Thứ Tư
Đó là một ngày tháng Tám nóng nực, đầy khói bụi ở Trung tâm London.
Bữa tiệc sinh nhật lần thứ mười một của Warlock có rất nhiều khách khứa.
Có hai mươi cậu bé và mười bảy cô bé. Có rất nhiều đàn ông tóc vàng húi cua, mặc vét xanh sẫm, và đeo súng ngắn bên sườn giống hệt nhau. Có một đội phục vụ đem đến các loại thạch, bánh ngọt, và hàng bát khoai tây lát chiên. Đoàn xe tải của họ được dẫn đầu bởi một chiếc Bentley cổ.
Harvey & Wanda Siêu việt, Chuyên Tiệc Thiếu nhi, đều bất ngờ bị nhiễm khuẩn đường ruột, nhưng nhờ một may mắn trời ban, một người thay thế đã xuất hiện, gần như từ trên trời rơi xuống. Một nhà ảo thuật.
Ai cũng có thú chơi riêng. Bất chấp Crowley đã hết sức can ngăn, Aziraphale vẫn quyết tâm tận dụng thú chơi của mình.
Aziraphale đặc biệt tự hào về tài làm ảo thuật của mình. Hồi thập niên 1870, y đã theo học một lớp do John Maskelyne dạy, và đã bỏ ra gần một năm tập các trò ảo thuật khéo tay, giấu đồng xu vào lòng bàn tay, và rút thỏ từ trong mũ ra. Lúc đó y cảm thấy mình đã khá giỏi. Điểm cốt yếu là mặc dù Aziraphale có thể làm những điều khiến toàn bộ Hội Ảo thuật gia phải nộp đũa, y không bao giờ áp dụng cái gọi là quyền năng nội tại của mình vào mấy trò ảo thuật. Mà đó lại là một hạn chế lớn. Y bắt đầu ước giá mình vẫn tiếp tục tập luyện từ hồi ấy.
Dù sao thì, y thầm nghĩ, cũng giống như cưỡi xe ba bánh thôi. Quên thế nào được. Cái áo khoác ảo thuật gia của y đã hơi bụi bặm, nhưng khi mặc nó vào cảm giác vẫn ổn. Thậm chí cả những câu mồi chào nhà nghề cũ cũng dần trở lại với y.
Lũ trẻ nhìn y vẻ đờ đẫn, khinh khỉnh vì chẳng hiểu gì. Đằng sau bàn buffet, Crowley, trong chiếc áo bồi bàn trắng, co rúm lại vì xấu hổ thay cho y.
“Giờ thì, các công tử và các tiểu thư có thấy cái mũ cao thành cũ kỹ của tôi đây không? Thật là một cái mũ xấu mèm như ma lem, như các cô các cậu vẫn nói ấy! Và thấy không, bên trong chẳng có gì cả. Nhưng, cái quần của tôi ơi, vị khách không mời nào thế này? Kìa, đó là anh bạn lông lá của chúng ta, chú thỏ Harry!”
“Nó ở trong túi của ông mà,” Warlock nói. Lũ trẻ còn lại gật gù đồng tình. Ông ta nghĩ chúng mình là cái gì chứ? Trẻ con chắc?
Aziraphale nhớ lại Maskelyne đã dạy y cách đối phó với bọn phá bĩnh như thế nào. “Biến nó thành trò đùa, đồ đầu đất ạ... và tôi nói anh đấy, anh Fell” (đó là cái tên Aziraphale đã dùng vào thời đó). “Làm họ cười, và họ sẽ tha thứ cho anh bất kỳ điều gì!”
“Hô hô, vậy là các cô cậu đã khám phá ra trò ảo thuật với mũ của ta,” y cười. Lũ trẻ dửng dưng trố mắt nhìn y.
“Ông dở ẹc,” Warlock nói. “Tôi chỉ muốn xem hoạt hình thôi.”
“Cậu ấy nói đúng đấy,” một con bé tóc buộc đuôi ngựa nói. “Ông đúng là dở ẹc. Và có khi còn là một thằng ái nữa.”
Aziraphale tuyệt vọng nhìn Crowley. Theo như y thấy thì rõ ràng Warlock trẻ tuổi đã bị ám mùi địa ngục nặng, và chỉ mong Con Chó Đen xuất hiện cho họ chuồn khỏi đây càng sớm càng tốt.
“Giờ thì có cô cậu nào có một đồng ba xu không? Không à, thưa công tử? Thế tôi thấy cái gì sau tai cậu đây...?”
“Tớ được xem hoạt hình hôm sinh nhật tớ,” con bé tuyên bố. “Và tớ được một con robot biến hình với cả ponybénhỏ với cả decepticontấncông với cả xe tăng sấm với cả...”
Crowley rên lên. Các bữa tiệc của trẻ con rõ ràng là nơi mà bất kỳ thiên thần nào có lấy một chút trí khôn đều không dám bén mảng tới. Những giọng trẻ con léo nhéo to dần với vẻ khoái trá đầy nhạo báng khi Aziraphale đánh rơi ba vòng kim loại nối với nhau.
Crowley nhìn đi nơi khác, và mắt hắn chạm vào cái bàn chất đầy quà tặng. Từ một khối cao bằng nhựa, hai con mắt nhỏ sáng lóe nhìn lại hắn.
Crowley săm soi đôi mắt xem có thấy tí ánh lửa đỏ nào không. Khi làm việc với đám quan liêu Địa ngục thì ta không bao giờ biết chắc được. Rất có thể chúng đã gửi nhầm một con chuột nhảy thay vì một con chó.
Không, đó là một con chuột nhảy hoàn toàn bình thường. Dường như nó đang sống trong một công trình hết sức thú vị gồm toàn các loại ống, quả cầu, và cối xay guồng, hẳn là thứ Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha sẽ nghĩ ra nếu họ có máy đúc nhựa.
Hắn xem đồng hồ. Crowley chưa bao giờ nghĩ là phải thay pin cho cái đồng hồ, cục pin vốn đã gỉ nát từ ba năm trước, nhưng đồng hồ vẫn chạy chính xác. Còn hai phút nữa là đúng ba giờ.
Aziraphale đang mỗi lúc một lúng túng hơn.
“Liệu có quý vị nào đang có mặt tại đây mang theo một thứ như là khăn tay không nhỉ? Không à?” Vào thời Victoria thì chuyện người ta không có khăn tay trong túi là không thể tưởng tượng nổi, và trò này, bao gồm việc hóa phép ra một con chim bồ câu mà ngay lúc này đây đang cáu kỉnh mổ vào cổ tay Aziraphale, sẽ không thể thực hiện được nếu thiếu khăn tay. Vị thiên thần cố thu hút sự chú ý của Crowley mà không được, và, trong lúc tuyệt vọng, đành chỉ vào một tên vệ sĩ, tên này cựa quậy vẻ lo lắng.
“Anh, vị huynh đệ bảnh chọe của tôi. Lại đây. Nếu anh tìm trong túi áo ngực, tôi nghĩ anh sẽ thấy một chiếc khăn tay lụa rất đẹp đấy.”
“Khôngthưangài. Elàkhôngthưangài,” tay vệ sĩ nói, mắt nhìn thẳng về phía trước.
Aziraphale tuyệt vọng nháy mắt. “Không, anh bạn thân mến, cứ tìm đi, xin anh đấy.”
Tên vệ sĩ thò tay vào túi áo trong, tỏ vẻ ngạc nhiên, và rút ra một chiếc khăn tay bằng lụa màu xanh trứng sáo, viền ren. Gần như ngay lập tức Aziraphale nhận ra đường viền ren đó là một sai lầm, vì nó bị mắc vào khẩu súng trong bao của tay vệ sĩ, khiến khẩu súng bay tít qua phòng và rơi bẹt vào một bát thạch.
Lũ trẻ lác đác vỗ tay. “Này, không tồi đâu!” con bé tóc đuôi ngựa nói.
Warlock đã kịp chạy sang đầu bên kia phòng và chộp lấy khẩu súng.
“Giơ tay lên, bọn thối tha!” nó khoái trá hét.
Đám vệ sĩ đâm ra khó xử.
Một vài tên loay hoay tìm vũ khí của mình; một số khác liền nhích lại gần hoặc ra xa khỏi thằng bé. Mấy đứa trẻ con khác liền mè nheo là chúng cũng muốn có súng, và mấy đứa bạo dạn hơn bắt đầu tìm cách giật súng từ tay những tên vệ sĩ đã bất cẩn rút súng ra.
