Chương 9 Tìm kiếm đường ra
34. Người đầu tiên cải cách thuế phí
Năm 1999, nhân dịp thành lập nước trong bốn mươi năm, đài truyền hình tỉnh An Huy cho chiếu một bộ phim truyền hình chuyên đề có tên là “Đất đai - Con người - Thiên đường”, trong phim có đoạn như thế này:
“Thực hiện “khoán lớn” đã làm cho nông nghiệp thoát khỏi cảnh khó khăn làm người ta lo nghĩ, nhưng cũng đặt nông nghiệp vào một ngã tư sau: đất đai sau khoán sẽ đi về đâu, phát triển sức sản xuất hơn nữa như thế nào?”
Bộ phim đoạt giải nhất trong tiết mục chuyên đề văn nghệ truyền hình toàn quốc này đề xuất vấn đề nhưng lại không nói phương pháp giải quyết vấn đề. Lúc đó, thực hiện “khoán lớn” đã được hơn mười năm, nông thôn An Huy đúng là đang ở trước một ngã tư mới, và toàn bộ nông thôn Trung Quốc cũng đều đang đứng trước một ngã tư như vậy!
Người ta chờ đợi nông thôn Trung Quốc xuất hiện lần nhảy vọt thứ hai, nông dân Trung Quốc khát vọng được cười một lần nữa. Thế nhưng, các loại mâu thuẫn không ngừng sâu sắc thêm và những vấn đề mới xuất hiện trong thôn, đã làm cho người ta lo lắng không yên, con đường ra của bước cải cách thứ hai ở nông thôn, rốt cuộc ở chỗ nào?
Thực ra một năm trước khi chiếu bộ phim truyền hình này, ở An Huy, ở ban điều tra nghiên cứu thuộc văn phòng ủy ban tỉnh gần ngay cạnh đài truyền hình An Huy, đã có người trả lời vấn đề này rồi.
Người đó là kỹ sư nông nghiệp cao cấp, sau này được vinh dự gọi là “người đầu tiên cải cách thuế phí Trung Quốc”, tên là Hà Khai Ấm.
Đó là một người đàn ông đã trải qua những bước long đong. Dáng người ông có chút đặc biệt, rất gầy, trên bộ mặt bình thường chỉ có chiếc mũi cao là gây cho người ta ấn tượng sâu sắc, và đôi mắt hình như mỗi giờ mỗi phút đều chìm trong suy nghĩ. Đó là một phần tử tri thức tích cực, dám nói thật nhưng lại quan tâm việc lớn của nhà nước. Vì có tính cách đặc biệt đó nên năm 1957, khi còn là sinh viên trường đại học nông nghiệp Bắc Kinh, ông đã bị quy là “phái hữu”, phải xuống một nông trường thanh niên hoang vu ở gần Bắc Đại Hoang làm việc hai mươi năm. Sau này được sửa “phái hữu”, Hà Khai Ấm, 43 tuổi mới trở về quê hương - huyện Thiên Trường tỉnh An Huy. Lẽ ra ông hoàn toàn có thể sống yên ổn, thế nhưng cuộc cải cách vĩ đại của nông thôn Trung Quốc đến sau đó, lại một lần nữa làm bùng cháy lòng nhiệt tình của ông, lại thêm Vương Nghiệp Mỹ, bí thư huyện ủy Lai An vốn là lãnh đạo cũ của ông, cũng thích quan tâm việc lớn quốc gia, thích suy nghĩ những vấn đề nóng của xã hội. Khi Vương Nghiệp Mỹ, người đầu tiên trong cả nước đập bàn quyết định làm “khoán sản lượng tới hộ” ở huyện Lai An, ông đã theo sát Vương Nghiệp Mỹ, tiến vào tuyến đầu của cuộc cải cách nông thôn; sau đó ông lại theo Vương Úc Chiêu, bí thư địa ủy Trừ Huyện, tích cực ủng hộ thôn Tiểu Cương, huyện Phụng Dương làm “khoán lớn”, liều chết thực hiện rộng rãi chế độ khoán gắn sản lượng đến gia đình. “Khoán lớn” giành được thành công trong cả nước, với tư cách là công thần trong cuộc cải cách này, Vương Úc Chiêu được cử làm tỉnh trưởng tỉnh An Huy, và sau đó đã điều Hà Khai Ấm về văn phòng ủy ban tỉnh. Một cán bộ kỹ thuật chuyên nghiên cứu khoa học nông nghiệp, nay chạy đến cơ quan hành chính liệu có thể làm được gì? Thế là buộc ông phải bắt đầu công tác nghiên cứu chính sách nông nghiệp vĩ mô.
Nói ra kể cũng khéo. Tháng 10 năm 1988, Ban nghiên cứu chính sách nông thôn Trung ương và trung tâm nghiên cứu phát triển nông thôn của Quốc Vụ viện, liên hiệp cùng với mấy đơn vị như Viện khoa học xã hội Trung Quốc, Nhân dân nhật báo… khởi xướng một “Hội nghị nghiên cứu thảo luận về lý luận cải cách mười năm ở nông thôn Trung Quốc”. Lúc này Vương Úc Chiêu đã giữ chức phó chủ nhiệm Ban nghiên cứu chính sách nông thôn Trung ương và Trung tâm nghiên cứu phát triển nông thôn của Quốc Vụ viện, đơn vị của ông dẫn đầu tổ chức hội nghị nghiên cứu thảo luận lý luận này, nên tự nhiên ông không thể quên được Hà Khai Ấm, người mà ông rất tán thưởng. Vương Úc Chiêu cho thư ký của mình gửi riêng bản trưng cầu viết bài cho Hà Khai Ấm.
Sau khi nhận được bản trưng cầu viết bài, Hà Khai Ấm rất phấn khởi. Đúng vậy, nếu tính từ lúc thôn Tiểu Cương thực hiện “khoán lớn” đến nay, thì cải cách nông thôn Trung Quốc đã được mười năm, đúng là đã xuất hiện nhiều vấn đề mới chờ giải quyết, thế nhưng bước cải cách thứ hai của nông thôn Trung Quốc rốt cuộc là cải cái gì? Cải như thế nào? Từ Trung ương đến địa phương, trên dưới đều đang thăm dò. Và ông cũng đang suy nghĩ về các mặt đó. Sự tín nhiệm của lãnh đạo cũ khiến ông ngầm hạ quyết tâm: nhất định phải đưa ra được kiến giải thấu triệt.
Ông khẩn trương hành động.
Ông tìm đến Kim Tiến và Chu Văn Căn, phòng nghiên cứu kinh tế nông thôn của viện khoa học xã hội tỉnh, còn có thêm Cố Hàm Tín, vợ ông đang công tác ở viện nghiên cứu nông nghiệp, thế là 4 người, tiến hành một cuộc nghiên cứu điều tra sâu sắc.
Cũng bắt đầu từ mùa xuân năm đó, Trung Quốc xuất hiện “làn sóng dân công” cuồn cuộn dữ dội. Sự xuất hiện của “làn sóng dân công” đã làm cho Hà Khai Ấm nhạy cảm ý thức được, làm ruộng đã không đủ nữa, sự gia tăng thu nhập của nông dân có xu thế chậm lại, xuất hiện tăng trưởng âm, trong khi đóng góp của nông dân ngày một tăng, mâu thuẫn mới không ngừng sản sinh, lại thiếu biện pháp cải cách cần thiết, các hình các loại mâu thuẫn càng tích lại càng nhiều, đã cản trở một cách nghiêm trọng sự phát triển bền vững của kinh tế nông thôn Trung Quốc. Lại còn vì mười năm “khoán lớn” đã đến hạn, nông dân lo lắng đất canh tác sẽ không là của mình nữa, không còn tình cảm đất đai đời đời sống chết dựa vào nhau nữa, nên lũ lượt vào thành phố tìm con đường ra cho cuộc sống mới, không nói tới chuyện đã xuất hiện nhiều diện tích bị bỏ hoang, mà những người còn ở lại nông thôn phần lớn đều là người già, phụ nữ và trẻ con. Những điều này làm cho lương thực bị giảm sản lượng lớn, công tác nông thôn càng thêm nhiều khó khăn.
Hà Khai Ấm nghĩ, muốn tìm đúng đột phá khẩu cho cuộc cải cách bước hai tại nông thôn Trung Quốc, trước tiên phải làm rõ một số mâu thuẫn mới, mới xuất hiện.
Rốt cuộc là những mâu thuẫn mới nào?
