- 11 -
Jordan đi về phía bầy người điện thoại đang ngủ. Clay, Tom, Denise và Dan đi về phía bên kia phòng. Ba người đàn ông lật chiếc máy bán hàng đã bị phá hỏng xuống rồi đẩy sát vào tường. Clay và Dan có thể dễ dàng nhìn ra ngoài qua những chiếc cửa sổ bằng cách đứng lên chiếc máy bán hàng ấy; riêng Tom thì phải kiễng chân. Clay kê lên đó một phiến đá để Denise cũng có thể trông thấy, và cầu nguyện để cô ta đừng bị ngã.
Họ thấy Jordan đi ngang qua chỗ bầy người đang ngủ, dừng lại mấy giây như để tính toán, rồi rẽ trái. Clay nghĩ anh vẫn tiếp tục trông thấy một hình người chuyển động, dù lý trí nói với anh rằng Jordan đã đi khuất, và lúc này đang đi vòng qua chỗ bầy người điện thoại.
“Theo anh thì phải mất bao lâu thì cậu ta mới trở lại?” Tom hỏi.
Clay lắc đầu. Anh không biết. Điều ấy tùy thuộc nhiều biến số - quy mô của bầy người chỉ là một trong những biến số ấy.
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bọn chúng kiểm tra phía sau
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Jordan kiểm tra phía sau xe và không tìm thấy thuốc nổ?” Dan hỏi, và Clay cố kiềm chế để bắt ông ta phải im miệng lại.
Thời gian nặng nề trôi đi. Ngọn đèn đỏ nhỏ xíu trên đỉnh Tháp Dù nhấp nháy. Pachelbel lại một lần nữa nhường chỗ cho Fauré, và Fauré nhường chổ cho Vivaldi. Clay thấy mình đang nhớ tới đứa bé bị ngã khỏi chiếc xe đẩy trong lúc đang ngủ, và người đàn ông đi cùng đứa bé ấy – có lẽ không phải là cha của nó - đã ngồi xuống bên nó và nói Gregory hôn nó, làm nó nín khóc ngay. Anh nhớ tới ông già khoác chiếc tay nải đang nghe bản Bước chân của chú voi con và nói Dodge cũng rất vui. Anh nhớ tới những chiếc lều xổ số lô tô thời anh còn bé, nhớ tới người đàn ông vừa gào lên trong loa Vitamin ánh sáng! vừa lôi mấy lọ B - 12 ra khỏi chiếc thùng. Dù vitamin D mới đúng là vitamin ánh sáng.
Thời gian có vẻ như mỗi lúc một trôi chậm lại, và Clay bắt đầu mất hy vọng. Lẽ ra lúc này họ đã phải nghe thấy tiếng động cơ xe.
“Có lẽ trục trặc chuyện gì đó.” Tom nói nhỏ.
“Có lẽ không phải thế.” Clay nói. Anh cố không để giọng nói của mình thể hiện sự lo âu nặng trĩu trong tim.
“Không, Tom nói đúng đấy,” Denise nói. Cô ta có vẻ như sắp khóc. Tôi rất yêu cậu bé, lẽ ra bây giờ cậu ấy đã phải trở lại mới đúng.”
Y kiến của Dan nghe lạc quan một cách đang ngạc nhiên. “Chúng ta không biết cậu bé gặp chuyện gì. Hãy hít thở sâu và cố kiềm chế trí tưởng tượng của các vị.”
Clay thử làm theo và đã thất bại. Bây giờ thì anh trông chờ từng giây. Bản Ave Maria của Schubert vang trên các loa phóng thanh. Anh nghĩ, anh sẵn sàng bán linh hồn để được nghe một bản rock and roll thực sự - Chuck Bery hát.“Oh, Carol,” U2 hát “Khi tình yêu đến thị thành”...
Bên ngoài, chẳng có gì ngoài bóng tối và những vì sao, cùng ngọn đèn đỏ chạy bằng pin trên đỉnh Tháp Dù.
“Ðỡ tôi lên bệ cửa sổ," Tom nói rồi nhảy xuống khỏi chiếc máy bán đồ “Tôi sẽ cố chui qua và sẽ tìm được cậu ta.”
Clay bắt đầu, “Tom, nếu tôi đoán sai về chuyện có thuốc nổ cài ở sau chiếc xe...”
“Thuốc nổ cái chết tiệt!” Tom nói như sắp hóa điên. “Tôi chỉ muốn tìm...”