Rồi ai đó ném một miếng thạch vào Warlock.
Thằng bé ré lên và bóp cò súng. Đó là một khẩu Magnum.32, loại chuyên dụng của CIA, màu xám, cực mạnh, cực nặng, đủ sức thổi bay một người từ cách xa ba mươi bước, và không để lại gì ngoài một màn sương đỏ, một đống hỗn độn, và kha khá giấy tờ.
Aziraphale chớp mắt.
Một tia nước phụt ra từ nòng súng, bắn vào mặt Crowley, vốn đang nhìn ra cửa sổ xem ngoài vườn có con chó to đùng đen sì nào không.
Aziraphale có vẻ xấu hổ.
Rồi một cái bánh kem đập vào mặt y.
Đã là gần ba giờ năm phút.
Bằng một cái vẫy tay, Aziraphale biến chỗ súng còn lại cũng thành súng phun nước, rồi bước ra.
Crowley thấy y trên vỉa hè bên ngoài, cố lôi một con bồ câu đã mềm oặt ra khỏi ống tay áo khoác.
“Muộn rồi,” Aziraphale nói.
“Tôi thấy rồi,” Crowley đáp. “Tại nó bị nhét vào ống tay áo anh đấy mà.” Hắn thò tay ra đón lấy con chim mềm oặt từ áo khoác của Aziraphale và hà hơi cho nó sống lại. Con bồ câu gù gù vẻ cảm kích rồi bay đi, hơi cảnh giác.
“Không phải con chim,” vị thiên thần nói. “Con chó cơ. Nó đến muộn.”
Crowley trầm ngâm lắc đầu. “Để rồi xem.”
Hắn mở cửa xe và bật đài lên. “I-should-be-so-lucky-lucky-lucky-lucky-lucky, I-should-be-so-lucky-in- (*) XIN CHÀO CROWLEY.”
“Xin chào. Ờ, ai đấy?”
“DAGON, CHÚA RUỒI, CHỦ NHÂN CỦA SỰ ĐIÊN LOẠN, TIỂU CÔNG TƯỚC CỦA TẦNG TRA TẤN THỨ BẢY. TA CÓ THỂ GIÚP GÌ CHO NGƯƠI?”
“Con chó địa ngục. Tôi chỉ, ờ, chỉ muốn kiểm tra xem nó đã được thả ra chưa thôi.”
“ĐÃ ĐƯỢC THẢ RA TỪ MƯỜI PHÚT TRƯỚC RỒI. SAO? NÓ CHƯA ĐẾN NƠI À? CÓ CHUYỆN GÌ KHÔNG ỔN SAO?”
“Ồ không. Không có gì không ổn cả. Tất cả đều tuyệt vời. Ái chà, tôi thấy nó rồi. Chó ngoan lắm. Chó đẹp lắm. Mọi thứ rất ổn. Các vị dưới đó đang làm tốt lắm. Rất vui được nói chuyện với ngài, Dagon. Gặp lại sau nhé?”
Hắn tắt đài đi.
Họ nhìn nhau trân trối. Có một tiếng “pằng” to phát ra từ trong nhà, và một ô cửa sổ vỡ nát. “Ôi trời,” Aziraphale lẩm bẩm, kìm tiếng chửi thề một cách dễ dàng, với kinh nghiệm của một kẻ đã không chửi thề suốt sáu ngàn năm và không định bắt đầu chửi thề vào lúc này. “Chắc tôi bỏ sót một khẩu.”
“Không có chó,” Crowley nói.
“Không có chó,” Aziraphale nói.
Tên quỷ thở dài. “Lên xe đi,” hắn bảo. “Chúng ta phải bàn về việc này. À mà Aziraphale này...?”
“Sao.”
“Trước khi lên xe thì lau sạch chỗ bánh kem chết tiệt ấy đi.”
Đó là một ngày tháng Tám nóng nực, yên ả, cách xa Trung tâm London. Bên vệ đường Tadfield, những cây mặt sàng trĩu xuống vì bụi. Ong vo ve trong các bờ giậu. Bầu không khí có cảm giác như thức ăn thừa được hâm lại.
Một âm thanh vang lên, nghe như tiếng một ngàn giọng nói đanh thép cùng hô vang “Vạn tuế!” rồi ngưng bặt.
Và có một con chó đen trên đường.
Nó phải là một con chó. Nó có hình thù một con chó.
Có những con chó mà, khi ta gặp chúng, thì nhắc ta nhớ rằng, bất chấp hàng ngàn năm tiến hóa dưới tay con người, mỗi con chó đều chỉ cần thiếu ăn hai bữa là hóa sói. Những con chó này bước đi một cách chậm rãi, quả quyết, là hoang dã hóa thành da thịt, hàm răng vàng khè, hơi thở hôi hám, trong khi ở đằng xa, chủ của chúng nói liến thoắng, “Nó hiền lắm, thật đấy, nếu nó làm phiền thì cứ chọc nó một cái là được,” còn trong tròng mắt chúng thì ánh lửa đỏ của kỷ Pleistocene long lên sòng sọc...
Con chó này có thể khiến ngay cả một con chó như thế cũng phải rón rén bò ra sau ghế và giả vờ hết sức bận bịu với khúc xương cao su của nó.
Chưa gì nó đã gầm gừ, và đó là một tiếng gầm gừ trầm rền, một mối đe dọa đang nén lại như cái lò xo, kiểu gầm gừ bắt đầu trong một cuống họng và kết thúc trong cuống họng kẻ khác.
Dãi dớt nhỏ xuống từ quai hàm nó và kêu xèo xèo khi rớt xuống mặt đường nhựa.
Nó tiến vài bước về phía trước và hít hít bầu không khí oi ả.
Tai nó dựng đứng lên.
Có nhiều giọng nói cách đó xa xa. Một giọng nói. Một giọng nói trẻ con, nhưng là giọng nói mà nó đã được sinh ra để tuân theo, không thể không tuân theo. Khi giọng nói đó ra lệnh, “Đi”, nó sẽ đi; khi giọng nói đó ra lệnh, “Giết”, nó sẽ giết. Giọng nói của chủ nhân nó.
Nó nhảy qua bờ giậu và băng qua cánh đồng. Một con bò đực đang gặm cỏ nhìn nó hồi lâu, cân nhắc cơ may của mình, rồi vội vã đi về bờ giậu đối diện.
Những giọng nói đang vang lên từ một cụm cây thưa thớt. Con chó đen bò lại gần hơn, dãi dớt lòng thòng.
Một giọng nói khác đang bảo: “Không đời nào. Lúc nào mày cũng bảo bố mày sẽ cho, nhưng có bao giờ bố mày cho đâu. Thách bố mày cho mày một con thú cưng đấy. Mà phải là thú cưng thú vị cơ. Có khi lại là bọ que cũng nên. Bố mày sẽ thấy thế là thú vị.”
Con chó làm một cử chỉ của chó tương đương với một cái nhún vai, nhưng nó lập tức thấy hết hứng thú vì bây giờ Chủ Nhân, Trung Tâm Vũ Trụ của nó, đã lên tiếng.
“Nó sẽ là một con chó,” giọng nói đó khẳng định.
“Hừ. Mày làm sao biết được sẽ là chó. Không ai nói nó sẽ là chó cả. Làm sao mày biết sẽ là chó nếu không ai nói thế? Bố mày sẽ suốt ngày kêu ca là nó ăn tốn thức ăn quá.”
“Cây thủy lạp.” Giọng nói thứ ba này hơi nghiêm trang hơn hai giọng nói vừa rồi một chút. Người có giọng nói đó là kiểu người mà, trước khi làm một mô hình nhựa, sẽ không chỉ phân chia và đếm kỹ từng bộ phận rồi mới bắt đầu, mà còn sơn trước những bộ phận cần sơn và để cho chúng khô hẳn, theo đúng hướng dẫn. Tất cả những gì ngăn cách giọng nói đó với nghề kế toán chỉ là thời gian.
“Chúng không ăn cây thủy lạp, Wensley ạ. Mày đã thấy chó ăn thủy lạp bao giờ chưa.”
“Ý tao là bọ que ấy. Thật ra chúng rất thú vị đấy. Chúng ăn nhau khi đang giao phối.”
Có một quãng ngừng trầm tư. Con chó bò lại gần hơn, và nhận ra các giọng nói đang phát ra từ một cái hố trên nền đất.