Tổng hợp kết quả nghiên cứu điều tra của bốn người, Hà Khai Ấm cho rằng về đại thể có thể quy nạp thành:
Mâu thuẫn giữa quyền sở hữu đất đai nhận khoán, quyền sử dụng và quyền sản xuất;
Mâu thuẫn giữa sự tách rời giá cả và giá trị nông sản phẩm;
Mâu thuẫn giữa kết cấu nhị nguyên thành thị, nông thôn và nhất thể hóa kinh tế;
Mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ và thị trường lớn, tuần hoàn đan xen giữa việc mua lương thực khó và bán lương thực khó;
Mâu thuẫn giữa tăng trưởng thu nhập của nông dân chậm chạp với đóng góp không ngừng gia tăng;
Mâu thuẫn giữa kết cấu xã, vùng đóng cửa với lưu thông lớn, mở cửa lớn;
Mâu thuẫn giữa kết cấu ngành sản xuất nông thôn với kết cấu công ăn việc làm;
Mâu thuẫn giữa nghèo nàn tương đối với cùng giàu có;
Mâu thuẫn giữa sự không tương thích giữa trình độ sức sản xuất thấp và trình độ khoa học kỹ thuật;
Mâu thuẫn giữa sự xây dựng không đồng bộ văn minh vật chất và văn minh tinh thần.
Đương nhiên còn có thể kể ra một số mâu thuẫn khác và nêu nội dung cụ thể của chúng. Thế nhưng ông cho rằng, xét cho đến cùng, những mâu thuẫn đó là những hiện tượng tất nhiên xảy ra do sự cọ sát và va đập khó thể tránh khỏi trong thời kỳ từ thể chế cũng kinh tế kế hoạch chuyển quỹ đạo sang thể chế mới kinh tế thị trường.
Muốn giải quyết những mâu thuẫn trên, cần phải đưa ra các biện pháp cải cách tương ứng.
Lúc này do chịu ảnh hưởng của tinh thần “khoán lớn” của thôn Tiểu Cương, tư tưởng của giới học thuật An Huy còn tương đối sống động. Khi điều tra ở bên dưới, Hà Khai Ấm phát hiện, đảng ủy, chính quyền các cấp đều xuất hiện một số lớn cán bộ lãnh đạo muốn làm việc, có thể làm việc và dám làm việc, bọn họ đã nhằm thẳng vào các loại mâu thuẫn mới vừa xuất hiện ở nông thôn, lần lượt tiến hành những thí điểm cải cách với nội dung khác nhau. Ví dụ như, Trấn Thái Nam huyện Thiên Trường đã bắt tay làm thử “phiếu hộ tịch màu xanh”; “sáu trạm một công ty” huyện Trừ đang cải cách đồng bộ thể chế khoa học kỹ thuật nông thôn, huyện Túc tích cực phát triển quỹ hợp tác giúp đỡ lẫn nhau; thành phố Phụ Dương thành lập trường học hương trấn và trường trung học chuyên nghiệp bồi dưỡng kỹ thuật đầu tiên; ngoài ra, huyện Lâm Tuyền đã bắt đầu thăm dò công tác lưu chuyển quyền sử dụng ruộng đất, huyện Dĩnh Thượng ra sức thi hành rộng rãi hợp tác cổ phần xây dựng xí nghiệp nông nghiệp, huyện Thư Thành mạnh dạn thực hiện chế độ bảo hiểm lao động, nghỉ hưu, dưỡng lão với cán bộ thôn…
Phía Nam từ Hưu Ninh, phía Bắc đến Tiêu Đãng, phía Đông bắt đầu từ Thiên Trường, phía Tây đến Lâm Tuyền trên đất lớn Giang Hoài ngang dọc ngàn dặm, nơi nào cũng nở rộ hoa cải cách, chúng đúng là đã cung cấp những suy nghĩ cải cách vừa mới lạ lại vừa phong phú cho công tác nghiên cứu chính sách nông nghiệp vĩ mô.
Nhiệt tình nghiên cứu của Hà Khai Ấm được kích thích một cách chưa bao giờ có. Trong đoạn thời gian này, ông trở nên phấn khởi khác thường.
Tất nhiên ông cũng tỉnh táo thấy rằng, nhiều loại mâu thuẫn như vậy tồn tại trong nông thôn là đan xen khó gỡ, không nên và cũng không có khả năng đồng thời đưa ra nhiều biện pháp cải cách; biện pháp tốt nhất để giải quyết mâu thuẫn đã được Mao Trạch Đông trình bầy tinh túy trong “Bàn về mâu thuẫn” từ lâu: mâu thuẫn của sự vật là tồn tại phổ biến, lại là nhiều mặt, không lúc nào không có, không chỗ nào không ở, chỉ có tìm ra mâu thuẫn chủ yếu và mặt chủ yếu của mâu thuẫn rồi tiến hành giải quyết, thì các mâu thuẫn thứ yếu khác có thể nhân đà mà giải quyết dễ dàng.
Sau khi nghiêm túc phân tích tình huống xuống dưới điều tra nghiên cứu của mấy đồng chí khác, Hà Khai Ấm hiểu được, vấn đề cần giải quyết trước mắt nhất, trước tiên là khoán vĩnh cửu ruộng đất, cho nông dân quyền sử dụng lâu dài; thứ hai là phải cải cách chế độ thuế phí nông thôn, giảm nhẹ về căn bản đóng góp của nông dân.
Khi ông đem mọi suy sâu nghĩ kỹ của mình biến thành chữ nghĩa, một bản luận văn rất có kiến giải đã hoàn thành. Ông đặt tên là: “Con đường ra của cuộc cải cách bước hai tại nông thôn ở đâu?”, sau đó gửi lên Bắc Kinh.
Vì bài viết đó mà Hà Khai Ấm bắt đầu đặt chân lên con đường nghiên cứu cuộc cải cách lần thứ hai của nông thôn, mặc dù trên con đường đó có đầy gai sắc và bùn lầy, lại thường ở vào hoàn cảnh bất lợi, nhưng ông không bao giờ quay đầu.
Thế nhưng, Hà Khai Ấm không hề nghĩ là, cách việc này không lâu, Bắc Kinh đã xảy ra cơn sóng gió chính trị vào lúc xuân hè giao nhau năm 1989 [2]. Theo gió mà lên là sự ngóc đầu lại của một số tư tưởng tả. Cũng chính vào thời gian này nhà nước ban hành chính sách vay vốn ngân hàng “chỉ thu không cho vay” thực hiện với xí nghiệp hương trấn, khiến xí nghiệp hương trấn nhanh chóng suy thoái, tình hình nông nghiệp trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong thời gian này, Hà Khai Ấm còn phát hiện, có một trào lưu tư tưởng phủ định “khoán lớn” trong nông nghiệp đang lan ra các nơi, phát hiện được điều này, ông cảm thấy quá ngạc nhiên.
Ông đang mang hết tâm trí nghiên cứu cải cách bước thứ hai của nông thôn, thế mà lại có người ngay thành quả của cuộc cải cách lần thứ nhất cũng muốn bôi sạch.
Thời gian này, trong xã hội xuất hiện không ít sự tình kỳ quặc: trước tiên là trong tỉnh có người đứng ra công khai phủ định “khoán lớn”, cho rằng dù khoán sản lượng đến hộ làm cho nông dân có được cơm ăn, nhưng phương hướng lớn xã hội chủ nghĩa phát triển nông thôn vẫn chưa giải quyết được. Tiếp đó “Bắc Kinh nhật báo” đã phát biểu một bài viết dài, cổ vũ xây dựng lại kinh tế tập thể, chỉ trích “khoán lớn” nông nghiệp: “đằng sau loại quan niệm cứng nhắc mới này thường thường che giấu cái hạt nhân bên trong như phản đối hợp tác sản xuất trong nông nghiệp, phản đối chế độ sở hữu tập thể về đất đai, ở trình độ nhất định đã trở thành sự trói buộc đi sâu cải cách nông thôn”, chỉ còn không nói tới thời đại công xã nhân dân “một là lớn hai là công” nữa thôi. Không chỉ có nói, mà còn đưa ra điển hình tiên tiến ngoại thành Bắc Kinh tổ chức lại cùng làm giàu.
Lòng Hà Khai Ấm nặng như chì.
