← Quay lại trang sách

- 15 -

Alice đi xuống cầu thang lục lọi tủ quần áo của Tom để tìm bộ đồ mặc cho ban ngày. Trông cô bé đã có vẻ khá hơn. Clay ngồi trên chiếc trường kỷ, nghĩ về Sharon và Johnny, cố hình dung xem hai mẹ con đã làm gì và đã đi đâu, và cố tin rằng hai mẹ con họ đã may mắn được ở bên nhau trước khi sự việc xảy ra. Anh ngủ gà ngủ gật và trông thấy họ tại trường tiểu học Kent Pond, nơi Sharon dạy học. Họ trốn trong nhà thể thao cùng với vài chục người khác, ăn bánh xăng đuýnh lấy từ cửa hàng bán đồ ăn tự động và uống những hộp sữa nhỏ cũng lấy từ đó. Họ…

Alice đánh thức anh dậy bằng tiếng gọi từ trên cầu thang. Anh nhìn đồng hồ và thấy mình đã ngủ trên trường kỷ được gần hai mươi phút. Anh đã tỳ cằm xuống ngực mà

“Alice?” Anh đi đến chân cầu thang. “Không có chuyện gì đấy chứ?” anh thấy Tom cũng đang ngoái nhìn lại.

“Không có chuyện gì, nhưng chú có thể lên đây một lát được không?”

“Tất nhiên rồi.” Anh nhìn Tom, đứng dậy, và đi lên cầu thang.

Alice đang ở trong căn phòng dành cho khách trông có vẻ như không mấy khi được đón khách, cho dù hai chiếc gối nói lên rằng Tom đã nằm ngủ bên cạnh cô bé gần suốt đêm, và tấm khăn trải giường nhầu nát nói lên rằng đó là một đêm rất tồi tệ. Cô bé đã tìm được một chiếc quần kaki khá vừa vặn và chiếc áo phông có dòng chữ CÔNG VIÊN HỒ CANOBIE thêu trên ngực áo dưới hình một chiếc tầu lượn. Trên sàn là một bộ dàn âm thanh xách tay mà Clay và các bạn của anh đã từng khao khát theo kiểu mà Johnny đã từng khao khát một chiếc điện thoại di động màu đỏ. Clay và các bạn của anh gọi những dàn âm thanh như vậy là thùng bùm hay hộp xập xình.

“Cái này để trong phòng thay quần áo và pin trông có vẻ còn rất mới,” cô bé nói. “Cháu nghĩ thử bật nó lên và dò sóng vô tuyến xem sao, nhưng cháu không biết làm.”

Anh nhìn chiếc hộp xập xình trên sàn gỗ bóng loáng của căn phòng dành riêng cho khách, và anh cũng ngại. Nó có thể là một khẩu súng đã nạp đạn. Nhưng anh cảm thấy như có một sự thôi thúc khiến anh phải đưa tay ra và vặn chiếc núm chọn chương trình, lúc này đang hiển thị ở chữ CD, sang chữ FM. Anh nghĩ Alice cũng cảm thấy sự thôi thúc đó, và đó là lý do tại sao cô bé đã gọi anh. Thôi thúc được chạm vào một khẩu súng đã nạp đạn chắc cũng chẳng khác thế là mấy.

“Cô em gái của tôi đã tặng nó cho tôi cách đây hai năm, nhân ngày sinh nhật của tôi,” giọng Tom cất lên từ phía cửa khiến cả hai người giật mình. “Tôi đã nạp điện cho nó hồi tháng Bảy vừa rồi và xách ra bãi biển. Hồi tôi còn bé, chúng tôi thường ra bãi biển và nghe rađiô, cho dù chưa bao giờ tôi có một chiếc to như thế này.”

“Tôi cũng vậy,” Clay nói. “Nhưng tôi cũng muốn có một chiếc như thế này.”

“Tôi mang nó tới bãi biển Hampton ở New Hampshire cùng với một đống đĩa CD của Van Halen và Madonna, nhưng ần này thì khác. Từ đó tôi không sử dụng lần nào nữa. Tôi nghĩ là tất cả các đài đều đã ngừng phát sóng, đúng không?”

