vấn đề gì đâu, đúng không?”
“Ồ, vâng,” xơ Mary nói. “Cháu là một đứa trẻ rất bình thường,” xơ nói thêm. “Rất, rất bình thường.”
Im lặng một thoáng. Họ cùng nhìn đứa bé đang ngủ.
“Giọng ngài không lơ lớ mấy,” xơ Mary nói. “Ngài đã đến đây lâu chưa?”
“Khoảng mười năm,” ông Young hơi bối rối đáp. “Do chuyển công tác, xơ biết đấy, nên tôi cũng phải chuyển nhà.”
“Tôi luôn nghĩ đó hẳn là một công việc rất thú vị,” xơ Mary nói. Ông Young có vẻ rất hài lòng. Chẳng mấy người biết đánh giá đúng những khía cạnh thú vị của nghề kế toán chi phí.
“Tôi đoán chỗ ngài ở trước kia rất khác,” xơ Mary nói.
“Vâng, chắc vậy,” ông Young nói, ông chẳng bao giờ nghĩ về chuyện đó. Theo như ông nhớ thì Luton cũng giống hệt Tadfield. Cũng kiểu hàng giậu giữa nhà và ga tàu như vậy. Cũng kiểu dân cư như vậy.
“Ít nhất nhà cao hơn này,” xơ Mary đánh liều nói.
Ông Young trố mắt nhìn xơ. Tòa nhà cao tầng duy nhất ông có thể nghĩ tới là văn phòng ngân hàng Alliance & Leicester.
“Và tôi đoán là ngài rất hay dự các bữa tiệc gia viên,” bà xơ nói.
À. Vụ này thì ông biết. Deirdre rất thích những chuyện như vậy.
“Nhiều lắm,” ông nói vẻ sôi nổi. “Deirdre làm mứt cho các bữa tiệc đó, xơ biết đấy. Và tôi còn phải giúp vụ đổi quà Voi Trắng nữa.”
Đây là một khía cạnh giao tế tại cung điện Buckingham mà xơ Mary chưa bao giờ biết tới, nhưng con voi nghe có vẻ rất hợp lý.
“Tôi đoán chúng là đồ cống nạp,” xơ nói. “Tôi đã đọc được là các nguyên thủ nước ngoài thường tặng nữ hoàng đủ thứ.”
“Xơ nói sao kia?”
“Tôi rất hâm mộ hoàng gia, ông biết đấy.”
“À, vâng, tôi cũng vậy,” ông Young nói, nhẹ nhõm nhảy lên tảng băng mới đang trôi nổi giữa dòng ý thức lộn xộn này. Phải, ta biết ta phải nói gì khi nói đến hoàng gia. Tất nhiên là hoàng gia xịn, chịu khó đi vẫy tay và khánh thành cầu đường. Chứ không phải những người chỉ biết đi nhảy disco cả đêm rồi nôn lên paparazzi. (*)
“Tuyệt quá,” xơ Mary nói. “Tôi cứ tưởng người như các ngài không ưa họ lắm chứ, cứ coi mấy vụ cách mạng rồi ném đồ trà xuống sông (*) ấy.”
Xơ huyên thuyên nói tiếp, được khuyến khích bởi điều luật của dòng tu là các nữ tu nên luôn luôn nói bất kỳ điều gì xuất hiện trong óc. Ông Young chẳng hiểu mô tê gì, và giờ đã quá mệt để bận tâm đến chuyện đó. Đời sống tôn giáo có lẽ đã khiến họ trở nên hơi kỳ cục. Ông ước gì bà Young thức dậy. Rồi một trong những từ trong lời lải nhải của xơ Mary làm nảy ra một hy vọng trong ông.
“Liệu tôi có thể xin một tách trà không?” ông đánh bạo hỏi.
“Ôi trời,” xơ Mary nói, đưa tay lên miệng, “tôi đang nghĩ gì thế nhỉ?”
Ông Young không đáp lại.
“Tôi sẽ đi lo chuyện đó ngay,” xơ nói. “Nhưng ngài có chắc là ngài không muốn uống cà phê đấy chứ? Ở tầng trên có máy bán tự động đấy.”
