← Quay lại trang sách

- 16 -

Khoảng một giờ sau đó, dòng người di cư có trật tự về hướng đông bắt đầu trở nên thưa dần. Clay đang canh gác. Alice ở trong bếp, và đang ăn một chiếc bánh xăng đuých mà họ đã đem từ Boston tới – cô bé nói họ phải ăn hết những chiếc bánh này trước khi ăn đến những đồ hộp trong phòng để đồ ăn của Tom, bởi vì không ai biết được khi nào họ mới lại kiếm được thịt tươi – và Tom đang ngủ trong phòng khách, trên chiếc trường kỷ. Clay có thể nghe thấy tiếng ông ta ngáy đều đều.

Anh nhìn thấy một vài người đi ngược lại với dòng người di cư, và cảm thấy dường như cái trật tự trên phố Salem đã bắt đầu bị phá vỡ, một cái gì đó khó nhận biết bằng mắt thường mà chỉ có thể nhận biết bằng trực giác. Ban đầu anh nghĩ đó chỉ là một nhận định sai lầm do một số kẻ đi ngược chiều gây nên, những kẻ đang đi về hướng tây thay vì hướng đônng, những kẻ thậm chí còn nguy hiểm hơn cả dòng người kia, rồi anh nhìn những cái bóng. Mô hình di chuyển gọn gàng theo kiểu của một bầy cá trích mà anh quan sát thấy từ trước đó đã bắt đầu bị biến dạng. Và chẳng bao lâu chẳng còn một mô hình nào

Bây giờ ngày càng có nhiều người đi về hướng tây và một vài kẻ trong số họ đang nhồm nhoàm những thức ăn mà họ kiếm được từ cửa hàng bán đồ khô nào đó, có lẽ là cửa hàng Safeway mà Tom đã nhắc tới. Judy, con dâu của ông Scottoni đang vác một thùng kem sôcôla chảy nước, và toàn thân cô ta dính đầy nước kem; làn da bánh mật của cô ta khiến cô ta trông giống bà Bones trong một tiết mục xiếc rong. Và nếu trước đây ông Potowami đã từng là một người ăn chay thì giờ đây ông ta đang vừa đi vừa nhai ngấu nghiến những tảng thịt sống. Một người đàn ông béo núc ních mặc bộ complê bẩn thỉu đang cầm cái gì đó trông giống như một cái đùi cừu ướp đông, và khi Judy Scottoni tìm cách cướp của ông ta, ông ta giơ chiếc đùi cừu lên và đập mạnh vào giữa trán cô ta. Cô ta ngã nhào xuống đường, cái bụng chửa đè lên thùng kem sôcôla.

Lúc này đoàn người trên phố đã trở nên lộn xộn, và bạo lực cũng xuất hiện nhiều hơn, nhưng không giống như cảnh đánh lộn chiều qua. Ít nhất thì cảnh đánh lộn hoàn toàn mất trí ấy không tái diễn ở đây. Tại khu Trung tâm Malden, tiếng còi báo động mệt mỏi đã tắt hẳn. Từ phía xa thi thoảng vẫn vang lên những tiếng súng, nhưng không có tiếng súng nào gần như tiếng súng ngắn vang lên từ trung tâm thị trấn hồi nãy. Clay để ý quan sát xem có kẻ mất trí nào tìm cách đột nhập vào những căn nhà hai bên phố hay không, nhưng cho dù thi thoảng cũng có kẻ đi lên các bãi cỏ, không có một dấu hiệu nào cho thấy họ sắp biến thành kẻ đột nhập. Điều mà đa số bọn họ thường làm là đi loanh quanh, thi thoảng cướp thức ăn của nhau, thi thoảng đánh nhau hoặc cắn nhau. Ba hay bốn kẻ trong bọn họ – trong số đó có con dâu của ông Scottoni – đang nằm giữa đường, hoặc là đã chết, hoặc đang bất tỉnh. Clay đoán rằng phần đa những người đã đi qua trước cửa nhà Tom hồi sáng sớm đều vẫn ở trong khu quảng trường, đang tổ chức lễ hội khiêu vũ đường phố hoặc Lễ hội thịt sống thường niên Malden lần thứ nhất, và đội ơn Chúa vì điều đó. Dù vậy, anh vẫn cảm thấy lạ là tại sao ý thức bầy đàn, ý thức mục tiêu đã bị tan biến nhanh như vậy.