Cụm cây thực ra che khuất một mỏ đá phấn cổ xưa, giờ đã bị cây gai và dây leo phủ lấp một nửa. Cổ xưa nhưng rõ ràng là không bị bỏ hoang. Các vết xe chạy ngang dọc qua nó; các mặt dốc nhẵn thín chứng tỏ chúng được thường xuyên sử dụng bởi các ván trượt và các tay chơi xe đạp Bức tường Tử thần, hay ít ra cũng là Bức tường Trầy Đầu gối. Những mẩu dây mòn xơ rủ xuống đầy nguy hiểm từ những cái cây dễ trèo. Đây đó những mảnh tôn sóng và ván gỗ cũ được nhét vào giữa các cành cây. Có cả một chiếc xe Triumph Herald cốp dài cháy rụi, gỉ sét, đã bị vùi mất một nửa bởi đám tầm ma.
Ở một góc là một đống bánh xe và dây sắt mục ruỗng đánh dấu vị trí của Nghĩa địa Lạc lối nổi tiếng, nơi các xe đẩy siêu thị đến để lìa đời.
Nếu bạn là trẻ con, chỗ này đúng là Thiên đường. Người lớn trong vùng gọi nó là Cái Hố.
Con chó nhìn qua một bụi tầm ma và thấy bốn dáng người ngồi ở giữa mỏ đá, trên món đạo cụ không thể thiếu của các sào huyệt bí mật khắp mọi nơi, tức thùng gỗ đựng sữa.
“Làm gì có!”
“Đúng mà!”
“Tao cá là không phải,” giọng nói đầu tiên lên tiếng. Giọng đó có một âm sắc cho biết nó còn nhỏ và thuộc giống cái, và nó thoáng một vẻ khoái chí kinh hoàng.
“Thật mà. Tao có sáu con trước khi nhà tao đi du lịch, và tao quên thay lá thủy lạp, thế là lúc về tao chỉ còn một con to kềnh.”
“Đâu. Đấy không phải là bọ que, mà là bọ ngựa cầu nguyện. Tao đã xem trên tivi, một con cái to tướng ăn con khác mà con kia hầu như chả quan tâm.”
Lại có một quãng lặng nữa trong đám.
“Chúng nó cầu nguyện cái gì?” giọng Chủ Nhân của nó hỏi.
“Chịu. Cầu nguyện khỏi phải lấy vợ, tao đoán thế.”
Con chó ghé được một con mắt khổng lồ vào một mắt gỗ trên hàng rào gãy nát của mỏ đá và nheo mắt nhìn xuống dưới.
“Cũng giống như xe đạp ấy,” giọng nói đầu tiên lên tiếng vẻ am hiểu. “Tao cứ tưởng tao sẽ được một cái xe có bảy số, yên dao cạo và sơn màu tím đủ cả, thế mà tao lại được tặng một cái màu xanh da trời. Có giỏ. Xe của con gái.”
“ Ờ thì. Mày là con gái mà,” một đứa khác nói.
“Thế là phân biệt giới tính. Tại sao cứ là con gái thì phải nhận quà con gái?”
“Tao sẽ được tặng một con chó,” giọng Chủ Nhân của nó quả quyết. Chủ Nhân đang quay lưng về phía nó; con chó không nhìn được nét mặt ngài.
“À, ừ, sẽ là một con Rottenweiler to đùng chứ gì?” con bé nói, giọng mỉa mai chua cay.
“Không, nó sẽ là loại chó mình có thể chơi cùng,” giọng Chủ Nhân của nó nói. “Không phải một con chó to...”
... con mắt giữa đám tầm ma đột ngột tụt xuống...
“... mà là một con chó cực kỳ khôn, biết chui vào hang thỏ và có một cái tai ngồ ngộ lúc nào cũng nhìn như bị lộn ra ngoài. Và phải là một con chó lai hẳn hoi. Chó lai nòi.”
Không đứa nào ở dưới hố nghe thấy, nhưng có một tiếng sấm nhỏ xíu trên mép mỏ đá. Nó có thể được tạo ra bởi không khí bị hút vào khoảng chân không do một con chó rất to bỗng biến thành một con chó nhỏ, ví dụ thế.
Tiếng bốp nhỏ tiếp theo đó có thể được tạo ra bởi một bên tai đã tự lộn ra ngoài.
“Và tao sẽ gọi nó là...” giọng Chủ Nhân của nó nói. “Tao sẽ gọi nó là...”
“Ừ?” con bé nói. “Mày sẽ gọi nó là gì?”
Con chó chờ đợi. Chính là lúc này đây. Đặt Tên. Việc này sẽ cho nó mục đích, nhiệm vụ, danh tính. Mắt nó đỏ ngầu lên, mặc dù chúng gần mặt đất hơn nhiều so với trước, và nó nhỏ dãi xuống đám tầm ma.
“Tao sẽ gọi nó là Chó,” Chủ Nhân của nó nói, đầy quả quyết. “Đặt tên đấy đỡ được bao nhiêu là rắc rối.”
Con chó địa ngục khựng lại. Sâu thẳm trong bộ óc chó ma quỷ của nó, nó biết có gì đó không ổn, nhưng nó rất biết vâng lời và tình yêu lớn lao đột ngột dâng trào dành cho Chủ Nhân đã át hết mọi lo lắng của nó. Dù sao thì, nó là ai mà lại dám tự quyết định kích cỡ của mình chứ?
Nó lon ton chạy xuống đồi để đón gặp định mệnh của mình.
Kể cũng lạ. Nó vốn luôn muốn nhảy xổ vào người ta, nhưng giờ đây, nó nhận ra rằng, bất chấp mọi mong đợi, nó còn muốn vẫy đuôi nữa.
“Anh đã bảo đó chính là nó!” Aziraphale rên rỉ, lơ đễnh nhặt tảng bánh kem cuối cùng ra khỏi ve áo. Y liếm ngón tay cho sạch.
“Thì đó chính là nó!” Crowley nói. “Ý tôi là, tôi phải biết chứ, đúng không?”
“Thế thì chắc có kẻ khác xía vào.”
“Không còn ai khác cả! Chỉ có chúng ta thôi mà? Thiện và ác. Phe này hoặc phe kia.”
Hắn đấm lên vô lăng.
“Anh sẽ kinh ngạc vì những điều họ có thể làm với anh dưới đó đấy,” hắn nói.
“Tôi đoán là chúng rất giống những điều họ có thể làm với anh trên kia,” Aziraphale nói.
“Thôi đi. Bọn các anh được hưởng khoan hồng bất khả tư nghị mà,” Crowley chua chát nói.
“Thế à? Anh đã bao giờ đến thăm Gomorrah (*) chưa?”
“Rồi chứ,” tên quỷ đáp. “Có một quán rượu nhỏ rất tuyệt bán cocktail đường thốt nốt, rắc nhục đậu khấu và sả đập giập...”
“Ý tôi là sau đó cơ.”
“À.”
Aziraphale nói, “Chắc đã xảy ra chuyện gì đó trong bệnh viện.”
“Không đời nào! Trong đó toàn người của chúng ta mà!”
“Người của ai cơ?” Aziraphale lạnh lùng nói.
“Người của tôi,” Crowley sửa lại. “Ờ, thật ra không phải người của tôi. Hừm, anh biết đấy. Tín đồ của Satan ấy mà.”
Hắn cố nói vẻ khinh khỉnh. Tất nhiên, ngoài việc trần gian là một nơi hết sức thú vị mà cả hai đều muốn tận hưởng càng lâu càng tốt, bọn họ có rất ít điểm tương đồng, nhưng họ đồng tình với nhau về một số người, vì lý do này kia, lại có khuynh hướng thờ phụng Hoàng thân Bóng tối. Crowley luôn thấy hơi lúng túng với bọn họ. Ta không thể tỏ ra bất nhã với họ, nhưng với họ, ta không thể không cảm thấy một cảm giác giống khi một cựu chiến binh Việt Nam gặp một gã mặc quân phục đến dự buổi họp đội dân phòng.
Hơn nữa, họ luôn nhiệt tình đến nản. Cứ xem mấy vụ thập giá treo ngược, sao năm cánh và gà trông đấy. Phần lớn bọn quỷ đều chẳng hiểu những thứ đó để làm gì. Chúng hoàn toàn không cần thiết. Tất cả những gì ta cần để trở thành tín đồ của Satan là nỗ lực ý chí. Ta có thể thờ Satan cả đời mà không biết sao năm cánh là cái gì, mà không bao giờ nhìn thấy một con gà trống chết ngoại trừ ở món gà hầm Marengo.