“Xin xơ tách trà thôi,” ông Young nói.
“Chà, đúng là ngài đã thành người bản xứ rồi đấy nhỉ,” xơ Mary vui vẻ nói trong lúc vội vã đi ra.
Ông Young, chỉ còn lại một mình với bà vợ đang ngủ và hai đứa bé cũng đang ngủ, ngồi phịch xuống một cái ghế. Phải, chắc là tại mấy vụ dậy sớm rồi quỳ xuống, đại loại thế. Tất nhiên, họ đều là người tử tế cả, nhưng đầu óc không tỉnh táo lắm. Có lần ông đã xem một bộ phim của Ken Russell (*) . Trong đó có các nữ tu. Ở đây có vẻ không có những chuyện như vậy, nhưng không có lửa thì làm sao có khói, vân vân...
Ông thở dài.
Đúng lúc đó Bé A thức giấc và bắt đầu gào thật to.
Đã nhiều năm rồi ông Young chưa phải dỗ một đứa bé đang khóc. Mà ông vốn cũng chẳng giỏi giang gì việc đó. Ông luôn rất kính trọng ngài Winston Churchill, và ông thấy việc vỗ mông các phiên bản nhỏ hơn của ngài thật là thất lễ.
“Chào mừng đến với thế giới,” ông mệt mỏi nói. “Rồi nhóc sẽ quen với nó thôi.”
Đứa bé ngậm miệng và trừng mắt nhìn ông như thể ông là một vị tướng ngoan cố.
Đúng lúc đó xơ Mary đem trà vào. Dù có thờ phụng Satan hay không, xơ cũng tìm được một cái đĩa và bày lên đó ít bánh quy phủ đường. Đó là loại bánh quy ta chỉ tìm được ở dưới đáy một số hộp bánh quy dùng kèm trà. Cái bánh của ông Young có màu hồng chóe như dụng cụ phẫu thuật, và trên đó có vẽ một người tuyết bằng đường.
“Tôi đoán là ngài không thường ăn loại này,” xơ nói. “Các ngài gọi nó là cookie. Còn chúng tôi gọi là bích quy.”
Ông Young vừa mở miệng ra để giải thích là vâng, ông cũng gọi chúng vậy, và thậm chí cả ở Luton cũng thế nữa, thì một bà xơ khác lao vào phòng, thở không ra hơi.
Xơ nhìn xơ Mary, nhận ra ông Young chưa bao giờ nhìn thấy bên trong một hình sao năm cánh (*) , và đành chỉ vào Bé A rồi nháy mắt.
Xơ Mary gật đầu và nháy mắt lại.
Bà xơ kia đẩy đứa bé ra.
Xét những cách giao tiếp giữa con người với nhau thì một cái nháy mắt khá là đa năng. Ta có thể nói rất nhiều điều với một cái nháy mắt. Ví dụ, cái nháy mắt của bà xơ kia nghĩa là:
Xơ đã ở chỗ quỷ nào thế hả? Bé B đã ra đời, chúng ta đã sẵn sàng tráo đổi, thế mà xơ lại ngồi ở phòng này, với Địch Thủ, Kẻ Hủy Diệt Vương Triều, Thiên Thần Hố Thẳm, Quái Vật Vĩ Đại tên gọi là Rồng, Ông Hoàng của Thế giới Này, Cha Đẻ của Dối Trá, Con của Satan, và Chúa Tể Bóng Tối, mà uống trà. Xơ có biết tôi đã suýt bị bắn không?
Và, theo như xơ biết, thì cái nháy mắt đáp lại của xơ Mary nghĩa là: Đây là Địch Thủ, Kẻ Hủy Diệt Vương Triều, Thiên Thần Hố Thẳm, Quái rật Vĩ Đại tên gọi là Rồng, Ông Hoàng của Thế Giới Này, Cha Đẻ của Dối Trá, Con của Satan, và Chúa Tể Bóng Tối, và giờ tôi không nói được vì đang có mặt người ngoài.