Ông nghĩ, chế độ “khoán lớn” của kinh doanh khoán đến gia đình là sự lựa chọn và sáng tạo chế độ dưới thể chế kinh tế kế hoạch, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa và sức sản xuất nông thôn, tính hạn chế của nó đã từng bước bộc lộ ra, khó có thể thỏa mãn đòi hỏi đi ra thị trường của nông dân: muốn trồng cây trên diện tích lớn lại không thể thông qua thị trường để có được đất đai sử dụng; không muốn cấy trồng cũng lại không thể thông qua một trình tự nhất định hoặc trong phạm vi quy hoạch của thị trường để tự do nhường lại quyền sử dụng ruộng đất. Thực ra cái mà nông dân được trong “khoán lớn” chỉ là quyền sử dụng chưa hoàn toàn. Làm thế nào để hoàn thiện hơn nữa chế độ khoán gắn sản lượng, mới là cái trước mắt chúng ta rất cần làm. Tuyên truyền một cách không thích đáng quy mô kinh doanh, thực chất là muốn trở về tập thể hóa, mà điều này rõ ràng đã bị lịch sử chứng minh là đi không được. Hơn nữa, cùng với việc làm ruộng không kiếm được tiền, hiện tượng bỏ hoang ở các nơi trong nông thôn khiến người ta lo lắng đã ngày càng nghiêm trọng, vào giờ phút đó, làn gió phủ định “khoán lớn” muốn quay lại đường cũ được dấy lên, chỉ khiến lòng người hoảng hốt, nông dân càng thêm không muốn vụ nông.
Nghĩ đến những cái đó, mắt ông lại hiện lên bốn chữ lớn “căn bản muôn năm” đập vào mắt người ta trên bức tường loang lổ ở huyện Phụng Dương. Nó giống như ngôi sao sớm tuyên bố rõ ràng với người sau.
Đúng thế, nước ta là nước lớn nông nghiệp, trong 1 tỷ dân số đã có 800 triệu nông dân, tình trạng nông nghiệp như thế nào quan hệ trọng đại đối với việc phát triển kinh tế và củng cố chính quyền nước ta, đoàn kết và dựa vào đông đảo nông dân phải là điểm xuất phát của chính sách của đảng ta, nhưng lâu nay, chúng ta đã nợ nông dân quá nhiều, mặc dù giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân liên quan đến vấn đề thể chế kinh tế chính trị ở tầng nấc sâu xa của Trung Quốc là một công trình hệ thống, không thể chỉ mong giải quyết một việc là xong, vì vậy nhìn kỹ lại, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân của Trung Quốc đã tới mức cấp bách và không thể chậm trễ được nữa.
Lòng ham muốn báo đáp tổ quốc hiến thân cho nông nghiệp khiến ông trào dâng nhiệt huyết.
Thế là ông ngồi xuống, ngọn cờ rõ ràng viết bài: “Kiến nghị thực hiện khoán vĩnh cửu với đất canh tác, trao cho nông dân quyền sử dụng lâu dài “nhằm thẳng vào trao lưu tư tưởng phủ định “khoán lớn”.
Ông cảm thấy không phải mình đang viết mà là những tình cảm sôi sục đang tung bay trên trang giấy:
“Từ sau hội nghị Trung ương 3 khóa 11 của đảng, nền kinh tế quốc dân nước ta đã phát triển nhanh chóng chính là nhờ chúng ta đã bắt tay vào cải cách nông thôn trước, thực hiện chế độ trách nhiệm khoán gắn sản lượng. Cải cách nông thôn đã thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế thành thị và cải cách thể chế chính trị, làm cho các hạng mục xây dựng nước ta đều xuất hiện sự thay đổi to lớn, lớn mạnh vượt bậc. Thế nhưng cùng với sự phát triển của tình hình khách quan và việc triển khai cải cách bước hai nông thôn, cũng đã xuất hiện một loạt vấn đề đòi hỏi chỉnh đốn xử lý, đòi hỏi tiến hành điều chỉnh về chính sách. Những vấn đề này tập trung thể hiện ở tính tích cực của nông dân không cao, tổng sản lượng lương thực quanh quẩn một thời gian dài dưới mức cao nhất trong lịch sử của năm 1984, lực lượng dự trữ phát triển sau này của nông dân không đủ, đặc biệt là đã hình thành “chế độ hai giá lương thực”, điều này về căn bản đã kìm nén sản xuất lương thực.
Tiếp đó, ông đã kết hợp lý luận với thực tiễn, tiến hành trình bày rất đầy đủ:
“Đất canh tác nhiều năm nay quy vào sở hữu tập thể, nông dân ngoài việc nộp thuế nông nghiệp ra, còn phải nộp các khoản đóng góp và giữ lại cho tập thể. Mà tật bệnh của chế độ sở hữu rất nhiều, phần lớn các nơi không có người quản, chủ thể là giả dối, trên thực tế, đất canh tác giống như là tư hữu của nông dân, có thể tùy ý dùng đất làm nhà, đào ao,… gây tổn thất cho nhà nước; mặt khác, tập thể lại có quyền điều chỉnh đất khoán, nhiều tập thể, cán bộ vùng ngoại ô thành, trấn đã coi đất canh tác như “tài sản tư hữu”, dựa vào việc trưng thu đất để phát tài bất nghĩa, làm cho đất canh tác cả nước mỗi năm giảm bớt với tốc độ hơn 533.000 ha, trong khi dân số lại không ngừng gia tăng, trong hơn 40 năm thành lập nước, dân số của nước tăng hơn hai lần, diện tích đất canh tác bình quân đầu người giảm một nửa, trở thành nguy cơ lớn đe dọa toàn dân tộc. Truy tìm nguyên nhân, thì điều then chốt là quyền tài sản đất canh tác mơ hồ, cái chủ thể “tập thể” là trong thực có giả dối, trong giả dối có thực, khiến trong lòng người ta không chắc chắn, chẳng ai biết quý trọng đất đai”.
Viết đến đó, ông trình bày tiếp những ý tưởng mà mình đã suy nghĩ kỹ về khoán có tính vĩnh cửu ruộng đất và cải cách chế độ trưng thu thuế phí nông thôn:
“Từ bài học trên, chúng ta nên kịp thời áp dụng một động tác lớn, tức là tiến hành cải cách chế độ sở hữu với đất canh tác, nhất là loạt thu hồi đất đai về sở hữu nhà nước. Quốc thổ thuộc về quốc hữu là lý đương nhiên. Đồng thời triệt để tách rời quyền sở hữu (quyền đáy ruộng) và quyền sử dụng (quyền mặt ruộng) của đất canh tác, thực hiện chế độ khoán lâu dài, tức là ký hợp đồng trên cơ sở đất khoán hiện có, khoán lâu dài cho nông dân cấy trồng, đồng thời có ghép, đổi thích đáng những mảnh đất nhỏ, phân tán, khiến đất khoán của mỗi hộ tập trung vào một khoảng liền. Hơn nữa quyền sử dụng có thể kế thừa và được phép chuyển nhượng, nhưng chuyển nhượng quyết không phải là bán. Nếu đất canh tác vẫn quy về sở hữu tập thể, để cho nông dân sau khi nộp lên trên các loại thuế nông nghiệp, là có lý do để vi phạm pháp luật; còn nếu đất canh tác là của quốc gia, nông dân nhận khoán đất canh tác với nhà nước, thế thì, việc nông dân nộp lương thực cho nhà nước là việc không thể nghi ngờ gì”.
Ông cho rằng biện pháp cụ thể trưng thu thuế nông nghiệp nên là: “Lấy sản lượng trung bình một mẫu từ ba đến năm năm gần nhất để tính số phải nộp, thu 10% không thay đổi, tăng sản lượng cũng không tăng thuế, để kích thích tính tích cực tăng sản lượng của nông dân, từ nay trở đi cứ 10 năm ký hợp đồng một lần. Tính toán tới việc trợ cấp tiền lương do cán bộ nông thôn và các khoản giữ lại rất không quy phạm khiến nông dân phổ biến phản cảm, kêu gào đóng góp quá nặng, chúng ta đừng ngại hợp nhất các khoản đóng góp, giữ lại và lượng thực cộng vào làm một để trưng thu, tăng thêm 5% nữa, tức là trưng thu 15% sản lượng một mẫu canh tác, các khoản thuế nông nghiệp và đóng góp, giữ lại khác đều không còn nữa. Trợ cấp tiền lương cho cán bộ thôn và các khoản khác, dùng 1/3 lương thực công tính thành tiền theo giá định mua trả lại cho tài chính xã sử dụng thống nhất. Từ đó trở đi, bất kỳ ai, đều không có quyền phân bổ hoặc trưng thu một xu nào nữa của nông dân, quyền lợi của nông dân được pháp luật bảo hộ, có địa vị pháp nhân tương đối”.