Sang chiều, khi cảm thấy quá buồn ngủ, anh đi vào bếp và thấy Alice đang gối đầu trên hai cánh tay và ngủ vùi. Chiếc giầy nhỏ, chiếc giầy mà cô bé gọi là Nike Trẻ em, nằm cạnh một bên tay. Khi anh đánh thức Alice, cô bé giật mình tỉnh dậy nhìn anh bằng ánh mắt hốt hoảng và ghì chặt chiếc giầy vào ngực như thể sợ anh cướp mất.

Anh hỏi xem Alice có thể canh gác một lát từ phía cuối hành lang mà không để ai nhìn thấy không. Alice đồng ý. Clay mang một chiếc ghế lại cho cô bé. Cô bé dừng lại ở cánh cửa dẫn vào phòng khách. “Nhìn kìa!”

Anh nhìn qua vai cô bé và thấy con mèo Rafer đang cuộn tròn nằm ngủ trên bụng Tom. Anh cằn nhằn một cách ngạc nhiên.

Cô bé ngồi lên chiếc ghế mà anh đem tới, khuất sau phía trong cửa đủ xa để nếu có ai nhìn vào bên trong, họ cũng không thể thấy được cô bé. Vừa liếc nhìn ra ngoài đường, cô bé đã nói, “Họ không di chuyển thành bầy nữa. Chuyện gì đã xảy ra vậy?”

“Chú không biết.”

“Mấy giờ rồi ạ?”

Anh liếc nhìn đồng hồ. “Mười hai giờ hai mươi.”

“Chúng ta nhận ra rằng họ đang di chuyển thành bầy vào lúc mấy giờ hả chú?”

“Chú không biết, Alice ạ.” Anh cố kiên nhẫn với cô bé nhưng mắt anh lại díu lại. “Sáu rưỡi? Bảy giờ? Chú không biết. Chuyện đó thì có gì là quan trọng?”

“Nếu chúng ta có thể tìm ra mối liên hệ giữa hành vi của họ và thời gian trong ngày thì điều đó sẽ rất có ích cho chúng ta, phải không chú?”

Anh nói với cô bé rằng anh sẽ nghĩ về điều đó sau khi đã dược ngủ một chút. “Vài giờ nữa, cháu lại đánh thức chú hoặc chú Tom dậy,” anh nói. “Có thể sớm hơn, nếu có chuyện gì đó xảy ra.”

“Sẽ chẳng có gì tồi tệ hơn nữa,” cô bé nói nhỏ. “Chú hãy lên gác đi. Trông chú có vẻ mệt lắm.”

Anh đi lên gác và vào căn phòng dành cho khách, cởi giầy và nằm xuống. Anh nghĩ thoáng qua về những gì cô bé vừa nói: Nếu chúng ta có thể tìm ra mối liên hệ giữa hành vi của họ và thời gian trong ngày. Có lẽ cô bé đã nghĩ đến điều gì đó. Có vẻ kỳ cục, nhưng cũng có thể…

Đó là một căn phòng dễ chịu, rất dễ chịu, đầy ánh nắng mặt trời. Nếu ta nằm trong căn phòng như thế này, ta dễ dàng quên đi rằng trong phòng thay quần áo có một chiếc rađiô mà ta không dám sờ vào. Nhưng không dễ dàng quên người vợ, dù đã ly thân nhưng vẫn còn tình yêu, có thể đã chết và cậu con trai – không chỉ yêu thương mà còn ngưỡng mộ – có thể đã bị mất trí. Dù vậy cơ thể có những mệnh lệnh riêng của nó. Và nếu có một căn phòng nào đó để dành riêng cho một giấc ngủ chiều, thì đó chính là căn phòng này. Con chuột vặn mình nhưng không cắn, và Clay ngủ thiếp đi gần như ngay khi anh vừa nhắm mắt lại.