Ngoài ra, một số tín đồ Satan truyền thống thường là những người khá tử tế. Họ lẩm nhẩm theo lời cầu nguyện và thực hiện đầy đủ các nghi thức, giống hệt như những người mà họ nghĩ là thuộc phe đối lập, rồi về nhà và sống những cuộc đời tầm thường khiêm tốn suốt những ngày còn lại trong tuần mà chẳng có lấy một ý nghĩ xấu xa trong đầu.
Còn những kẻ còn lại thì...
Có những kẻ tự gọi mình là tín đồ của Satan lại khiến Crowley bó tay. Không chỉ vì những việc họ làm, mà là vì cái lối họ đổ hết mọi tội lỗi lên Địa ngục. Họ nghĩ ra những điều khiến người ta ghê rợn mà không tên quỷ nào có thể nghĩ nổi trong cả ngàn năm, những thứ kinh khủng đen tối và bệnh hoạn mà chỉ có một bộ não con người hoàn thiện mới có thể tưởng tượng được, rồi gào lên “Quỷ Sứ Bắt Tôi Làm Thế” và được tòa thông cảm, trong khi vấn đề là quỷ sứ chẳng bao giờ bắt ai làm gì. Hắn không cần. Đó là một điều mà nhiều con người không hiểu nổi. Địa ngục không phải là một nguồn dự trữ xấu xa, cũng như Thiên đường, theo ý kiến của Crowley, cũng không phải là suối nguồn thiện lành; hai nơi này chỉ là hai phe trong một ván cờ vũ trụ khổng lồ mà thôi. Nơi ta có thể tìm ra điều đích thực, tốt đẹp đích thực và xấu xa đến rụng tim đích thực, chính là trong tâm trí con người.
“Hừ,” Aziraphale nói. “Tín đồ Satan.”
“Tôi không hiểu sao họ có thể nhầm lẫn được,” Crowley nói. “Ý tôi là, chỉ có hai đứa bé. Có khó nhọc gì đâu chứ, phải không...?” Hắn ngừng lời. Giữa màn sương ký ức, hắn nhớ lại một bà xơ nhỏ bé, mà lúc đó hắn đã thấy khá là đãng trí ngay cả so với một tín đồ Satan. Và còn có cả một người khác nữa. Crowley lờ mờ nhớ lại một tẩu thuốc và một cái áo khoác len có hoa văn ziczac kiểu đã lỗi mốt từ năm 1938. Một người đàn ông với dòng chữ “sắp làm bố” hiện rõ mồn một khắp người.
Chắc hẳn đã có một đứa bé thứ ba.
Hắn kể cho Aziraphale nghe.
“Chẳng có manh mối gì nhiều,” vị thiên thần nói.
“Chúng ta biết đứa bé còn sống,” Crowley nói, “vì vậy...”
“Làm sao chúng ta biết được?”
“Nếu nó đã lại xuống Dưới Đó rồi thì anh nghĩ là tôi còn yên vị ở đây được không?”
“Có lý.”
“Vậy chúng ta chỉ việc tìm ra nó,” Crowley nói. “Tra sổ sách bệnh viện.” Động cơ chiếc Bentley húng hắng khởi động và chiếc xe chồm tới trước, khiến Aziraphale bị đẩy sát vào ghế.
“Rồi sau đó thì sao?” y hỏi.
“Sau đó thì chúng ta tìm ra đứa bé.”
“Rồi sau đó thì sao?” Vị thiên thần nhắm nghiền mắt khi xe vào cua xé gió.
“Chịu.”
“Trời ơi.”
“Tôi đoán là - xéo đi thằng hề kia - các anh sẽ không chịu - và cả cái xe máy của mày nữa! - cho tôi tị nạn đâu nhỉ?”
“Tôi đang định hỏi anh chính điều đó đấy - cẩn thận người đi bộ!”
“Nó đang ở trên đường, nó phải biết mình đang đứng trước nguy cơ gì chứ!” Crowley nói, luồn lách chiếc xe đang tăng tốc giữa một cái xe đang đỗ và một chiếc taxi, chừa lại khe hở gần như không đủ đút vừa tấm thẻ tín dụng mỏng nhất.
“Nhìn đường! Nhìn đường! Mà cái bệnh viện này ở đâu?”
“Đâu đó phía nam Oxford!”
Aziraphale bám chặt vào bảng đồng hồ. “Anh không thể chạy với tốc độ một trăm rưỡi cây số giờ trong Trung tâm London được!”
Crowley ngó đồng hồ vận tốc. “Sao lại không?”
“Anh sẽ giết chúng ta mất!” Aziraphale ngần ngừ. “Hay đúng hơn là làm chúng ta bị lìa xác một cách rất bất tiện,” y lúng túng sửa lại, thư giãn hơn một chút. “Hơn nữa, anh có thể giết người khác.”
Crowley nhún vai. Vị thiên thần chưa bao giờ quen được với thế kỷ hai mươi và không nhận ra rằng việc lái xe với tốc độ một trăm năm mươi cây số giờ trên phố Oxford là hoàn toàn khả thi. Ta chỉ việc sắp xếp lại mọi thứ để không bị ai ngáng đường. Và vì tất cả mọi người đều biết lái xe với tốc độ một trăm năm mươi cây số một giờ trên phố Oxford là bất khả thi, nên không ai để ý cả.
Ít ra xe hơi cũng còn khá hơn ngựa. Động cơ đốt trong là một món quà của Chúa - một phước - một may mắn bất ngờ với Crowley. Thời trước, những con ngựa duy nhất mà kẻ khác nhìn thấy hắn cưỡi là những con vật to đùng đen sì, mắt rừng rực và móng gõ tóe lửa. Đó là thứ bắt buộc với một tên quỷ. Thường thì Crowley hay bị ngã. Hắn không hợp với động vật cho lắm.
Đâu đó quanh Chiswick, Aziraphale lơ đãng bới đống băng trong ngăn đựng găng tay.
“Velvet Underground là cái gì?” y hỏi.
“Anh sẽ không thích đâu,” Crowley trả lời.
“À,” vị thiên thần khinh khỉnh nói. “Nhạc be-bop.”
“Anh biết không, Aziraphale, nếu một triệu con người được yêu cầu miêu tả âm nhạc hiện đại, họ sẽ không dùng từ ‘be-bop’ đâu?” Crowley nói.
“A, cái này được hơn đây. Tchaikovsky,” Aziraphale nói, mở hộp ra và bỏ cuộn băng vào chiếc Blaupunkt.
“Anh sẽ không thích đâu,” Crowley thở dài. “Nó đã ở trong xe hơn hai tuần rồi.”
Một nhịp bass nặng bắt đầu rung lên trong chiếc Bentley khi họ lao qua sân bay Heathrow.
Trán Aziraphale nhăn lại.
“Tôi không nhận ra bài này,” y nói. “Đây là bài gì vậy?”
“Là bài ‘Another One Bites the Dust’ của Tchaikovsky,” Crowley nói, nhắm mắt lại khi họ đi qua Slough.
Để giết thời gian khi đi qua vùng đồi Chiltern ngái ngủ, họ nghe cả các bài “We Are the Champions” của William Byrd và “I Want To Break Free” của Beethoven. Nhưng cả hai bài đều không hay bằng “Fat-Bottomed Girls” (*) của Vaughan Williams.
Người ta nói quỷ sứ có những điệu nhạc hay nhất.
Điều này nói chung là đúng. Nhưng Thiên đường lại có các biên đạo múa giỏi nhất.
Vùng đồng bằng Oxfordshire trải dài về phía tây, với những đốm sáng rải rác đánh dấu những ngôi làng đang say ngủ, nơi những người nông dân chân chất đang chuẩn bị nghỉ ngơi sau một ngày dài biên tập xã luận, cố vấn tài chính, hoặc xây dựng phần mềm.
Cao cao trên đỉnh đồi, mấy con đom đóm đang lập lòe sáng.
Máy kinh vĩ của nhân viên dịch lộ là một trong những biểu tượng tàn bạo của thế kỷ hai mươi. Khi được dựng lên ở bất kỳ đâu giữa vùng thôn quê, nó đều báo hiệu: việc Mở Rộng Đường sắp xảy ra, đúng vậy, cùng các khu chung cư hai-ngàn-hộ được xây dựng theo đúng Bản sắc của Ngôi làng. Các Kế hoạch Phát triển Đô thị sẽ hiện ra.