Trong khi đó, xơ Mary lại nghĩ cái nháy mắt của xơ hộ lý có nghĩa là:
Giỏi lắm, xơ Mary đã tự mình đổi hai đứa bé. Giờ hãy chỉ cho tôi biết đứa bé thừa và tôi sẽ đưa nó đi, để xơ tiếp trà với ngài Tướng công Văn hóa Mỹ.
Và vì vậy cái nháy mắt của xơ có nghĩa là:
Đây, xơ thân mến; đó là Bé B, giờ hãy đưa nó đi và để tôi nói chuyện với Tướng công đây. Tôi luôn muốn hỏi ngài ấy tại sao họ lại có những tòa nhà cao tầng bên ngoài lắp gương.
Ông Young hoàn toàn không biết gì về những sự tinh tế này, mà chỉ thấy cực kỳ ngượng ngùng vì những cử chỉ âu yếm bí mật kia và đang nghĩ: Cái ông Russell (*) kia, đúng là ông ta biết rõ mình đang nói gì, không lẫn vào đâu được.
Bà xơ kia lẽ ra đã có thể nhận ra nhầm lẫn của xơ Mary, nhưng chính xơ vừa bị rối trí bởi các mật vụ trong phòng của bà Dowling, họ cứ nhìn xơ chằm chằm, mỗi lúc một bực dọc hơn. Đó là bởi họ đã được huấn luyện để phản ứng theo một cách nhất định với những người mặc áo choàng dài và trùm khăn dài phất phới, và giờ họ đang phải vật lộn với những dấu hiệu mâu thuẫn. Những người đang phải vật lộn với những dấu hiệu mâu thuẫn thì không nên cầm súng, nhất là khi họ vừa phải chứng kiến một ca sinh nở tự nhiên, chắc chắn là một cách không Mỹ tẹo nào để đón một công dân mới vào đời. Và họ đã nghe nói là trong tòa nhà có kinh sách (*) .
Bà Young cựa mình.
“Các vị đã chọn tên cho cháu chưa?” Xơ Mary tinh quái hỏi.
“Hử?” ông Young nói. “Ồ. Chưa, chưa hẳn. Nếu là con gái thì chúng tôi sẽ đặt là Lucinda theo tên mẹ tôi. Hoặc là Germaine. Đó là tên Deirdre chọn.”
“Wormwood là một cái tên hay,” bà xơ nói, nhớ lại những tác phẩm kinh điển đã đọc. “Hoặc Damien. Tên Damien rất phổ biến.” (*)
Anathema (*) Device - mẹ con bé, vốn không rành các vấn đề tôn giáo, tình cờ đọc được từ đó vào một ngày nọ và nghĩ nó là một cái tên đáng yêu cho con gái - được tám tuổi rưỡi, và nó đang đọc Cuốn Sách, dưới chăn phủ giường, bằng một cái đèn pin.
Những đứa trẻ khác học đọc bằng sách vỡ lòng cơ bản với tranh màu hình quả táo, quả bóng, con gián, đại loại thế. Gia đình Device thì không. Anathema đã học đọc từ Cuốn Sách.
Trong đó không có táo hay bóng gì cả. Nó có một bức tranh khắc gỗ khá đẹp hình Agnes Nutter bị thiêu sống và nom khá vui vẻ về chuyện đó.
Từ đầu tiên con bé nhận ra là tuyệt đích. Rất ít người ở tuổi tám rưỡi biết rằng tuyệt đích còn có nghĩa là “cực kỳ chính xác”, nhưng Anathema là một trong số đó.
Từ thứ hai là chuẩn xác.
Câu đầu tiên con bé có thể đọc thành lời là:
“Ta nói với con điều này, và con phải gánh vác những lời của ta. Bốn kẻ sẽ lên đường, và Bốn kẻ nữa cũng sẽ lên đường, và Ba kẻ khác sẽ bay trên lưng chừng trời, và Một sẽ cưỡi trên lửa; và sẽ không gì có thể ngăn được họ: cá cũng không, mưa gió cũng không, đường sá cũng không, cả Thiên thần lẫn quỷ sứ cũng không. Và con cũng sẽ có mặt ở đó, Anathema.”