“Cháu tin là một số đài vẫn còn sóng,” Alice nói. Cô bé đang cắn chặt môi dưới. Clay nghĩ nếu cô bé không ngừng lại, nó sẽ bắt đầu chảy máu. “Các đài phát mà bọn bạn của cháu gọi là rô bốt tám mươi. Có những cái tên rất thân thiện như BOB hay FRANK, nhưng tất cả đều phát sóng từ một trung tâm máy tính truyền thanh khổng lồ nào đó ở Colorado rồi được tiếp sóng bằng vệ tinh. Bạn cháu nói như thế. Và…” Alice liếm chỗ môi mà mình vừa cắn. Vết cắn mọng máu dưới da. “Và đó cũng là cách phát sóng điện thoại di động bằng vệ tinh, đúng không chú?”

“Chú không biết,” Tom nói. “Chú nghĩ điều đó có thể đúng đối với những cuộc gọi đường dài… và chắc chắn là phải thế với những cuộc gọi xuyên Đại Tây Dương… và chú nghĩ rằng một bộ óc thiên tài nào đó có thể gài một tín hiệu vệ tinh vào tất cả các đài phát… những tháp truyền tín hiệu…”

Clay biết các đài phát mà ông ta đang nói tới, những bộ khung bằng thép với những chiếc đĩa tròn gắn đầy trên đó trông chẳng khác gì những xúc tu màu xám. Trong mười năm qua, những trạm tiếp sóng như thế đã mọc lên ở khắp nơi.

Tom nói, “Nếu chúng ta có thể bắt sóng một đài địa phương nào đó, chúng ta sẽ biết điều gì đang diễn ra. Biết phải làm gì, đi đâu…”

“Đúng vậy, nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu sóng phát thanh cũng bị nhiễm?” Alice nói. “Đó là những gì cháu muốn nói. Sẽ ra sao nếu chúng ta bắt phải loại sóng mà…” - Cô bé lại liếm môi và nói bằng giọng run run – “mà mẹ cháu đã bắt phải? Còn bố cháu nữa? Đúng, bố cháu có một chiếc điện thoại di động mới mua, đủ thứ chuông và còi - video, kết nối internet – bố cháu thích những thứ đó!” Cô bé cười to, một tiếng cười có cái gì đó như điên dại, tiếng cười của một người trong cơn choáng váng. “Sẽ ra sao nếu chúng ta bắt phải những sóng mà bố mẹ cháu đã nghe? Cả những người ở ngoài kia nữa? Các chú có muốn liều không?”

Ban đầu Tom im lặng. Rồi ông ta nói một cách thận trọng như để dò xét ý tứ của Clay và Alice. “Một người trong chúng ta có thể thử xem sao. Hai người còn lại sẽ tránh ra ngoài và chờ cho đến khi…”

“Không.” Clay nói.

“Không, xin đừng làm thế,” Alice nói. Cô bé gần như sắp khóc. “Cháu cần cả hai chú.”

Họ đứng quanh chiếc đài và nhìn nó chằm chằm. Clay thấy mình đang nghĩ đến những cuốn truyện khoa học viễn tưởng mà anh đã đọc hồi còn bé (đôi khi ngoài bãi biển và nghe Nirvana hát trên rađiô). Trong một vài cuốn truyện đó, thế giới đã bị hủy diệt. Rồi những người anh hùng đã xây dựng lại tất cả. Không phải là không có những cuộc đấu tranh và những trở lực, nhưng đúng thế, họ đã sử dụng những công cụ và công nghệ và xây dựng lại tất cả. Không có một cuốn truyện nào mà trong đó những nhân vật chính chỉ biết đứng nhìn chiếc rađiô như lúc này. Chẳng sớm thì muộn, ai đó sẽ phải sử dụng một công cụ nào đó hoặc sẽ bật rađiô lên, anh nghĩ, bởi vì phải có ai đó làm chuyện ấy.

Đúng vậy. Nhưng không phải là trong sáng nay.

Cảm thấy mình như là kẻ phản bội trước một điều lớn lao hơn những gì mà anh có thể hiểu, Clay bê bộ dàn âm thanh của Tom vào phòng thay đồ rồi đóng cửa lại.