Nhưng ngay cả nhân viên dịch lộ tận tâm nhất cũng không đi lập bản đồ lúc nửa đêm, vậy mà nó vẫn ở đây, cái giá ba chân cắm sâu xuống nền cỏ. Cũng không nhiều máy kinh vĩ lại có một cành dẻ gai buộc trên đầu, hay có các con lắc bằng pha lê treo bên dưới, và các cổ tự Xentơ khắc trên chân.
Một làn gió nhẹ thổi phần phật chiếc áo choàng của dáng người mảnh mai đang chỉnh các núm điều khiển của máy kinh vĩ. Đó là một chiếc áo choàng khá dày, chống thấm rất hữu dụng, và có lớp lót ấm.
Phần lớn các cuốn sách về yêu thuật nói rằng các phù thủy đều khỏa thân khi làm phép. Đó là vì phần lớn các cuốn sách về yêu thuật đều được viết bởi đàn ông.
Cô gái đó có tên là Anathema Device. Cô không xinh đẹp khác thường gì. Các nét của cô, khi để riêng, thì đều rất xinh, nhưng tổng thể khuôn mặt cô khiến người ta có cảm giác nó đã được lắp ráp vội vã từ các mẫu có sẵn chứ không tham khảo sơ đồ nào cả. Có lẽ từ phù hợp nhất để miêu tả cô là “hấp dẫn”, nhưng những người biết từ đó có nghĩa là gì và có thể đánh vần được nó sẽ thêm vào từ “hoạt bát” nữa, nhưng từ “hoạt bát” có vẻ gì đó rất kiểu thập niên 50, nên có lẽ họ sẽ không thêm vào.
Các cô thiếu nữ không nên ra ngoài một mình vào những đêm tối trời, ngay cả ở Oxfordshire đi chăng nữa. Nhưng bất kỳ tên điên nào đang rình rập cũng sẽ phải lãnh đủ nếu hắn dám đến gần Anathema Device. Dù sao thì cô cũng là phù thủy. Và chính bởi vì cô là phù thủy, và do đó rất khôn ngoan, nên cô không đặt niềm tin vào các bùa phép hộ mệnh; cô chỉ tin cậy vào một con dao cắt bánh mì dài ba mươi phân đeo ở thắt lưng.
Cô ngắm qua thấu kính và chỉnh lại một chút.
Cô lầm bầm một mình.
Các nhân viên dịch lộ thường lầm bầm một mình. Họ lầm bầm những câu như là, “Chỉ trong nháy mắt sẽ có đường vòng tránh chạy qua đây”, hoặc, “Ba phẩy năm mét, cộng trừ một cái chân muỗi.”
Đây là một loại lầm bầm khác hẳn.
“Đêm đen tối / Trăng sáng ngời,” Anathema lầm bầm, “Phía đông nam / Phía tây đến tây nam... tây-tây nam... thấy rồi...”
Cô nhặt lên một tấm bản đồ của sở đạc điền được gấp lại và giơ nó lên dưới ánh đèn pin. Rồi cô lấy ra một cái thước nhựa trong với một cái bút chì và cẩn thận kẻ một đường ngang qua bản đồ. Nó cắt một đường kẻ chì khác.
Cô mỉm cười, không phải vì có gì đặc biệt thú vị, mà vì đã hoàn thành một công việc khó nhằn.
Rồi cô gập cái máy kinh vĩ kỳ lạ vào, buộc nó vào sau một cái xe đạp đen dóng chéo đang dựa vào bờ giậu, kiểm tra xem Cuốn Sách đã nằm gọn trong giỏ chưa, và đẩy cái xe xuống lối mòn đầy sương.
Cái xe đạp đã cổ lỗ lắm rồi, khung xe nhìn như hàn bằng ống nước. Nó đã được làm ra từ lâu trước khi bộ bánh răng ba tốc độ được phát minh, và có lẽ chỉ ngay sau khi bánh xe được phát minh.
Nhưng đường về làng chủ yếu là xuống dốc. Tóc bay tung trong gió, chiếc áo choàng căng phồng sau lưng như một tấm buồm neo, cô để cho cỗ xe hai bánh nồi đồng cối đá chậm rãi tăng tốc qua bầu không khí ấm áp. Ít ra vào giờ này trong đêm cũng không có xe cộ nào khác.
Động cơ chiếc Bentley kêu ping, ping khi nó nguội đi. Tâm trạng của Crowley thì ngược lại, đang nóng dần lên.
“Anh bảo là anh đã thấy biển chỉ đường mà.”
“Ờ thì chúng ta đi nhanh quá. Mà tôi tưởng anh đã từng đến đây rồi.”
“Từ mười một năm trước!”
Crowley ném tấm bản đồ ra ghế sau và lại khởi động xe.
“Có lẽ chúng ta nên hỏi đường,” Aziraphale nói.
“À, ừ,” Crowley nói. “Chúng ta sẽ dừng lại và hỏi người đầu tiên chúng ta nhìn thấy dọc trên một... một lối mòn giữa đêm hôm khuya khoắt này hả?”
Hắn cài số cho chiếc xe và rồ máy đi xuôi con đường phủ bóng sồi.
“Khu vực này có gì lạ lắm,” Aziraphale nói. “Anh có cảm thấy không?”
“Gì cơ?”
“Đi chậm lại một chút.”
Chiếc Bentley lại đi chậm lại.
“Lạ thật,” vị thiên thần lầm bầm, “tôi cứ thấy lóe lên...”
Y đưa tay lên thái dương.
“Gì? Gì nào?” Crowley hỏi.
Aziraphale nhìn hắn chằm chằm.
“Tình yêu,” y nói. “Ai đó thực sự yêu nơi này.”
“Sao cơ?”
“Dường như có một tình yêu dạt dào ở đây. Tôi không thể giải thích cụ thể hơn được. Nhất là với anh.”
“Ý anh là như...” Crowley mở miệng.
Có một tiếng rè rè, một tiếng thét, và một tiếng loảng xoảng. Chiếc xe dừng lại.
Aziraphale chớp mắt, hạ tay xuống, và rón rén mở cửa ra.
“Anh đâm phải ai đó rồi,” y nói.
“Đâu,” Crowley nói. “Ai đó đâm vào tôi thì có.”
Họ ra khỏi xe. Đằng sau chiếc Bentley là một cái xe đạp nằm chỏng chơ, bánh xe trước vẹo vọ thành một hình Mobius đúng chuẩn, bánh sau kêu cành cạch đầy đáng gở rồi dừng hẳn.
“Phải có sự sáng,” Aziraphale phán. Một quầng sáng xanh nhạt tỏa khắp lối mòn.
Từ cái mương bên cạnh họ, có ai đó nói, “Ông làm thế quái nào vậy?”
Ánh sáng biến mất.
“Làm gì cơ?” Aziraphale hỏi vẻ tội lỗi.
“Ờ.” Giờ giọng nói có vẻ mụ mẫm. “Hình như tôi bị đập đầu hay sao ấy...”
Crowley trừng mắt nhìn một vạch kim loại dài trên nước sơn bóng loáng của chiếc Bentley và một vết lõm trên hãm xung, vết lõm phẳng trở lại. Lớp sơn lành trở lại.
“Đứng lên nào, cô gái,” vị thiên thần nói, đỡ Anathema dậy khỏi đám dương xỉ. “Không gãy cái xương nào cả.” Đó là một lời khẳng định, không phải hy vọng; đã có một vết rạn nhỏ, nhưng Aziraphale không thể cưỡng lại cơ hội để làm việc thiện.
“Các ông không bật đèn,” cô nói.
“Cô cũng thế,” Crowley nói vẻ có lỗi. “Cũng công bằng cả thôi.”
“Cô nghiên cứu thiên văn học hả?” Aziraphale nói, dựng thẳng cái xe đạp lên. Đủ thứ tả pí lù rơi lạch cạch ra khỏi giỏ xe. Y chỉ cái máy kinh vĩ méo mó.
“Không,” Anathema đáp. “Ý tôi là, vâng. Và xem các ông đã làm gì với Phaeton tội nghiệp kìa.”
“Cô nói sao cơ?” Aziraphale hỏi.
“Xe đạp của tôi ấy. Nó bẹp rúm rồi...”