Anathema thích đọc về bản thân.
(Có những cuốn sách mà các bậc phụ huynh tận tâm, những người biết phải đọc tờ báo chủ nhật nào, có thể mua, với tên con cái của họ được in vào thành tên nhân vật chính. Làm như thế đứa trẻ sẽ thích thú hơn với cuốn sách. Trong trường hợp của Anathema, không chỉ có tên con bé ở trong Cuốn Sách - và cho đến giờ thì cuốn sách vẫn chuẩn không cần chỉnh - mà còn có cả bố mẹ nó, ông bà nó, và tất cả mọi người, lùi về đến tận thế kỷ mười bảy. Lúc này con bé còn quá nhỏ và vẫn chỉ biết đến mình nên nó không thể nhận ra rằng Cuốn Sách không hề nhắc đến con cái của nó hay thật ra là bất kỳ sự kiện nào trong tương lai xa hơn mười một năm tới. Khi ta tám tuổi rưỡi, mười một năm là cả một đời người, và tất nhiên, nếu ta tin vào Cuốn Sách, thì đó đúng là một đời người thật.)
Con bé là một đứa sáng dạ, với khuôn mặt xanh xao, tóc đen, mắt đen. Nó thường khiến mọi người cảm thấy hơi khó chịu, một đặc điểm di truyền nó đã thừa hưởng được, cùng với khả năng ngoại cảm quá hóa hại, từ bà cố-cố-cố-cố-cố ngoại của mình.
Con bé già trước tuổi và rất tự chủ. Điều duy nhất mà các giáo viên của Anathema dám đem ra để trách mắng nó là cách đánh vần của nó, không phải vì con bé đánh vần sai, mà vì đấy là cách đánh vần của ba trăm năm trước.
Các bà xơ đem Bé A đổi với Bé B ngay trước mũi vợ ngài tùy viên và đám mật vụ, bằng mưu chước khéo léo là đẩy một đứa bé đi (“để cân, cưng ạ, phải làm thế, đó là luật mà”) và lát sau đẩy một đứa bé khác về.
Bản thân ngài Tùy viên Văn hóa, Thaddeus J. Dowling, đã bị gọi gấp về Washington mấy ngày trước, nhưng ông đã nói chuyện qua điện thoại với bà Dowling suốt quá trình vượt cạn, giúp bà hít thở.
Khổ nỗi ông ta lại đang nói chuyện với cố vấn đầu tư của mình ở đường dây bên kia. Có lúc ông ta đã phải để bà vợ chờ máy suốt hai mươi phút.
Nhưng không sao.
Có con là trải nghiệm chung hạnh phúc nhất mà hai con người có thể cùng chia sẻ, và ông ta sẽ không bỏ lỡ một giây nào.
Ông ta đã bảo một mật vụ quay phim lại cho mình.
Cái ác nhìn chung không bao giờ ngủ, và vì vậy nó không hiểu sao người khác lại phải ngủ. Nhưng Crowley thì thích ngủ, đó là một trong những khoái lạc của thế gian này. Nhất là sau một bữa ăn no nê. Đơn cử là hắn đã ngủ gần hết thế kỷ mười chín. Không phải vì hắn cần, mà chỉ đơn giản vì hắn thích. (*)
Một trong những khoái lạc của thế gian này. Hừ, hắn nên thật sự tận hưởng khoái lạc ngay đi, khi vẫn còn thời gian.
Chiếc Bentley gầm rú lao qua màn đêm, hướng về phía đông.
Tất nhiên, hắn hoàn toàn ủng hộ Ngày Tận thế khi xét đại thể. Nếu ai đó hỏi hắn tại sao hắn lại dành hàng thế kỷ phá thối công việc của nhân loại thì hắn sẽ nói, “À, để tạo ra Ngày Tận thế và giúp Địa ngục chiến thắng.” Nhưng xoay xở để đưa đến nó là một chuyện, còn nó thực sự xảy ra lại là chuyện khác.