Ông cho rằng đi tốt hai nước này, toàn bàn cờ sẽ sống động. Làm như vậy, không những làm sống kinh tế nông thôn mà cục diện nông dân đóng góp quá nặng cũng được kiềm chế về cơ bản.
Phương án cải cách thuế phí “trưng thu thực thuế nông nghiệp” do ông đề xuất sau khi đã điều tra nghiên cứu kỹ. Thậm chí ông còn bỏ ra rất nhiều thời gian để nghiên cứu ba lần cải cách thuế phí quan trọng nhất trong lịch sử Trung Quốc là đời Đường, đời Minh và đời Thanh…
Nhìn suốt lịch sử mấy ngàn năm thấy, nông dân làm ruộng nộp lương vua đều là việc thiên kinh địa nghĩa. Sau giải phóng, nông thôn Trung Quốc thực hiện cải cách ruộng đất, ruộng đất được phân chia không phải trả tiền cho nông dân cấy trồng, nhưng “lương vua” cũng vẫn phải nộp. Trong một thời gian dài sau ngày thành lập nước nguồn chủ yếu thu nhập tài chính quốc gia là thuế hiện vật công lương.
Hà Khai Ấm cho rằng, khôi phục thuế hiện vật nông nghiệp, nhà nước có thể dùng công lương không phải trả tiền, cung cấp khẩu phần lương thực với giá ổn định cho cư dân thành thị, cắt bỏ được ba lô nặng nề trợ cấp tài chính, đồng thời triệt để mở cửa thị trường lương thực, để cho nông dân thu được nhiều lợi ích thiết thực hơn trong việc phát triển sản xuất lương thực hàng hóa.
Ông đơn giản hóa những biện pháp cụ thể của ý tưởng của mình thành một câu: thống nhất nộp đủ cho nhà nước, cho tập thể, còn thừa đều là của mình.
Như vậy ông đã liên hệ hữu cơ cải cách bước hai và cải cách bước một ở nông thôn lại với nhau bằng một câu nói. Thậm chí ông còn gọi cải cách bước hai là “khoán lớn lần thứ hai”.
Để nói rõ hơn nữa tính có thể thi hành được của những ý tưởng trên, Hà Khai Ấm còn tính toán một số con tính sau.
“Lấy An Huy làm ví dụ. Sản lượng lương thực năm của tỉnh An Huy là 25 triệu tấn, nếu thu địa tô theo 15% tổng sản lượng lương thực thì được 3,75 triệu tấn lương thực không phải trả tiền; hiện nay nhiệm vụ định thu mua là 3,55 tấn, cộng thêm phần mua theo giá thỏa thuận nữa cũng được 3,75 triệu tấn; còn nếu theo diện tích canh tác trưng thu, toàn tỉnh với trên 4,3 triệu ha đất trồng trọt, trừ đi vùng nghèo tạm thời miễn thu, thì cũng còn chí ít trên 3,3 triệu ha đất trồng trọt phải thu địa tô, trung bình mỗi ha trong toàn tỉnh thu 1.125 kg thì trên 3,3 triệu ha cũng thu được lương thực địa tô là 3,75 triệu tấn, bảo đảm đủ nhu cầu bình thường. Làm như vậy không những tài chính tỉnh mỗi năm bỏ được bao phục trợ cấp bù giá lương thực 1,2 - 1,3 tỷ NDT mà vẫn cung cấp lương thực cho nhân khẩu phi nông nghiệp với giá hiện có, chính quyền được nhiều cái lợi”.
“Lại xem xét từ cả nước. Tổng sản lượng lương thực hàng năm của cả nước vào khoảng 400 triệu tấn, nếu thu công lương theo tỷ lệ 15%, nhà nước sẽ được 60 triệu tấn; còn nếu thu theo diện tích, cả nước có hơn 106 triệu ha canh tác, trừ đi hơn 26 triệu ha ở các vùng nghèo khó không thu, vẫn còn 80 triệu ha, nếu mỗi ha thu 750 kg, thì vẫn có thể thu được 60 triệu tấn công lương. Trước mắt nhà nước mỗi năm định thu mua khoảng 50 triệu tấn mà không dễ dàng. Nếu thực hiện chế độ tô trách này, nhà nước mỗi năm nắm chắc 60 triệu tấn lương thực mà không phải trả tiền, dùng để cung cấp cho nhân khẩu phi nông khẩu cả nước, rõ ràng là tốt hơn 50 triệu tấn hiện nay”.
Sau khi đã tính sổ cho tỉnh An Huy và cả nước, Hà Khai Ấm đã tính sổ tỉ mỉ cho nông dân về mấy khoản sau:
“Vậy thì, nếu nộp công lương bằng hiện vật cho quốc gia, liệu nông dân có giảm bớt thu nhập không? Kết luận là ngược lại. Lấy huyện Thiên Trường, nơi sản lượng lương thực bình quân đầu người nhiều nhất và nhiệm vụ định thu mua nặng nhất tỉnh An Huy làm ví dụ. Diện tích canh tác bình quân đầu người của huyện Thiên Trường là 1.286 m2, sản lượng bình quân lương thực là 1.250 kg, nhiệm vụ định thua mua bình quân đầu người là 305 kg, nếu tính giá thu mua thóc là 0,444 NDT, thì được 135,42 NDT; giả sử mỗi ha nộp cho nhà nước lượng địa tô (không lấy tiền) là 1.500 kg, đầu người phải nộp 193 kg lương không lấy tiền, thì trong số 305 kg định thu mua sẽ còn 112 kg được mua theo giá thỏa thuận, tính theo giá thị trường thì giá thỏa thuận là 1,1 NDT một kg (có lúc giá thị trường cao tới 1,4 NDT/kg) thì sẽ được 123,2 NDT, so với giá định thu mua sẽ ít hơn 12,22 NDT, nhưng trong số lượng lương thực bình quân đầu người là 1.250 kg, dù có bỏ đi 305 kg, trong tay mỗi nông dân vẫn còn 945 kg, chí ít cũng có thể bán 500 kg theo giá thỏa thuận được 550 NDT; nếu theo quy định, lương thực thừa phải bán theo giá giới hạn 0,70 NDT/kg cho ngành lương thực chỉ được 350 NDt thì lương thực thừa của nông dân bán theo giá thỏa thuận vẫn thu nhập nhiều hơn 200 NDT, trừ đi 12,22 NDT thu nhập ít hơn, mỗi nhân khẩu nông thôn trong bán lương thực theo giá thỏa thuận vẫn tăng 187,78 NDT thu nhập. Như vậy có thể n ói, thủ tiêu định mức thu mua lương thực, triệt để mở cửa thị trường và giá cả lương thực, sau khi nộp công lương không lấy tiền cho nhà nước, số lương thực còn lại được tự do đưa thị trường, nông dân sẽ được lợi lớn”.
Tất nhiên, huyện Thiên Trường sản lượng lương thực lớn, là điển hình đột xuất, nông dân các huyện khác có thể được như vậy không?
Hà Khai Ấm đã lấy huyện Định Viễn làm ví dụ, sau khi tính toán tỉ mỉ, thì tại vùng lạc hậu như huyện Định Viễn, vẫn có thể thu nhập nhiều hơn 35 triệu NDT.
Những cái trên là sổ sách công khai, có thể dùng con số tính ra. Ông chỉ ra, đặc biệt là thực hành phép “tính một thuế”, không thu thêm bất kỳ thuế phí ngoại ngạch nào khác của nông dân, và xác định rõ quyền sử dụng lâu dài đất canh tác, tự nhiên nông dân sẽ nâng cao tính tích cực trồng lương thực, vừa tăng thu nhập vừa nỗ lực nâng cao năng suất đất đai và tỷ suất hàng hóa, làm lương thực càng nhiều, nông dân càng có lợi.