“Trâu bò ghê lắm, mấy cái xe cũ này,” vị thiên thần vui vẻ nói, trao cái xe đạp cho cô. Bánh trước lấp lánh dưới ánh trăng, tròn xoe như một tầng Địa ngục.
Cô trố mắt nhìn nó.
“Thôi, thế là ổn thỏa cả rồi,” Crowley nói, “nên có lẽ tốt nhất là chúng ta tiếp tục lên, ờ. Ờ. Cô có tình cờ biết đường đến làng Tadfield Hạ không?”
Anathema vẫn đang nhìn cái xe đạp chằm chằm. Cô gần như chắc chắn là khi cô rời nhà, nó không có một cái túi yên nhỏ đựng bộ dụng cụ vá xe.
“Nó ở ngay dưới đồi kia,” cô nói. “Đây đúng là xe của tôi đấy chứ?”
“Ồ, chắc chắn rồi,” Aziraphale nói, tự hỏi có phải y đã quá tay không.
“Chỉ là tôi dám chắc Phaeton chưa bao giờ có bơm cả.”
Vị thiên thần lại tỏ vẻ tội lỗi.
“Nhưng có chỗ để treo bơm đây này,” y luống cuống nói. “Hai cái móc nhỏ.”
“Cô bảo là ngay dưới đồi thôi hả?” Crowley nói, huých vị thiên thần.
“Tôi nghĩ có lẽ tôi đã bị đập đầu,” cô gái nói.
“Tất nhiên chúng tôi sẽ cho cô đi nhờ,” Crowley vội nói, “nhưng không có chỗ cho cái xe đạp.”
“Ngoại trừ giá để hành lý,” Aziraphale nói.
“Chiếc Bentley đâu có... À. Hừ.”
Vị thiên thần nhặt nhạnh tất cả đồ đã rơi khỏi giỏ xe bỏ lên ghế sau và đỡ cô gái đang sững sờ vào xe.
“Ta không nên,” y nói, “cứ thế bỏ đi.”
“Các anh thì không. Còn thằng này thì có đấy. Chúng ta còn việc khác phải làm, anh biết không.” Crowley đưa mắt lườm cái giá để hành lý mới. Nó có cả đai kẻ ô vuông.
Cái xe đạp tự nhấc lên và buộc mình chắc chắn vào cái giá. Rồi Crowley lên xe.
“Cô sống ở đâu, cô gái thân mến?” Aziraphale hỏi.
“Xe đạp của tôi cũng không có đèn. Ờ, thực ra là đã từng có, nhưng là loại đèn phải bỏ pin vào mới sáng, rồi pin bị ẩm nên tôi phải bỏ ra,” Anathema nói. Cô trừng mắt nhìn Crowley. “Tôi có một con dao cắt bánh mì đây,” cô nói. “Ở đâu đó.”
Aziraphale tỏ vẻ sững sờ trước lời ám chỉ của cô.
“Thưa cô, tôi xin cam đoan rằng...”
Crowley bật đèn lên. Hắn không cần đèn để nhìn, nhưng đèn sẽ khiến những con người khác trên đường bớt lo lắng.
Rồi hắn cài số và khoan thai lái xuống đồi. Con đường ra khỏi tán cây và, sau chừng vài trăm mét, đến bên rìa một ngôi làng cỡ vừa.
Ngôi làng có một cảm giác quen thuộc. Đã mười một năm trôi qua, nhưng chắc chắn nơi này đánh động một ký ức xa xôi.
“Quanh đây có bệnh viện nào không?” hắn hỏi. “Do các bà xơ quản lý ấy?”
Anathema nhún vai. “Tôi nghĩ là không,” cô nói. “Chỗ rộng rãi duy nhất là Dinh thự Tadfield. Tôi không biết họ dùng nó làm gì.”
“Lên các kế hoạch linh thiêng,” Crowley lầm bầm.
“Và bánh răng số nữa,” Anathema nói. “Xe tôi không có bánh răng số. Tôi chắc chắn xe tôi không có bánh răng số.”
Crowley ngả người sang chỗ vị thiên thần.
“Lạy Chúa, xin Người hãy chữa lành chiếc xe đạp này,” hắn thì thầm vẻ giễu cợt.
“Tôi xin lỗi, tôi quá tay,” Aziraphale rít lên đáp lại.
“Đai kẻ ô vuông ấy à?”
“Kẻ ô vuông đang mốt mà.”
Crowley gầm ghè. Vào những dịp hiếm hoi đầu óc vị thiên thần chạy kịp tới thế kỷ hai mươi thì nó lại luôn hướng về thập niên 1950.
“Các vị có thể thả tôi xuống đây,” Anathema lên tiếng từ ghế sau.
“Rất sẵn lòng,” vị thiên thần cười nói. Ngay khi chiếc xe dừng lại, y đã mở cửa sau và cúi chào như một lão bộc già đang đón chào chủ nhân trẻ tuổi trở về đồn điền cũ.
Anathema thu dọn đồ đạc và bước ra vẻ kiêu kỳ hết mức có thể.
Cô dám chắc là cả hai người đàn ông đều đã không đi ra phía sau xe, nhưng xe đạp của cô đã được tháo xuống và đang dựa vào cổng.
Chắc chắn ở họ có gì đó rất kỳ dị, cô thầm nghĩ.
Aziraphale lại cúi chào. “Rất hân hạnh được giúp đỡ cô,” y nói.
“Cảm ơn,” Anathema nói, giọng lạnh tanh.
“Chúng ta đi được chưa?” Crowley nói. “Chúc cô ngủ ngon. Lên xe đi, thiên thần.”
À. Ra là thế. Hóa ra cô đã chẳng có gì phải lo cả.
Cô nhìn theo chiếc xe biến về phía trung tâm làng, rồi dắt xe lên lối đi vào nhà. Cô đã không buồn khóa cửa nhà. Cô dám chắc Agnes sẽ nhắc nếu cô sắp bị trộm, bà thường rất giỏi những chuyện riêng tư như thế.
Cô đã thuê căn nhà kèm cả đồ đạc, có nghĩa là đồ đạc trong nhà là loại mà ta thường thấy trong những hoàn cảnh thế này và có lẽ đã bị cửa hàng từ thiện địa phương bỏ ra cho người dọn rác. Không thành vấn đề. Cô không nghĩ mình sẽ ở lại lâu.
Nếu Agnes đúng thì cô sẽ chẳng ở lâu bất kỳ đâu. Và tất cả mọi người cũng vậy.
Cô trải bản đồ và các thứ lên cái bàn cổ dưới ngọn đèn duy nhất trong bếp.
Cô đã khám phá ra được gì? Không nhiều nhặn gì lắm, cô nghĩ vậy. Có lẽ nó ở đầu bắc của làng, nhưng điều đó thì cô đã ngờ từ trước. Nếu đến quá gần thì ta sẽ bị ngợp trong tín hiệu; còn nếu ở quá xa thì lại không xác định được vị trí chính xác.
Bực mình thật. Câu trả lời chắc phải nằm đâu đó trong Cuốn Sách. Vấn đề là để hiểu được các lời tiên tri, ta phải biết cách suy nghĩ như một bà phù thủy điên điên dở dở nhưng rất thông minh, với tâm trí như một cuốn từ điển đố chữ. Các thành viên khác trong gia đình nói Agnes cố tình viết rối rắm để người ngoài không hiểu được; Anathema, người thường ngờ rằng đôi khi mình có thể suy nghĩ giống Agnes, đã quyết định đó chẳng qua là vì Agnes chỉ là một mụ già đầu óc ngang ngược với khiếu hài hước quái thai thôi.
Cô thậm chí còn không...
Cô không thấy Cuốn Sách.
Anathema kinh hoàng nhìn những món đồ trên bàn. Tấm bản đồ. Cái máy kinh vĩ bói toán tự chế. Cái phích đựng xúp Bovril nóng. Cái đèn pin.
Khoảng không hình chữ nhật trống hoác nơi lẽ ra phải có những lời tiên tri.
Cô đã đánh mất nó.
Nhưng thật là lố bịch! Một trong những điều Agnes luôn nói rất cụ thể là những chuyện xảy ra với Cuốn Sách.
Cô chộp lấy cái đèn pin và chạy ra khỏi nhà.
“Một cảm giác như là, ờ, trái ngược với cảm giác khi ta nói những điều như là ‘chỗ này rờn rợn’,” Aziraphale nói. “Ý tôi là thế.”
“Tôi chưa bao giờ nói ‘chỗ này rờn rợn’,” Crowley nói. “Tôi cực thích rờn rợn ấy chứ.”