Crowley đã luôn biết hắn sẽ có mặt khi thế giới đi đến hồi kết, vì hắn bất tử và không có lựa chọn nào khác. Nhưng hắn đã mong là sẽ còn lâu mới đến lúc đó.
Vì hắn khá mến con người. Đó là một khuyết điểm lớn của một tên quỷ.
À ừ, hắn có hết sức cố gắng để khiến cuộc sống ngắn ngủi của họ trở nên khốn khổ, vì đó là việc của hắn, nhưng tất cả những mưu chước hắn nghĩ ra đều không tệ bằng một nửa những thứ nhân loại tự nghĩ ra. Dường như họ có năng khiếu trong việc đó. Nó được cài sẵn vào thiết kế của họ hay sao ấy. Họ sinh ra trong một thế giới thù địch với họ theo cả ngàn cách, và rồi họ dành phần lớn năng lượng của mình khiến cho nó càng tệ hơn. Theo năm tháng, Crowley càng ngày càng thấy khó có thể làm được điều gì thật sự độc địa, mà nó nổi bật hơn hẳn so với mặt bằng xấu xa chung. Đã có lúc, trong thiên niên kỷ vừa rồi, hắn chỉ muốn nhắn tin xuống Bên Dưới và bảo, Này, có lẽ chúng ta nên bỏ cuộc thôi, nên đóng cửa Dis và Pandemonium (*) cùng các chỗ khác rồi chuyển lên đây đi, chẳng có chuyện gì chúng ta có thể làm với họ mà họ lại chưa tự làm với mình, và họ còn làm những điều chúng ta không nghĩ ra nổi, chủ yếu liên quan đến điện cực. Họ có cái mà chúng ta thiếu. Họ có trí tưởng tượng. Và tất nhiên là cả điện nữa.
Một trong số họ đã viết thế này, phải không nhỉ... “Địa ngục trống rỗng, và tất cả quỷ sứ đều đã ở đây.” (*)
Crowley đã được tuyên dương vụ Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha. Lúc đó hắn có ở Tây Ban Nha thật, chủ yếu là quẩn quanh các quán rượu ở mấy khu ngon lành hơn, và thậm chí còn không biết về Tòa án cho tới khi được tuyên dương. Hắn đã ghé qua đó xem sao, rồi phải quay về và uống say suốt cả một tuần.
Gã Hieronymus Bosch (*) đó. Đúng là đồ lập dị.
Và đúng lúc ta nghĩ họ xấu xa hơn cả Địa ngục, thỉnh thoảng họ lại tỏ ra tốt đẹp ngoài mong đợi của Thiên đường. Thường là cùng một người. Tất nhiên, đó là vì cái thứ ý chí tự do này. Đúng là thứ chết giẫm.
Có lần Aziraphale đã cố giải thích cho hắn. Y bảo, mấu chốt là - đó là vào khoảng năm 1020, khi cả hai lần đầu đạt được Thỏa thuận nho nhỏ của mình - mấu chốt là khi một con người xấu xa hoặc tốt đẹp, thì đó là vì họ muốn vậy. Trong khi những kẻ như Crowley hay, tất nhiên, chính y đây, thì phải đi theo đường vạch sẵn từ đầu. Con người không thể trở nên thánh nhân thực sự, y nói, trừ phi họ có cơ hội trở nên xấu xa thực sự.
Crowley đã ngẫm nghĩ về chuyện này một thời gian, rồi đến khoảng năm 1023, hắn nói, “Khoan đã, như thế chỉ có tác dụng nếu mọi người đều bắt đầu bình đẳng, đúng không? Ta không thể ném một người vào một túp lều tranh ở giữa vùng chiến sự và mong họ sống tốt như một người sinh ra trong lâu đài được.”
À, Aziraphale liền đáp, đó mới là phần hay. Ta bắt đầu ở chỗ càng hèn kém thì ta càng có nhiều cơ hội.
Crowley liền nói, “Thật là điên rồ.”
Không, Aziraphale nói, đó là điều bất khả tư nghị.
Aziraphale. Kẻ thù, tất nhiên rồi. Nhưng đã là kẻ thù suốt sáu ngàn năm nay, nên cũng có thể coi y như một người bạn.