“Này!” Dan kêu lên, và rồi: “Này, ổn rồi! CẬU BÉ ĐÂY RỒI!” Ông ta đấm mạnh tay vào chỗ tường bên cạnh cửa sổ.
Clay quay lại và thấy ánh đèn pha lóe sáng trong bóng đêm. Một dải sương mù đang bắt đầu nổi lên, và đèn pha giống như đang xuyên qua màn khói. Ánh đèn lóe lên rồi lại lịm đi, rồi lại lóe lên, và Clay có thể trông thấy rõ Jordan đang ngồi trên ghế lái của chiếc xe buýt và cố tìm hiểu xem cái gì điều khiển cái gì.
Lúc này ánh đèn pha bắt đầu bò về phía trước. Đèn cao.
"Ðúng thế, cưng,” Denise nói như nín thở. “Cứ thế, bé cưng.” Ðứng trên bệ đá, cô ta một tay nắm chặt tay Dan, tay còn lại nắm chặt tay Clay. “Giỏi lắm, cứ thế tiến lên.”
Ánh đèn pha xoay chiều chĩa về hướng khác, rọi những hàng cây phía rìa bên trái của bầy người điện thoại.
“Cậu bé đang làm gì vậy?” Tom hỏi bằng giọng gần rên rỉ.
“Ðó là chỗ khu Giải trí nhô ra một chút,” Clay nói. Không sao đâu.” Anh ngập ngừng. “Tôi nghĩ là sẽ ổn.” Chừng nào chân cậu bé không bị trượt. Chừng nào cậu ta không nhầm chân phanh với chân ga, và đâm thẳng vào khu giải trí rồi mắc kẹt ở đó.
Họ chờ đợi, và ánh đèn pha lại rọi về hướng ban nãy, chiếu sáng hông Hội trường Kashwakamak. Và qua ánh đèn pha, Clay hiểu ra tại sao Jordan lại phải mất nhiều thời gian như vậy. Không phải tất cả bọn người điện thoại đều nằm. Hàng chục kẻ - có lẽ là những kẻ bị cài đặt chương trình có lỗi – đang đi lang thang trong khu đất. Những bóng đen lang thang vô mục đích, vấp ngã rồi lại đứng lên, cố bước qua những thân hình đang nằm dưới đất, trong khi bản Ave của Schubert đang tràn đầy bóng đêm. Một kẻ trong số đó, một nam thanh niên mang một vết thương dài giữa trán, tiến lại gầnường và lấy tay lần dọc theo bức tường giống người mù.
“Đến đó là được rồi, Jordan,” Clay thì thầm khi trông thấy ánh đèn pha rọi lên những cột loa ở phía bên kia của khu đất rộng ngoài trời. “Đỗ xe lại và chạy về đây ngay.”
Cứ như là Jordan đã nghe thấy anh nói. Ánh đèn pha dừng lại. Trong giây lát, chỉ thấy những bóng hình lang thang của những người điện thoại không ngủ và màn sương mù đang dâng lên phía trên bãi thân người đang nằm sát vào nhau ngoài kia. Rồi họ nghe thấy tiếng động cơ rồ lên – cho dù trong tiếng nhạc chát chúa – và ánh đèn pha chồm về phía trước.
“Không, Jordan, cháu đang làm gì vậy?” Tom la lên.
Denise co rúm người lại và nếu Clay không kịp đưa tay đỡ lưng cô ta, cô ta đã ngã lăn xuống đất.
Chiếc xe nhảy chồm chồm vào giữa bầy người điện thoại đang nằm ngủ. Bên trên bầy người. Ánh đèn pha lúc chiếu xéo lên trên, khi chiếu ngang trước mặt, và lúc này đang chĩa thẳng về phía họ. Chiếc xe buýt lạng sang trái, trở về hướng cũ, rồi lại lạng sang phải. Một người điện thoại lang thang nổi lên giữa chùm ánh sáng của cả bốn chiếc đèn pha, rõ mồn một. Hai tay anh ta giơ lên như cầu thủ bóng đá vừa ghi được bàn thắng.