Về tính ưu việt của việc thực hiện cải cách thuế phí và chế độ khoán vĩnh cửu ruộng đất, Hà Khai Ấm đã quy nạp thành 12 điều. Đó là: “Nhà nước thu hồi quyền sở hữu ruộng đất, quyền sử dụng lâu dài giao cho nông dân nhận khoán sở hữu, bất kỳ đơn vị và cá nhân nào đều không được lạm dụng chiếm ruộng đất, nếu có người trưng dụng lại ruộng đất, thì ngoài việc phải trải qua phê chuẩn ra, còn phải giải quyết con đường sinh sống cho hộ nhận khoán mảnh đất đó, đồng thời mỗi năm phải nộp thuế chiếm dụng đất canh tác tương đương với khoản công lương mà mảnh đất đó phải nộp, như thế, có thể khống chế có hiệu quả việc đất canh tác giảm bớt; nông dân tự dùng đất làm nhà, đào ao, dựng xưởng, đốt lò…, mỗi năm đều phải nộp số lượng công lương theo quy định, như thế, nông dân cũng tự mình phải biết quý ruộng đất”. Đó là: “Nộp đủ cho nhà nước, tập thể, còn thừa đều là của mình, bất kỳ ai cũng không có quyền trưng thu của nông dân một xu, điều này sẽ ngăn chặn có hiệu quả làn gió bất chính phân bổ bừa bãi, thu phí bừa bãi, giảm nhẹ đóng góp cho nông dân; cán bộ xã thôn không thể giơ tay đòi tiền nông dân nữa, các chi phí như trợ cấp tiền lương… được lấy từ công lương trả lại cho chính quyền xã, nhiệm vụ của cán bộ chỉ còn là toàn tâm toàn ý phục vụ nông dân. Chỉ phục vụ, cống hiến, không thò tay vòi vĩnh nông dân, tự nhiên sẽ cải thiện tốt quan hệ cán bộ, quần chúng, nâng cao uy tín của đảng và nhà nước”.
Đương nhiên, cuộc cải cách này có diện liên quan rộng, sẽ đụng chạm đến lợi ích của một số ngành, nên ở đoạn cuối bài viết, Hà Khai Ấm đã nói: “Điều này đòi hỏi Quốc Vụ viện đứng ra tiến hành điều hòa, điều chỉnh lợi ích của các mặt”. Đồng thời, “kiến nghị nhà nước lựa chọn trước một số huyện khác nhau về loại hình ở một tỉnh hoặc vài tỉnh làm thí điểm, tiến hành thăm dò”.
Sau khi viết xong bài viết, Hà Khai Ấm quyết định gửi nó lên Ban nghiên cứu chính sách nông thôn Trung ương và Trung tâm nghiên cứu phát triển nông thôn Quốc Vụ viện. Bởi vì những nơi này là bộ môn nghiên cứu cao nhất về công tác nông thôn của Trung ương và nhà nước, hơn nữa người kiêm nhiệm chức vụ quan trọng ở hai bộ môn này là Vương Úc Chiêu, vị lãnh đạo cũ mà ông hiểu biết nhất.
Ông gọi một cú điện thoại lên Bắc Kinh trước.
Không gọi thì thôi, vừa gọi, ông đã giật mình. Thì ra sau khi cơn sóng gió “ngày 6 tháng 4” [3] xảy ra không lâu, Ban nghiên cứu chính sách nông thôn Trung ương đã bị giải tán, Trung tâm nghiên cứu phát triển nông thôn Quốc Vụ viện cũng bị giáng cấp trở thành một bộ môn cấp dưới của Bộ Nông nghiệp. Như vậy có nghĩa là, cơ cấu nghiên cứu chính sách nông thôn và sự phát triển nông thôn quy cách cao và ở tầng nấc cao thuộc Trung ương đảng và Quốc Vụ viện, đã không còn tồn tại nữa.
Qua điện thoại, Vương Úc Chiêu còn bảo ông: có người ở Bắc Kinh đang tổ chức bài viết tiến hành phê phán luận văn ông được giải thưởng lần trước.
Hà Khai Ấm càng kinh ngạc.
Bài viết lần này, đã trình bày và luận chứng một cách đầy đủ hơn một số quan điểm của bài luận văn trước, ý tưởng của ông là mạnh dạn, rõ ràng đi xa hơn nữa. Đã có người muốn tổ chức phê phán luận văn đó, liệu bài viết này có nên gửi đi không?
Nếu cần gửi, thì gửi đến chỗ nào?
Ban nghiên cứu chính sách nông thôn không còn nữa, Trung tâm nghiên cứu phát triển nông thôn trực thuộc Quốc Vụ viện cũng đã đưa xuống Bộ Nông nghiệp, nhưng bài viết này của ông liên quan nhiều đến ý tưởng, gửi đến Bộ Nông nghiệp sao có thể giải quyết được?
Nhất thời, Hà Khai Ấm lúng túng.
35. Vào Trung Nam Hải
Sau khi nghĩ đi nghĩ lại, Hà Khai Ấm cuối cùng hạ quyết tâm: trực tiếp can ngăn Trung ương.
Đối với Hà Khai Ấm mà nói, việc can ngăn Trung ương không phải là lần đầu tiên.
Lần thứ nhất, là thời kỳ “cách mạng văn hóa”.
Đó là đoạn thời gian chẳng nên nhớ lại làm gì. Lúc này ngoài thân phận là “phái hữu” ra, ông lại có thêm cái mũ “phản cách mạng hiện hành”. Nói ra thật vô cùng tức cười, sở dĩ ông bị quy là phản cách mạng hiện hành chỉ vì ông đã lợi dụng thời gian rỗi rãi để học tiếng Nga, vì quan hệ Trung-Xô lúc đó rất căng thẳng, đã xảy ra “sự kiện đảo Trân Bảo” [4] mà Nông trường thanh niên, nơi ông đang ở lại gần Hắc Long Giang, anh học tiếng Nga là chuẩn bị làm gián điệp cho xét lại Liên Xô. Việc này vừa đặt ra, là Hà Khai Ấm với tư cách là phần tử “phái hữu” không thể ở lại nông trường bộ Bắc Đại Hoang làm một số công tác kỹ thuật nữa, mà bị đuổi xuống nông thôn, tiếp nhận sự cải tạo của nông dân, từ đó trải qua những ngày tháng còn khổ hơn nông dân. Do vất vả lâu ngày thành bệnh, ông bị bệnh gan rất nặng, may được nông dân địa phương hết lòng chiếu cố nên ông mới không bỏ mạng tại đó. Trong đoạn thời gian đặc biệt đó, ông đã sản sinh cảm tình đặc biệt đối với nông dân. Cuộc sống của nông dân lúc đó vô cùng khó khăn, suốt năm bận rộn mà ăn không đủ no, ông cảm thấy mình có nghĩa vụ phải giúp đỡ họ. Liên hệ với nông trường mình ở, vì có “mười sáu điều nông khẩn” do Vương Chấn, Bộ trưởng Bộ Nông khẩn chế định, thực hiện chế độ trách nhiệm trong sản xuất, nên sản lượng lương thực của nông trường nói chung cao hơn nông thôn, thế là bất chấp trên đầu mình còn hai cái mũ do người ta chụp cho, ông đã bạo gan viết một bức thư cho Trương Lâm Trì, bí thư tỉnh ủy Hắc Long Giang. Vì Trương Lâm Trì còn kiêm chức thứ trưởng thứ nhất Bộ Nông khẩn, nên ông hy vọng thông qua người, vừa là bí thư tỉnh ủy vừa là thứ trưởng thứ nhất Bộ Nông khẩn, có thể chuyển bức thư đó lên thủ tướng Chu Ân Lai, hy vọng nông thôn rộng lớn Trung Quốc cũng tham khảo, làm theo tinh thần “mười sáu điều nông khẩn”, thực hiện chế độ trách nhiệm trong nông nghiệp để kích thích nhiệt tình sản xuất của nông dân.
Trước cách làm của ông, nông dân xung quanh đều vì ông mà toát mồ hôi; thậm chí họ cho rằng Hà Khai Ấm không nên làm cái việc mạo hiểm đó, bức thư như thế này có gửi đi cũng bằng không, trừ việc mang lại họa cho mình ra, không thể có kết quả tốt đẹp. Nhưng Hà Khai Ấm vẫn ra bưu điện, khi bức thư vừa rơi xuống thùng thư, ông chợt nhớ tới một câu nói của Mác: “Tôi nói ra là đã cứu vớt linh hồn mình”.