Crowley với tay xuống cầm điện thoại trong xe lên.
Tất nhiên, là quỷ có nghĩa là ta không có ý chí tự do. Nhưng ta không thể ở bên con người ngần ấy thời gian mà không học được đôi điều.
◇ ❖ ◇
Ông Young không thích cái tên Damien hay Wormwood cho lắm. Hay bất kỳ cái tên nào xơ Mary Lắm Mồm gợi ý, tức là phân nửa số tên ở Địa ngục và gần hết những cái tên vào Thời Hoàng kim ở Hollywood.
“Chà,” cuối cùng xơ nói, vẻ hơi phật ý, “tôi nghĩ cái tên Errol có gì không ổn đâu. Hoặc là Cary. (*) Cả hai đều là những cái tên Mỹ rất hay.”
“Tôi lại thích cái tên gì hơi, ờ, truyền thống hơn,” ông Young giải thích. “Gia đình chúng tôi luôn chọn những cái tên giản dị chân phương.”
Xơ Mary cười tươi. “Đúng thế. Những cái tên cổ luôn là hay nhất, Nếu ông hỏi tôi.”
“Một cái tên kiểu Anh đứng đắn, như tên trong Kinh Thánh ấy,” ông Young nói. “Matthew, Mark, Luke, hoặc John,” ông nói thử. Xơ Mary nhăn mặt. “Chỉ có điều tôi chưa bao giờ thấy đó là những cái tên Kinh Thánh đúng kiểu cả,” ông Young nói thêm. “Nghe giống tên cao bồi và cầu thủ bóng đá hơn.”
“Tên Saul cũng hay lắm,” xơ Mary nói, cố tận dụng cơ hội.
“Tôi không muốn cái tên gì quá cổ lỗ sĩ,” ông Young nói.
“Hoặc là Cain. Nghe rất hiện đại, Cain ấy,” xơ Mary gợi ý.
“Hừm.” Ông Young có vẻ nghi ngại.
“Hoặc là còn... ờ, vẫn còn cái tên Adam mà,” xơ Mary nói. Chắc tên đó không vấn đề gì đâu, xơ thầm nghĩ.
“Adam ấy à?” ông Young nói.
◇ ❖ ◇
Ta sẽ thấy dễ chịu khi tin rằng các nữ tu Satan đã cho đứa bé thừa - Bé B - được nhận nuôi một cách kín đáo. Rằng nó lớn lên thành một đứa bé bình thường, vui vẻ, hay cười, hiếu động và cởi mở, rồi sau đó lớn lên thành một người lớn bình thường, khá mãn nguyện.
Và có lẽ chuyện đã xảy ra như vậy thật.
Bạn hãy nghĩ đến phần thưởng thằng bé đạt được ở trường tiểu học về môn đánh vần; quãng thời gian không có gì đặc biệt nhưng khá dễ chịu của nó ở trường đại học; công việc của nó ở phòng tài vụ của Hiệp hội Xây dựng Tadfield và Norton; cô vợ dễ thương của nó. Có lẽ bạn sẽ muốn tưởng tượng ra vài đứa con, và một thú vui nào đó - có lẽ là phục chế xe máy cổ, hoặc nuôi cá cảnh nhiệt đới.
Bạn không muốn biết chuyện gì đã có thể xảy ra với Bé B đâu.
Mà chúng tôi cũng thích phiên bản của bạn hơn.
Có lẽ nó còn thắng giải nhờ bầy cá cảnh nữa.
Ở một căn nhà nhỏ tại Dorking, Surrey, một ô cửa sổ phòng ngủ đang sáng đèn.
Newton Pulsifer mười hai tuổi, gầy nhẳng, đeo kính, và lẽ ra thằng bé đã phải lên giường từ mấy tiếng trước rồi.
Nhưng mẹ nó lại tin rằng con mình là thiên tài và cho phép nó thức quá giờ ngủ để làm các “thí nghiệm”.
Thí nghiệm hiện tại của thằng bé là thay phích cắm củ