Jordan lái chiếc xe vào giữa bầy người và cho xe dùng lại, đèn pha vẫn chiếu sáng. Giơ tay lên che mắt cho đỡ chói. Clay có thể trông thấy một bóng người bé nhỏ - rất dễ phân biệt với những bóng người còn lại qua sự nhanh nhẹn của nó – chui ra khỏi cửa hông của chiếc xe và bắt đầu mở đường tiến về phía Hội trường Kashwakamak. Rồi Jordan ngã và Clay nghĩ là cậu bé đã gặp rắc rối. Mấy giây trôi qua, và Dân kêu lên. “Kia rồi, thằng nhóc kia rồi!” và Clay lại trông thấy cậu bé, lúc này đã nhích thêm được khoảng mười iát về phía bên trái nơi cậu bé vừa ngã xuống. Chắc chắn là Jordan đã bò một đoạn qua những thân người đang nằm kia trước khi cố đứng dậy.
Khi Jordan bước vào vùng chiếu sáng của những chiếc đèn pha, cách chiếc xe khoảng bốn mươi bộ, lần đầu tiên họ trông thấy rõ cậu bé. Không nhìn thấy khuôn mặt, vì ánh đèn chiếu từ phía sau, mà chỉ nhìn rõ cái cách di chuyển kì dị của cậu bé qua những thân người điện thoại. Những người điện thoại nằm dưới đất chẳng khác gì những xác chết, những kẻ lang thang ở xa thì không đáng quan tâm. Nhưng một vài kẻ lang thang ở gần đã đưa tay chộp cậu bé. Jordan cúi người tránh được hai kẻ, nhưng kẻ thứ ba, một người phụ nữ, đã túm được chỏm tóc của cậu bé.
“Ðể cho thằng bé yên!” Clay gầm lên. Anh không nhìn thấy người phụ nữ ấy, nhưng không hiểu sao anh tin chắc rằng đó chính là người phụ nữ đã từng là vợ anh. “Để cho nó đi!”
Cô ta không chịu buông tay, nhưng Jordan đã nắm được cổ tay cô tạ, vặn chéo, quỳ xuống một bên gối, và thoát khỏi tay cô ta. Người phụ nữ lại giơ tay chộp, lần này suýt nắm được lưng áo sơ mi của Jordan, nhưng rồi cô ta vấp ngã.
Clay trông thấy rất nhiều người điện thoại bị lỗi chương trình đang bu lại chỗ chiếc xe buýt. Có vẻ như ánh đèn pha đã cuốn hút bọn họ.
Clay nhảy xuống khỏi chiếc máy bán hàng (lần này Dan phải đỡ cho Denise khỏi ngã) và cầm chiếc xà beng lên. Rồi anh lại nhảy lên và nhìn ra ngoài cửa sổ. “Jordan!” anh cất tiếng gọi.
Jordan nhìn lên và vấp phải một cái gì đó - một cánh tay, một cẳng chân, một cái cổ. Khi cậu bé đang đứng dậy, một bàn tay thò ra từ trong bóng đêm và túm lấy cổ họng cậu bé.
“Chúa ơi, không!” Tom thì thầm.
Jordan lao mình về phía trước, và thoát khỏi bàn tay kia. Cậu bé loạng choạng tiến về phía Hội trường. Clay thấy rõ đôi mắt mở to đầy khiếp hãi, và khi Jordan tới gần hơn, anh có thể nghe thấy tiếng thở hổn hển của cậu bé.
Không thoát được, anh nghĩ. Không thể thoát. Và lần này quá gần, quá gần.
Nhưng Jordan đã thoát. Hai người điện thoại lúc này đang loạng choạng gần bức tường hoàn toàn không để ý đến Jordan khi cậu bé chạy qua chỗ bọn họ về phía đầu bên kia Hội trường. Cả bốn người nhảy xuống khỏi chiếc máy bán hàng và chạy băng qua hội trường như một đội đua, Denise với cái bụng chửa của cô ta dẫn đầu.
“Jordan!” cô ta vừa kêu to vừa cố kiễng chân lên. “Jordan, cháu đâu rồi? Lạy Chúa, hãy lên tiếng đi!”
“Cháu đây,” một giọng nói hổn hển cất lên. “Ở đây.” Một tiếng thở hổn hển khác. Clay lờ mờ nhận thấy Tom đang cười và đấm vào lưng anh. “Không ngờ” - úi - ui - “chạy trên thảm người lại... vất vả đến thế.”
“Cháu làm gì vậy?” Clay hét lên. Anh cáu vì không thể ôm chầm lấy Jordan và hôn lên khắp khuôn mặt cậu bé. Anh điên người vì không thể nhìn thấy cậu bé. “Chú nói là tới gần bọn chúng, chứ có phải là lái qua người bọn chúng đâu!”