“Một cảm giác được trìu mến,” Aziraphale tuyệt vọng nói.
“Không. Chẳng thấy gì cả,” Crowley nói, vui vẻ miễn cưỡng.
“Anh nhạy cảm quá thôi.”
“Đó là nghề của tôi,” Aziraphale nói. “Thiên thần không thể quá nhạy cảm được.”
“Tôi đoán người quanh đây thích sống ở đây và anh chỉ đang cảm nhận được nó thôi.”
“Tôi chưa bao giờ cảm nhận cái gì tương tự ở London,” Aziraphale nói.
“Đấy, thấy chưa, chứng tỏ tôi đã đúng,” Crowley nói. “Và chính là chỗ này đây. Tôi nhớ có hai con sư tử đá trên cột cổng.”
Đèn pha của Bentley chiếu sáng những bụi đỗ quyên rậm rì mọc hai bên lối đi. Bánh xe nghiến lên lớp sỏi.
“Giờ này mà ghé thăm các bà xơ thì còn sớm quá,” Aziraphale nghi ngại nói.
“Vớ vẩn. Các bà xơ luôn làm việc bất kể thời gian,” Crowley nói. “Chắc giờ đang là buổi Lễ Muộn (*) , trừ phi đó là một loại thuốc giảm cân.”
“Chà, bẩn tính quá đấy,” vị thiên thần nói. “Anh không cần phải nói những câu chọc ngoáy như thế.”
“Đừng tự ái. Tôi đã bảo rồi, đây là người của chúng tôi. Các bà xơ hắc ám. Chúng tôi cần có bệnh viện gần căn cứ không quân, anh hiểu chứ.”
“Tôi chẳng hiểu gì cả.”
“Anh không nghĩ là vợ các nhà ngoại giao Mỹ hay đi đẻ ở các bệnh viện tôn giáo nhỏ giữa chốn đồng không mông quạnh đấy chứ? Tất cả phải diễn ra thật tự nhiên. Có một căn cứ không quân ở làng Tadfield Hạ, bà ta đến đó dự lễ khánh thành, mọi chuyện bắt đầu xảy ra, bệnh viện của căn cứ chưa sẵn sàng, người của chúng tôi nói, ‘Có một bệnh viện ngay dưới đường kia’, và chúng tôi đợi sẵn ở đó. Sắp đặt rất khá đấy chứ.”
“Chỉ sót mất vài chi tiết lặt vặt thôi,” Aziraphale tự đắc nói.
“Nhưng đã suýt thành công còn gì,” Crowley vặc lại, cảm thấy hắn cần bảo vệ đồng bọn.
“Anh thấy đấy, sự xấu xa luôn chứa đựng mầm mống tự hủy hoại,” vị thiên thần nói. “Rút cục thì cái xấu là tiêu cực, và vì vậy chứa đựng sự sụp đổ của chính nó ngay cả khi nó tưởng như đã chiến thắng. Cho dù kế hoạch xấu xa có vĩ đại đến đâu, được suy tính cẩn thận đến đâu, có chắc chắn thành công đến đâu, thì kiểu gì cái sai trái cố hữu cũng sẽ phản lại kẻ chủ mưu. Cho dù có vẻ sắp thành công đến đâu thì cuối cùng nó cũng sẽ tự hủy diệt. Nó sẽ sụp đổ trên những tảng đá tội lỗi và chìm nghỉm vào biển quên lãng, không để lại dấu vết gì.”
Crowley ngẫm nghĩ về điều này. “Đâu mà,” cuối cùng hắn nói. “Tôi dám cá chỉ là do sự kém cỏi thông thường thôi. Này...”
Hắn huýt một tiếng nhỏ.
Sân trải sỏi trước dinh thự đỗ đầy xe, và chúng không phải là xe của các bà xơ. Thật ra thì đến cả chiếc Bentley cũng còn phải chạy dài. Rất nhiều xe có chữ GT hoặc Turbo trong tên và ăngten trên nóc. Hầu như xe nào cũng chưa đến một năm tuổi.
Tay Crowley ngứa ngáy. Aziraphale chữa lành xe đạp và xương gãy; còn hắn thì thèm được trộm vài cái đài, xì hơi vài cái bánh xe, đại loại thế. Hắn cố kiềm chế.
“Chà, chà,” hắn nói. “Thời của tôi các bà xơ phải nhồi nhét bốn người vào một chiếc Morris Traveller.”
“Không thể là chỗ này được,” Aziraphale nói.
“Có lẽ họ đã chuyển thành viện tư?” Crowley nói.
“Hoặc anh đã nhầm địa chỉ.”
“Đúng địa chỉ này mà, tôi đảm bảo đấy. Đi nào.”
Họ ra khỏi xe. Ba mươi giây sau, ai đó bắn cả hai bọn họ. Chính xác đến không tưởng.
Nếu có một điều mà Mary Hodges, trước kia là Mary Lắm Mồm, rất giỏi, thì đó là cố gắng tuân theo mệnh lệnh. Bà thích các mệnh lệnh. Chúng khiến thế giới đơn giản hơn.
Cái bà không giỏi là thay đổi. Bà đã rất thích dòng Huyên thuyên. Lần đầu tiên trong đời bà có bạn. Lần đầu tiên trong đời bà có phòng riêng. Tất nhiên, bà biết họ đang làm những việc mà, xét theo một góc độ nào đó, có thể bị coi là xấu xa, nhưng Mary Hodges đã có kha khá trải nghiệm cuộc sống trong suốt ba mươi năm và không ảo tưởng về những việc mà hầu hết nhân loại phải làm để tồn tại từ tuần này qua tuần khác. Hơn nữa, thức ăn rất ngon và ta được gặp nhiều người thú vị.
Dòng tu, hay ít ra là những người còn lại, đã chuyển đi sau vụ hỏa hoạn. Dù sao thì mục đích duy nhất để họ tồn tại cũng đã được hoàn thành. Họ liền ai đi đường nấy.
Bà thì không đi. Bà rất thích Dinh thự, và, như bà nói, ai đó nên ở lại và giám sát việc sửa chữa cho đến nơi đến chốn, vì ngày nay ta không thể tin được đám thợ thuyền nếu không liên tục trông chừng họ, đại khái là vậy. Thế tức là bà sẽ phải phá bỏ lời thề, nhưng Mẹ Bề Trên nói vậy cũng không sao, không có gì phải lo cả, phá bỏ lời thề nguyện là hoàn toàn bình thường trong một dòng tu hắc ám, và một trăm năm nữa, hay đúng hơn là mười một năm nữa thì mọi chuyện cũng sẽ như nhau cả thôi, nên nếu xơ thấy thoải mái khi làm thế, thì đây là giấy tờ nhà và địa chỉ để chuyển tiếp thư tới trừ phi đó là các phong bì dài màu nâu có ô hở đằng trước (*) .
Rồi một điều rất lạ đã xảy ra với bà. Khi chỉ còn lại một mình trong tòa nhà rộng thênh thang, làm việc trong một căn phòng hiếm hoi không bị hư hại, tranh cãi với những người đàn ông có mẩu thuốc lá cài sau tai và bụi vữa dính đầy quần cùng loại máy tính bỏ túi sẽ cho ra kết quả khác nếu tiền công được trả bằng tiền giấy cũ, bà đã khám phá ra một thứ mà bà không biết là có tồn tại.
Bà đã khám phá ra, bên dưới tầng tầng lớp lớp những ngớ ngẩn và sốt sắng muốn làm người khác vừa lòng, là Mary Hodges.
Bà thấy việc hiểu các dự toán của nhà thầu và tính thuế giá trị gia tăng chẳng có gì khó khăn. Bà mượn ít sách ở thư viện về và thấy ngành tài chính vừa thú vị vừa đơn giản. Bà ngừng đọc loại tạp chí phụ nữ viết về tình yêu và đan len, và bắt đầu đọc loại tạp chí phụ nữ viết về cực khoái, nhưng ngoài việc tự nhắc mình đạt cực khoái nếu có cơ hội, thì bà coi cực khoái cũng là một dạng tình yêu và đan len trong một hình thức mới mà thôi. Vậy là bà bắt đầu đọc loại tạp chí viết về sáp nhập doanh nghiệp.