Sự việc lại không đến nỗi đen đủi như đã tưởng tượng. Thư gửi đi không lâu, đã có người thông báo cho Hà Khai Ấm, lập tức đến ngay văn phòng tỉnh ủy. Hà Khai Ấm thấp thỏm không yên lên Cáp Nhĩ Tân. Đỗ Tái Hưng thư ký của Trương Lâm Trì tiếp ông. Đõ Tái Hưng nói: “Bí thư Trương rất coi trọng bức thư của anh, ông đã đọc mấy lần liền, rất cảm động. Nói, vẫn có một con người như vậy, dám viết một bức thư như thế này. Ông cảm thấy những vấn đề phản ánh trong thư là rất quan trọng, nhưng ông không tiện chuyển bức thư lên trên, bởi vì nếu ông chuyển, là đại biểu cho ý kiến của tỉnh ủy”. Đỗ Tái Hưng đề nghị Hà Khai Ấm “tìm một nhân sĩ dân chủ có uy tín chuyển bức thư lên trên”.
Mặc dù không giải quyết được vấn đề gì, nhưng những lời nói đó của Đỗ Tái Hưng đã làm Hà Khai Ấm cảm động mãi.
Trên đường về, ông chỉ suy nghĩ, ai là nhân sĩ dân chủ có uy tín?
Nhưng nghĩ mãi vẫn không có kết quả. Trong những người mà ông đã tiếp xúc, hiện ai có thể đưa bức thư này đến tận tay Thủ tướng Chu Ân Lai? Chẳng có nổi một người.
Bỗng mắt Hà Khai Ấm sáng lên.
Ông nghĩ tới Tôn Hiểu Thôn, phó chủ tịch Hội nghị chính trị hiệp thương toàn quốc. Bởi vì Tôn Hiểu Thôn là hiệu trưởng cũ trường đại học nông nghiệp Bắc Kinh - trường cũ của ông.
Và liệu hiệu trưởng cũ có vui lòng chuyển bức thư của một học sinh cũ mà ông không hề biết mặt lên Thủ tướng Chu Ân Lai không? Ông không hề có chút căn cứ nào, thế nhưng ngoài Tôn Hiểu Thôn ra, Hà Khai Ấm cũng chẳng tìm được người nào khác.
Ôm ấp trong lòng ý định thử xem sao, Hà Khai Ấm gửi bảo đảm bức thư đó cho Văn phòng chính hiệp, nhờ họ chuyển cho Tôn Hiểu Thôn.
Thư gửi đi rồi mà không hề có âm tín gì.
Phải đến năm năm sau, năm 1979, sau khi vấn đề lịch sử của Hà Khai Ấm được triệt để bình thản, ông mới lên Bắc Kinh gặp Tôn Hiểu Thôn. Tôn Hiểu Thôn nói, năm đó sau khi xem tài liệu nhận được, rất phấn khởi, và cảm thấy ý tưởng đề xuất của học trò mình, tuy có bạo gan, nhưng đã cho người ta gợi ý. Thời gian đó, trong một lần gặp Thủ tướng Chu Ân Lai, Tôn Hiểu Thôn đã nói riêng với Thủ tướng về việc này. Thế nhưng lúc đó phong trào “phê Lâm phê Khổng” đang diễn ra gay gắt, hoàn cảnh của Thủ tướng cũng rất khó khăn, sợ Thủ tướng thêm phiền phức và cũng là để bảo vệ Hà Khai Ấm, nên Tôn Hiểu Thôn không gửi bức thư đó đi. Ông nói, nếu Thủ tướng có lời phê, bị “lũ bốn người” biết được, hậu quả sẽ không thể tưởng tượng nổi.
Hiện nay tình hình đã không như xưa nữa, loại “đấu tranh giai cấp” không ngừng đó đã bị triệt để vứt bỏ, và xây dựng hiện đại hóa đã là chính trị lớn nhất của hôm nay. Thế nhưng Hà Khai Ấm vẫn sâu sắc cảm thấy rằng, trào lưu tư tưởng tả lại một lần nữa ngóc đầu dậy, viết những bài như thế này rõ ràng là có rủi ro nhất định. Tuy vậy, rốt cuộc mình vẫn là nhà nghiên cứu công tác nông thôn do đảng bồi dưỡng nên, vì sự nghiệp yêu quý trong lòng, vì 800 triệu nông dân, bằng bất cứ giá nào ông vẫn quyết tâm.
Cuối cùng ông đặt tên cho bài viết mới này là: “Một số ý tưởng về việc đi sâu cải cách nông thôn”, nộp cho Thẩm Tổ Nhuận, phóng viên phân xã An Huy của Tân Hoa Xã. Ông cho rằng loại bài viết này giao cho cơ quan tân văn như thế là tương đối thích hợp.
Quả nhiên, Tân Hoa Xã đã nhanh chóng đưa vào “bản tin tham khảo nội bộ”, còn “Nhân dân nhật báo” đã vì bài viết này đưa thêm “trang phụ” riêng, tiếp đó, ban nghiên cứu Quốc Vụ viện dùng một kỳ “tham khảo quyết sách” ra ngày 17/2/1990, tổng thuật tỉ mỉ nhất về những quan điểm và luận chứng trong bài viết của ông, và viết nổi bật như sau:
“Đồng chí Hà Khai Ấm cho rằng, nếu thực hiện biện pháp này, nhất định làm cho nông nghiệp ra khỏi cảnh khó quanh quẩn nhiều năm, nhưng đây là một động tác tương đối lớn, tình hình hiện nay đòi hỏi ổn định, chẳng ai dám manh động, việc đồng chí ấy yêu cầu phản ánh với lãnh đạo Quốc Vụ viện, nên được ủng hộ. Nếu có thể chọn một huyện làm thử, tin là sẽ được sự khẳng định và hoan nghênh của quần chúng như “khoán lớn”, chí ít là ở vùng sản xuất lương thực, có thể không cần thúc đẩy mà tự mở rộng”.
Đồng thời với việc Tân Hoa Xã và Nhân dân nhật báo đăng trên “Bản tin tham khảo nội bộ” và “Trang phụ”, Ban nghiên cứu Quốc Vụ viện ra “Tham khảo quyết sách”, Trương Học Đào, phó chủ nhiệm văn phòng ủy ban tỉnh An Huy cũng cho đăng bài của Hà Khai Ấm trên tờ “Tham khảo nội bộ chính vụ” do họ làm. Những bản tin tham khảo nội bộ chuyển, đăng cho tầng lớp quyết sách Trung ương, trong tỉnh không nhất định đều đọc, nhưng “ý tưởng” này được đăng trên “Tin nội bộ” của tỉnh, đã được lãnh đạo tỉnh ủy và chính quyền tỉnh An Huy coi trọng. Trương Vinh Cảnh, phó bí thư tỉnh ủy chỉ ra rõ ràng: “Bài viết của đồng chí Hà Khai Ấm rất tốt”, và cũng đề nghị ủy ban kinh tế nông nghiệp tỉnh mời các bộ môn có liên quan và chuyên gia nghiên cứu một lần. Phó tỉnh trưởng thường trực Chiêu Minh, phó tỉnh trưởng phụ trách nông nghiệp Vương Thiệp Vân đều mong mỏi tổ chức các chuyên gia lại bàn bạc và làm thử trong phạm vi nhỏ.
Trương Hà Nhuận, phó tỉnh trưởng phụ trách thương nghiệp mậu dịch, Đỗ Nghi Cẩn, phó tỉnh trưởng phụ trách văn hóa, giáo dục, y tế, một người chủ động gặp Hà Khai Ấm xin tài liệu, một người trực tiếp biểu thị ủng hộ, Long Niệm, phó tỉnh trưởng phụ trách công nghiệp đã ngọn cờ rõ ràng, trong thời gian một tuần lễ sau khi đọc được “ý tưởng” trên bài viết, đã trước sau hai lần có lời phê, khẳng định đầy đủ: “Đây là một kiến nghị quan trọng” và biểu thị thái độ rõ ràng: “Tôi tán thành làm thử ở vùng cá biệt”.
Tóm lại, không ít lãnh đạo tỉnh ủy, chính quyền tỉnh đều rất coi trọng. Điều đáng tiếc là, tình hình lúc đó, đúng như trên “Tham khảo quyết sách” do Ban nghiên cứu Quốc Vụ viện biên tập đã nói: “Đây là động tác tương đối lớn, tình hình trước mắt yêu cầu ổn định, chẳng ai dám manh động”. Hội nghị luận chứng do các chuyên gia của ban nông nghiệp tỉnh An Huy tuy có họp, nhưng tại hội nghị cái được luận chứng nhiều không phải là ý tưởng cải cách nào đó của Hà Khai Ấm có ý nghĩa thực tế với đi sâu cải cách nông thôn hay không, mà là nó có nhịp nhàng hay là đi ngược lại với công tác “chỉnh đốn trị lý” đang triển khai rầm rộ khắp nước lúc đó.