“Cháu làm thế” - úi - úi - là vì thầy Viện trưởng.” Giọng Jordan vừa có vẻ như thách thức, vừa có vẻ như sắp đứt hơi. “Bọn chúng đã giết thầy Viện trưởng. Bọn chúng và Người Rách Nát của chúng. Bọn chúng và tay Hiệu trưởng Harvard khốn kiếp của chúng. Cháu muốn bọn chúng phải trả giá. Cháu muốn hắn phải trả giá.”
“Cháu làm gì mà mãi mới khởi động xe thế?” Denise hỏi. “Mọi người chờ sốt cả ruột!”
“Có hàng chục kẻ không ngủ mà cứ đi lang thang” Jordan nói. “Có khi đến hàng trăm. Vi rút chương trình hình như đang lan rất nhanh. Bọn chúng cứ đi lang thang vô phương hướng, hoàn toàn mất hết nhận thức. Cháu cứ phải tránh bọn người đó. Mãi cháu mới tới được chỗ chiếc xe. Rồi...” Cậu bé cười trong hơi thở hổn hển. “Nó không chịu khởi động! Mọi người có tin không? Cháu xoay chìa khóa rồi lại xoay chìa khóa, chẳng thấy gì ngoài mấy tiếng kêu tích tích. Cháu sợ quá, nhưng vẫn cố để không bị mất bình tĩnh. Bởi vì cháu biết thầy Viện trưởng sẽ rất thất vọng nếu cháu không giữ được bình tĩnh.”
“A, Jordan...” Tom nói trong hơi thở.
“Mọi người biết gì không? Cháu phải thắt dây an toàn. Ghế hành khách thì không cần, như thể chiếc xe buýt sẽ không khởi động nếu tài xế không thắt dây an toàn. Dù gì thì cháu cũng xin lỗi vì đã làm mọi người lo lắng. Nhưng cuối cùng cháu đã về đây.”
“Và ngăn hành lý không phải là trống rỗng chứ?” Dan hỏi.
“Ðầy những cục to trông giống những viên gạch. Xếp thành từng chồng.” Jordan lúc này đã dần lấy lại được hơi thở. “Được phủ một tấm chăn. Bên trên có một điện thoại di động. Chú Ray đã buộc chiếc điện thoại ấy vào hai cục thuốc nổ bằng một sợi dây cao su. Chiếc điện thoại đã được bật lên, và có vẻ đó là một cổng dẫn truyền, giống như cổng tải dữ liệu từ máy tính. Dây điện chạy vào giữa khối thuốc nổ. Cháu không trông thấy, nhưng cháu cá rằng ngòi nổ nằm giữa khối thuốc.” Cậu bé hít sâu một hơi. “Và trên chiếc điện thoại có ba vạch. Ðúng ba vạch.”
Clay gật đầu. Anh đã suy luận đúng. Kashwakamak được cho là vùng không phủ sóng điện thoại. Người điện thoại đã bắt được suy nghĩ đó từ một số người bình thường. Câu Kashwak - không - phủ - sóng lan nhanh như dịch đậu mùa. Nhưng đã có người điện thoại nào thực sự thử gọi một cú từ sân Hội chợ chưa? Tất nhiên là chưa. Tại sao lại phải thử? Khi anh là người viễn cảm, anh sẽ nắm bắt những thông tin lỗi thời. Và khi anh là thành viên của một bầy người viễn cảm - một bộ phận của chỉnh thể - anh sẽ bị lỗi thời gấp đôi.
Nhưng chắc chắn điện thoại di động vẫn hoạt động tốt trong khu vực này, và tại sao? Bởi vì công nhân xây dựng ngày nay cần có điện thoại đi động. Các kỹ sư làm việc cho Tập đoàn Giải trí New England lại càng cần, nhất là ở những nơi hẻo lánh và đi lại khó khăn như thế này. Nếu thế thì cần phải có tháp truyền tín hiệu chứ? Không sao, họ sẽ kiếm phần mềm cần thiết và tự lắp đặt cho mình một thiết bị tiếp và truyền sóng. Bất hợp pháp? Tất nhiên, nhưng ba vạch sóng trên chiếc điện thoại di động mà Jordan nhìn thấy kia là minh chứng thể hiện nó đã làm việc tốt và vẫn đang làm việc tốt, vì nó được chạy bằng pin. Họ đã lắp đặt thiết bị ấy trên đỉnh cao nhất của khu Hội chợ.
Chính là đỉnh Tháp Dù.