Sau nhiều suy tính, bà đã mua một cái máy tính cá nhân nhỏ từ một gã bán hàng nhãi ranh vừa buồn cười vừa kẻ cả ở Norton. Sau một cuối tuần bận rộn, bà đem nó trở lại cửa hàng. Không phải để nhờ gã cắm điện, như gã nghĩ, mà vì nó không có chip đồng xử lý 387. Cái đó thì gã hiểu - dù sao gã cũng là người bán hàng và có thể hiểu được các từ khá dài - nhưng sau đó thì cuộc trò chuyện nhanh chóng xuống dốc theo góc nhìn của gã. Mary Hodges lấy ra nhiều cuốn tạp chí nữa. Phần lớn đều có chữ “PC” trong tên, và rất nhiều có các bài báo và bài điểm tin mà bà đã cẩn thận khoanh tròn bằng mực đỏ.
Bà đọc về Phụ nữ Mới. Bà chưa bao giờ nhận ra mình là một Phụ nữ Cũ, nhưng sau một thời gian suy nghĩ thì bà quyết định rằng những danh hiệu như vậy cũng giống như tình yêu và đan len và cực khoái thôi, điều quan trọng thực sự là ta phải cố hết mức có thể để là chính mình. Bà vẫn luôn có khuynh hướng mặc đồ đen trắng. Bà chỉ cần nâng gấu váy lên, đi giày gót cao hơn, và bỏ cái khăn trùm đầu đi thôi.
Một ngày kia, trong lúc lật giở một cuốn tạp chí, bà đã phát hiện ra rằng trên khắp cả nước đang có một nhu cầu dường như vô độ với các tòa nhà rộng rãi, có sân vườn lớn, được quản lý bởi những người hiểu được yêu cầu của giới doanh nghiệp. Ngày hôm sau bà liền đi đặt một loạt đồ văn phòng phẩm mang tên Trung tâm Đào tạo Quản lý và Hội nghị Tadfield, và tự lý luận rằng đến lúc chúng được in xong thì bà sẽ biết hết những gì cần biết để quản lý một nơi như vậy.
Tuần sau thì quảng cáo bắt đầu được đăng.
Công ty đó đã thành công vang dội, vì trong sự nghiệp mới làm Chính Mình, Mary Hodges đã sớm nhận ra là đào tạo quản lý không có nghĩa là ta phải bắt mọi người ngồi xuống trước những máy chiếu slide chập chờn. Ngày nay các công ty trông đợi nhiều hơn thế.
Bà đã cung cấp cho họ cái đó.
Crowley khuỵu xuống, lưng dựa vào một bức tượng. Aziraphale đã ngã ngửa vào một bụi đỗ quyên, một vệt sẫm màu loang rộng trên áo khoác của y.
Crowley cảm thấy một mảng ẩm ướt đang lan ra trên áo hắn.
Thật lố bịch. Điều hắn không cần nhất bây giờ là bị giết. Hắn sẽ phải giải trình đủ thứ. Họ đâu có cứ thế mà cho hắn một thân xác mới; họ luôn muốn biết ta đã làm gì với cái xác cũ. Giống như cố xin một cái bút mới từ một phòng hành chính cực kỳ thích gây khó dễ vậy.
Hắn kinh ngạc nhìn tay mình.
Quỷ có khả năng nhìn được trong bóng tối. Và hắn có thể thấy tay mình vàng khè. Hắn đang chảy máu vàng.
Hắn rón rén nếm một ngón tay.
Rồi hắn bò đến bên Aziraphale và kiểm tra áo vị thiên thần. Nếu vết bẩn trên đó là máu thì có gì đó rất không ổn đã xảy ra với môn sinh học rồi.
“Ui, đau quá,” vị thiên thần bị ngã rên rỉ. “Trúng ngay dưới sườn tôi.”
“Ừ, nhưng bình thường anh có chảy máu màu xanh không?” Crowley hỏi.
Mắt Aziraphale mở ra. Y đưa tay phải lên vỗ vỗ ngực. Y ngồi dậy. Y cũng tự khám nghiệm pháp y bản thân theo lối thô sơ như Crowley.
“Sơn à?” y hỏi.
Crowley gật đầu.
“Họ chơi trò gì vậy?” Aziraphale nói.
“Tôi không biết,” Crowley nói, “nhưng tôi nghĩ nó có tên là mấy trò con bò.” Giọng hắn có ý nói hắn cũng có thể chơi. Và chơi khá hơn là đằng khác.
Đó là một trò chơi. Trò chơi này vui kinh khủng. Nigel Tompkins, phó trưởng phòng (Thu mua), trườn bò qua bụi rậm, trong đầu rừng rực những cảnh đáng nhớ trong các bộ phim tuyệt vời của Clint Eastwood. Thế mà thử nghĩ xem, gã cứ tưởng là đào tạo quản lý sẽ chán ngắt chứ...
Họ có phải dự một buổi lên lớp, nhưng buổi đó chỉ toàn nói về súng bắn sơn và những thứ họ không bao giờ được làm với chúng, và Tompkins đã nhìn những khuôn mặt búng ra sữa của đám tập sự kình địch với mình, trong lúc tất cả bọn họ quyết tâm sẽ làm tất cả những việc ấy nếu có nửa cơ hội thoát tội. Nếu người ta nói kinh doanh là một khu rừng và cho ta một khẩu súng, thì Tompkins thấy rõ là họ không muốn ta chỉ nhắm bắn vào áo; điểm mấu chốt là phải kiếm được mấy cái đầu sếp bự về treo trên lò sưởi.
Hơn nữa, có tin đồn là ai đó bên Liên hiệp Thống nhất đã tự nâng triển vọng được thăng chức của mình lên đáng kể khi lén lút bắn sơn vào đầy tai cấp trên của mình, khiến ông này kêu ca là trong tai có tiếng ong ong giữa các cuộc họp quan trọng và cuối cùng đã bị thay thế vì lý do sức khỏe.
Rồi còn có đám tập sự ngang hàng với gã nữa - hay, để đổi phép ẩn dụ, là những tinh binh đang cùng tìm đường tiến lên phía trước, tất cả đều biết rằng chỉ có thể có một chủ tịch duy nhất của Công ty Công nghiệp Holdings (Holdings), và thằng khốn nạn nhất sẽ được nhận cái chức ấy.
Tất nhiên, có một cô cầm bảng kẹp giấy bên Nhân sự đã nói rằng các chương trình họ tham gia đều chỉ là để củng cố tiềm năng quản lý, khả năng cộng tác nhóm, năng lực sáng kiến, vân vân. Đám tập sự đã cố tránh mặt nhau.
Cho đến giờ thì mọi chuyện đã tiến triển rất thuận lợi. Chuyến chèo thuyền vượt thác đã xử gọn Johnstone (thủng màng nhĩ) và cuộc leo núi ở Wales đã cho ra rìa Whittaker (bong gân háng).
Tompkins nhét một viên đạn sơn nữa vào súng và lẩm nhẩm đọc những câu khẩu quyết kinh doanh. Hãy Xử Kẻ Khác Trước Khi Chúng Xử Ta. Giết hoặc Bị Giết. Ăn Cứt hoặc Ra Khỏi Bếp. Kẻ Mạnh Nhất Tồn Tại. Một Ngày Đáng Nhớ Nào.
Gã bò gần hơn đến bên hai người đứng cạnh bức tượng. Hình như họ không để ý đến gã.
Khi không còn chỗ nấp nữa, gã hít một hơi thật sâu và nhảy bật dậy.
“Được rồi, lũ đần độn kia, giơ ta... ôikhôôôôông...”
Một trong hai người ở đó đã bị thay thế bởi một thứ rất khủng khiếp. Gã ngất lịm.
Crowley trở lại hình dáng yêu thích của mình.
“Tôi rất ghét phải làm vậy,” hắn lầm bầm. “Tôi luôn sợ là mình sẽ quên cách biến trở lại. Lại còn làm hỏng bộ vét nữa chứ.”
“Cá nhân tôi thì nghĩ đám dòi là hơi quá lố,” Aziraphale nói, nhưng không có vẻ gay gắt lắm. Thiên thần phải tuân theo một số chuẩn mực đạo đức nhất định, và vì vậy, không như Crowley, y thích mua quần áo hơn là biến ra chúng từ không khí. Và cái áo này khá đắt.
“Ý tôi là, nhìn mà xem,” y nói. “Tôi sẽ không bao giờ tẩy sạch được vết bẩn này.”
“Dùng phép tẩy nó đi,” Crowley nói, lướt mắt khắp bụi rậm xem có tên quản