Kết luận là dễ thấy: trong thời gian chỉnh đốn trị lý, còn bàn luận “đi sâu cải cách” làm gì?
Thế là ban nông nghiệp tỉnh lấy danh nghĩa tổ chức, viết một báo cáo luận chứng lên tỉnh ủy, báo cáo cho rằng, một số ý tưởng nào đó của đồng chí Hà Khai Ấm về việc đi sâu cải cách nông thôn là không phù hợp với pháp quy, chính sách hiện hành.
Do sự phủ định của hội nghị luận chứng, lãnh đạo chủ yếu của tỉnh ủy không hỏi han nữa, những lãnh đạo tỉnh khác muốn hỏi han cũng không tiện hỏi han nữa. Thành quả nghiên cứu dốc hết tâm huyết của Hà Khai Ấm đã bị gác xó như vậy, coi như xong.
Hà Khai Ấm cảm thấy sự bất lực của việc muốn đền nợ nước mà không có cửa.
Tháng 1 năm 1991, bài viết trình bày “khoa học kỹ thuật là sức sản xuất thứ nhất” của Hà Khai Ấm được giải thưởng loại hai của Ủy ban khoa học nhà nước, trong thời gian về Bắc Kinh nhận giải thưởng, ông bất ngờ được mời đến báo cáo công tác tại Ban nghiên cứu Quốc Vụ viện.
Tin này làm ông phấn khởi mãi không thôi.
Hôm đó là ngày 2 tháng 2 năm 1991. Lần đầu tiên trong đời ông vào Trung Nam Hải thần thánh mà thần bí, đến gần lầu chữ Công, Tử Quang Các. Tiếp ông là Dư Quốc Huy, tổ trưởng tổ kinh tế nông thôn Ban nghiên cứu Quốc Vụ viện.
Hà Khai Ấm báo cáo ý tưởng và dòng suy nghĩ cụ thể về “khoán lớn” nông nghiệp đã được hoàn thiện và phát triển hơn nữa, từ kiến nghị thực hiện chế độ trách nhiệm khoán lâu dài đất canh tác, đến kiến nghị thực hiện cải cách thống nhất thuế phí nông nghiệp, đến kiến nghị thủ tiêu chế độ nhà nước định thu mua lương thực và chế độ hai giá lương thực, mở cửa thị trường và giá cả nông sản phẩm một cách triệt để, rồi đến trực tiếp bàn về việc xây dựng hệ thống dịch vụ xã hội hóa kiện toàn lấy khoa học kỹ thuật làm then chốt, phát triển kinh tế hàng hóa nông thôn quy mô khu vực, còn bàn đến cả việc tiến hành cải cách chế độ hộ tịch nông thôn, phá bỏ tảng băng kiên cố của kết cấu nhị nguyên thành thị - nông thôn.
Bàn đến những vấn đề mấy năm nay ông chuyên tâm nghiên cứu, Hà Khai Ấm đã ở vào tâm trạng nói không hết lời.
Dư Quốc Huy nghiêm túc lắng nghe. Khi nghe Hà Khai Ấm nói ông đã viết những suy nghĩ nhiều năm thành bài “Một vài ý tưởng về cải cách nông thôn” Dư Quốc Huy đã cho biết, Thủ tướng Lý Bằng đã đọc bài viết đó trên “Tham khảo quyết sách” và rất tán thành quan điểm của bài viết, khi cùng tổ nông thôn - Ban nghiên cứu tọa đàm, Thủ tướng Lý Bằng còn nói tới kiến nghị của Hà Khai Ấm về “tính một thuế”, nói: “Đổi việc thu mua lương thực theo hợp dồng thành nhà nước thu mua, vừa nhấn mạnh nghĩa vụ cống hiến hết mình của nông dân đối với nhà nước, số lượng không đổi, bảo đảm 50 triệu tấn. Có người kiến nghị bước sau nữa sẽ đổi thành trưng thu, thực hiện tính một thuế, khi sản lượng đạt 500 triệu tấn, trưng thu 10% thì cũng được 50 triệu tấn. Từ xưa Trung Quốc đã tính một thuế. Các chuyên gia đề nghị áp dụng biện pháp đó, để cố định quan hệ giữa nông dân và nhà nước. Cùng với việc phát triển kinh tế hàng hóa, rốt cuộc nên dùng phương pháp nào, phải từ kế lâu dài mà bàn”.
Nghe nói kiến nghị của mình được Thủ tướng coi trọng và tán thưởng, Hà Khai Ấm thực sự được cổ vũ gấp đôi, rất muốn tìm hiểu thêm các loại phản ứng của bên trên đối với bài viết của mình. Lúc này Dư Quốc Huy mới nói nguyên nhân mời ông đến báo cáo.
Dư Quốc Huy nói: “Vấn đề bây giờ là làm thế nào biến dòng suy nghĩ đó thành một phương án có thể thao tác. Tôi hiểu câu nói “phải từ kế lâu dài mà bàn” của Thủ tướng là, do trước mắt vẫn trong thời kỳ chỉnh đốn trị lý, không nên sử dụng động tác lớn; hơn nữa cũng còn một số cách nhìn khác nhau về dòng suy nghĩ đó. Vì vậy, tôi đề nghị, anh hãy đi sâu điều tra hơn nữa, luận chứng rõ ràng tỉ mỉ hơn, đưa ra được một phương án, biện pháp có thể thao tác, báo cáo với lãnh đạo tỉnh ủy và chính quyền tỉnh, làm thí điểm trước. Tốt nhất là làm thí điểm ở một huyện, hoặc làm trước ở một xã, trấn cũng được. Nếu thí điểm thành công, các việc ở bên dưới sẽ dễ làm”.
Lời nói của Dư Quốc Huy khiến Hà Khai Ấm vô cùng phấn chấn, nhưng suy nghĩ tới việc một mình mình lên Trung Nam Hải, rồi được nhận nhiệm vụ lớn đó, dường như là danh không chính ngôn không thuận, nên đã hỏi: “Liệu có thể xin Thủ tướng cho ý kiến bằng văn bản, như thế khi về địa phương tôi dễ ăn nói”.
“Không thích hợp”. Dư Quốc Khánh giải thích, “nếu lãnh đạo ký, thì đã biến thành ý đồ của Trung ương, không chỉ An Huy các anh có thể làm, mà địa phương khác cũng có thể làm như vậy, cùng làm cả sẽ loạn. Dùng suy nghĩ của anh, định phương án của anh, làm thí điểm của anh, hiệu quả sẽ tốt hơn một chút; người khác không có ý tưởng và suy nghĩ, sẽ không nhất định làm tốt”.
Suy nghĩ một lúc, Hà Khai Ấm thấy cũng phải lẽ, ông gật đầu nói: “Tôi rõ rồi!”
Dư Quốc Huy lại động viên: “Thôn Tiểu Cương, huyện Phụng Dương, tỉnh An Huy các anh đã thực hiện “khoán lớn” nông nghiệp đầu tiên, thí điểm ở thôn Tiểu Cương thành công đã nhanh chóng truyền đi cả nước. Từ điểm đó có thể thấy, chỉ cần phù hợp với lợi ích của nhà nước và đông đảo nông dân, thì dù chỉ là biện pháp tốt do một thôn làm thử, cũng có thể không thúc đẩy mà tự mở rộng”.
Nói đến “khoán lớn”, Hà Khai Ấm như có lời không nói hết. Ông luôn luôn cho rằng, cải cách bước thứ hai ở nông thôn Trung Quốc chỉ có thể là một loại hoàn thiện và phát triển “khoán lớn”. Nghĩ tới việc trong xã hội đang dấy lên trào lưu tư tưởng tả khuynh ý đồ phủ nhận “khoán lớn” ông đã thẳng thắn trình bày với Dư Quốc Huy cách nhìn của mình. Ông cho rằng cải cách cũng giống như thuyền ngược dòng nước chảy, không tiến là lùi, mà cải cách thì không có đường lùi, hậu quả của sự tụt lùi là không thể tưởng tượng nổi.
Dư Quốc Huy rất tán thành cách nhìn của Hà Khai Ấm. Trong câu chuyện về cải cách nông thôn, hai người có nhiều nhận thức chung. Vì thế tại một phòng làm việc ở lầu chữ Công trong Trung Nam Hải, vào một ngày lạnh nhất trong năm ở thủ đô, một người giữ chức vụ quan trọng, một người chẳng qua chỉ là kỹ sư cao cấp ở địa phương, cả hai đã nói chuyện ăn ý hơn hai giờ.
Khi tạm biệt, Dư Quốc Huy đã nắm tay Hà Khai Ấm, lắc đi lắc lại: “Mong rằng về mặt đi sâu cải cách nông thôn, An Huy lại dẫn đầu tốt!”
Hà Khai Ấm gật đầu, và không nhịn được tự cười giễu mình. Xem ra Dư Quốc Huy, tổ trưởng tổ nông thôn Ban nghiên cứu Quốc Vụ viện hẹn gặp ông báo cáo công tác, và đề xuất những suy nghĩ đó, đâu phải là hành động của cá nhân Dư Quốc Huy; còn ông - Hà Khai Ấm lại chỉ hoàn toàn đại biểu cho mình, bởi vì lúc đó, ông không thể đại biểu cho một “An Huy”, mà ngay một thôn, một xã cũng không đại biểu được.
Thế nhưng những mong mỏi mà Dư Quốc Huy đề xuất, đã làm cho Hà Khai Ấm ngầm hạ quyết tâm, ông chuẩn bị thông qua nỗ lực của mình, biến mong mỏi đó thành hiện thực.
Ông tin tưởng, trong cải cách bước một, An Huy đã có cống hiến vĩ đại, thì lịch sử của cải cách bước hai, cũng sẽ được viết trên đại địa An Huy.
Tháng 4 năm 1991, lại trải qua một lần điều tra tìm luận chứng, cuối cùng Hà Khai Ấm đã đưa ra được một phương án thực thi có thể thao tác: “Một vài ý tưởng về đi sâu cải cách nông thôn - biện pháp căn bản để phát triển kinh tế hàng hóa nông thôn”.
Trong “ý tưởng” này, ông đề xuất 10 biện pháp đi sâu cải cách nông thôn.
Đó là một phương án cải cách có tính tổng hợp. Ông cho rằng những mâu thuẫn mới, vấn đề mới đang tồn tại trong nông thôn là đan xen phức tạp, cải cách nông thôn bước tiếp theo phải thúc đẩy chỉnh thể. Vì vậy ông đã lần lượt chế định những biện pháp cải cách tương ứng về cải cách chế độ đất đai nông thôn, cải cách chế độ thuế phí nông thôn, cải cách chế độ hộ tịch nông thôn, cải cách chế độ quyền tài sản nông thôn, cũng như chế độ kinh doanh chế độ hùn vốn, chế độ di chuyển sức lao động, chế độ khoa học kỹ thuật, chế độ an sinh xã hội, xây dựng văn minh tinh thần và cải cách chế độ thu mua lương thực ở nông thôn.
Tất nhiên, thúc đẩy chỉnh thể, không phải là chen vai cùng tiến, càng không phải là nắm mọi thứ linh tinh. Ông chỉ rõ ràng, phải lấy cải cách chế độ đất đai và chế độ thuế phí làm đột phá khẩu.
Ông đã thiết kế vô cùng cụ thể những biện pháp cải cách đó. Ví dụ trên cơ sở ổn định chế độ trách nhiệm khoán gắn sản lượng lâu dài không thay đổi, ông kiến nghị để cho nông dân có quyền sử dụng đất canh tác từ 30 đến 50 năm, tăng người không tăng đất, giảm người không giảm đất, có thể chuyển nhượng có đền bù, có thể thế chấp để tham dự kinh doanh tập thể, khôi phục một phần thuộc tính hàng hóa của đất đai; ví dụ, cải cách biện pháp trưng thu thuế phí nông nghiệp, ông cho rằng nên thống nhất trù hoạch thuế phí, nộp công lương, xóa bỏ thu mua theo dự định, đã định là 3 năm, không tăng không giảm, thuế nộp nhà nước, phí về nông thôn, thu chi nghiêm túc, công khai sổ sách v.v…
Nhiều ý tưởng cải cách của ông, viết ít mà đủ ý, thông tục dễ hiểu. Điều đó phần lớn liên quan tới kinh nghiệm công tác nông thôn lâu dài của ông.
Tài liệu được in xong, ông liền thông qua thư ký riêng gửi cho Lư Vinh Cảnh, bí thư tỉnh ủy và Phó Tích Thọ, tỉnh trưởng tỉnh An Huy trước. Và tất nhiên, ông cũng đã kịp thời gửi đến các phó bí thư tỉnh ủy và phó tỉnh trưởng có liên quan.
Một loáng, ba, bốn tháng đã trôi qua. Những báo cáo ông gửi đi đó, vẫn không có bất kỳ động tĩnh nào, Hà Khai Ấm bắt đầu lo nghĩ không yên.
Ông nghĩ, việc này rõ ràng là có quan hệ tới “báo cáo luận chứng” mang ý kiến phủ định lần trước của ban nông nghiệp tỉnh. Nhưng trong báo cáo của mình ông đều có thuyết minh kiến nghị của người phụ trách tổ nông thôn Ban nghiên cứu Quốc Vụ viện và truyền đạt của ông về lời thủ tướng Lý Bằng!
Hà Khai Ấm như lạc trong đám mù sâu.
Tháng 7 năm đó, trung tâm nghiên cứu phát triển gọi điện thoại cho Hà Khai Ấm, mời ông đi Trường Xuân tham dự “Hội nghị nghiên cứu, thảo luận vấn đề nông thôn toàn quốc” do Ban biên bập “Nhật báo nông dân” và Ủy ban nhân dân tỉnh Cát Lâm cùng tổ chức. Hơn nữa, trước đó “Nhật báo nông dân” đã đăng trong “Tình hình nông thôn” một số ý tưởng của ông về đi sâu cải cách nông thôn, và đặc biệt ghi “Lời người biên tập” như sau:
“Làm thế nào đi sâu cải cách nông thôn, tiếp tục hoàn thiện và phát triển chế độ trách nhiệm sản xuất nông nghiệp là một đầu đề câu chuyện lâu dài mà phức tạp. Bài viết này đứng ở góc độ vĩ mô, nhìn lại và tổng kết lịch sử và bài học của sự phát triển nông nghiệp nước ta từ ngày thành lập nước đến nay, đặc biệt là phân tích và suy ngẫm một cách khách quan những cái được và cái mất trong phát triển sản xuất nông nghiệp, những cái hay và cái dở nào đó trong quyết sách từ hội nghị Trung ương 3 khóa 11 đến nay, tiến hành thăm dò tìm hiểu nguyên nhân khiến nông nghiệp nhiều năm quanh quẩn không tiến lên được. Trên những cơ sở đó đề xuất một số ý tưởng và kiến nghị, những ý tưởng này có ý mới nhất định, có một số là giản tiện, dễ làm, nên đặc biệt trích ra đây để các bộ môn lãnh đạo có liên quan tham khảo”.
Bắc Kinh gọi điện thoại tới, cũng như “Tình hình nông thôn” đăng một số ý tưởng về đi sâu cải cách nông thôn của ông, đã làm cho Hà Khai Ấm đang vô cùng buồn bã như được tiếp một liều thuốc hồi sinh. Chí ít có thể thấy rõ là: Trung tâm nghiên cứu phát triển Quốc Vụ viện đã chú ý đến công tác nghiên cứu của ông; “Nhật báo nông dân” với tư cách là báo cơ quan của Bộ Nông nghiệp, cũng ủng hộ ý tưởng của ông, hàng loạt ý tưởng của ông nhờ “Nhật báo nông dân” tán phát rộng rãi, đã đi ra toàn quốc. Đương nhiên, ông hy vọng càng nhiều người làm công tác nghiên cứu nông thôn cùng tham gia vào, càng hy vọng thông qua tham gia hội nghị nghiên cứu thảo luận ở Trường Xuân sẽ cùng các đồng nghiệp đến từ các nơi trong cả nước đi sâu thảo luận vấn đề nông thôn Trung Quốc.
Tràn đày tâm tình xúc động, ông đến gặp chủ nhiệm ban.
Vì phấn khởi nên ông không để ý đến sắc mặt cấp trên mà báo cáo ngay việc Bắc Kinh vừa thông tri qua điện thoại, hy vọng được sự ủng hộ.
Không ngờ, chủ nhiệm lạnh nhạt lắc đầu: “Không đồng ý đi”.
“Vì sao?” Hà Khai Ấm không hiểu ra sao. Bởi vì việc mà ban điều tra nghiên cứu làm là công tác điều tra nghiên cứu, Trung tâm phát triển Quốc Vụ viện mời nhân viên công tác của ban mình th