Chương 10 Trời trao nhiệm vụ nặng nề
39. Tri âm
Thực ra ngày 23 tháng 2 năm 1990, khi “Phụ trương” nhân dân nhật báo đăng bài ý tưởng cải cách của Hà Khai Ấm đã làm cho tỉnh trưởng tỉnh Hà Bắc Nhạc Kỳ Phong chú ý, đặc biệt là đoạn mào đầu gợi ý đập vào mắt trước bài viết càng làm cho ông hứng thú nồng nàn.
“Có thể nói theo luật “thuế 1/10” trong lịch sử, nộp thuế nông nghiệp 10% theo sản lượng mỗi mẫu, tức công lương hiện vật, đồng thời thu thêm 5% cho các khoản trích để lại nông thôn. Làm như vậy, nhà nước mỗi năm có thể được 40 triệu tấn lương thực không phải trả tiền, giảm nhẹ rất nhiều gánh nặng tài chính. Nông dân nộp đủ cho nhà nước, tập thể, còn lại đều là của mình, không đóng góp phân bổ bất hợp lý nữa”.
Tỉnh Hà Bắc cũng là tỉnh lớn nông nghiệp, tỉnh lớn sản xuất lương thực lâu nay cũng bị nhiều vấn đề trong công tác trưng thu thuế phí nông nghiệp quấy rầy khốn khổ, vì vậy, Nhạc Kỳ Phong chăm chú đọc hết bài viết của Hà Khai Ấm, lập tức cầm bút phê vào: “Các anh Vạn Quân, Văn Tảo, Tiến Trung tổ chức người nghiên cứu việc này, và viết báo cáo tình hình Hà Bắc cho tôi”.
Mấy đồng chí mà tỉnh trưởng Hà Bắc nói đến lần lượt là chủ nhiệm Phòng nghiên cứu chính sách tỉnh ủy, chủ nhiệm Phòng nghiên cứu chính quyền tỉnh và chánh văn phòng chính quyền tỉnh. Nhạc Kỳ Phong không những cảm thấy hứng thú đối với ý tưởng cải cách của Hà Khai Ấm nêu ra, ông còn huy động tính tích cực của những người nghiên cứu chính sách của hai bên đảng và chính quyền, kết hợp tình hình hình của tỉnh Hà Bắc, lập tức tiến hành thảo luận và luận chứng.
Hôm đó, Văn phòng tỉnh ủy Hà Bắc ra quyết định, giao cho Phòng nghiên cứu chính sách tỉnh ủy dẫn đầu, thực hiện. Tiêu Vạn Quân, chủ nhiệm Phòng nghiên cứu chính sách tỉnh ủy sau này điều lên làm Phó chủ nhiệm Phòng nghiên cứu chính sách Trung ương lập tức điều binh khiển tướng. Thế là Dương Văn Lương ở tổ nông thôn Phòng nghiên cứu chính sách tỉnh ủy, sinh viên tốt nghiệp khóa 68 khoa chính trị quốc tế trường đại học Bắc Kinh, đã thấy trước là sẽ trở thành nhân vật quan trọng trong lịch sử cải cách thuế phí nông thôn Trung Quốc, vừa là ngẫu nhiên, lại vừa là tất nhiên đi vào tầm mắt của chúng ta.
Nhận nhiệm vụ này Dương Văn Lương cắm đầu vào nghiên cứu “chế độ công lương”, và sau ba tháng đã có thành quả nghiên cứu: “Thử bàn về thực hành chế độ công lương”. Sau khi hoàn thành bản thảo đầu tiên, ông viết một bức thư cho Hà Khai Ấm ở tận An Huy.
Thư viết với một tấm lòng vô cùng ngưỡng mộ.
“Tôi phấn khởi đọc được tác phẩm của ông, thu được rất nhiều bổ ích. Nay theo chỉ thị của tỉnh trưởng Nhạc Kỳ Phong, kết hợp tình hình của Hà Bắc tôi đã tiến hành luận chứng các kiến nghị mà ông nêu ra: ruộng đất canh tác quốc hữu, nông dân sử dụng vĩnh viễn, xóa bỏ chế độ hợp đồng đặt mua, thực hiện chế độ công lương (thuế 1/10). Tôi cho rằng những kiến nghị ông đề xuất đó về cơ bản thiết thực khả thi, nếu được áp dụng, nhất định sẽ nâng cao tính tích cực của nông dân bảo hộ đất canh tác và trồng lương thực, có lợi cho ổn định chế độ khoán gia đình, có lợi cho phát triển kinh tế nông thôn, tất nhiên càng có lợi cho ổn định chính trị nông thôn.
An Huy đã lập công đầu về mặt sửa chữa sai lầm “tả” lâu nay, thực hành chế độ khoán gia đình, nông dân toàn quốc cảm ơn Trần Bình Nguyên (nguyên Bí thư huyện ủy Phụng Dương); ông là người đầu tiên đề xướng kiến nghị ổn định, hoàn thiện chế độ khoán gia đình - ruộng đất canh tác quốc hữu, nông dân vĩnh viễn sử dụng ruộng đất, thực hành thuế 1/10, tất nhiên sẽ được nông dân toàn quốc chân thành biết ơn”.
Cuối thư đề: “Tri âm Hà Bắc Dương Văn Lương”.
Hà Khai Ấm nhận được thư này, vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng. Ông tuyệt nhiên không nghĩ tới những ý tưởng cải cách này của ông không chút tăm hơi ở An Huy, lại được tỉnh ngoại coi trọng như thế.
Coi là người tri kỷ không cần khách sáo, Hà Khai Ấm rất chân thành viết thư về bài “Thử bàn về việc thực hành chế độ công lương” của Dương Văn Lương.
Khi Dương Văn Lương hoàn thành việc sửa chữa cuối cùng bài viết, chuẩn bị báo cáo Tỉnh trưởng Nhạc Kỳ Phong, thì tình hình có thay đổi. Đúng vào lúc này, Nhạc Kỳ Phong được điều khỏi Hà Bắc, đi nhận chức Tỉnh trưởng tỉnh Liêu Ninh. Do Nhạc Kỳ Phong điều đi nơi khác, báo cáo của Dương Văn Lương cũng bị gác lại.
Nhưng Dương Văn Lương đã tốn rất nhiều tâm huyết vì việc này, do đó cũng không thể nào thoát ra được nữa. Có thể nói ông nhận nhiệm vụ này một cách thuần túy ngẫu nhiên, bị động, nhưng một khi đã lao mình vào thì ông tỉnh táo ý thức được, đây là một đề tài trọng đại rất có ý nghĩa, rất khó gặp được, và lại cảm thấy một trách nhiệm xã hội thiêng liêng. Vì thế nghiên cứu chế độ công lương đã trở thành một việc quan trọng nhất cuốn hút ông.
Vào thời gian đó, trên các báo tập san trong và ngoài tỉnh “Nông dân nhật báo”, “Cầu thị”, “Tham khảo quyết sách” và “Thông tin cải cách tổng hợp cấp huyện” lần lượt đăng các bài viết của Dương Văn Lương: “Ý tưởng thực hành chế độ ruộng đất quốc hữu, nông dân vĩnh viễn sử dụng”, “Về thuế 1/10”, “đóng góp hai tầng quá nặng”, vấn đề chờ đợi giải quyết”. Và “50 triệu nông dân hoan hô giải phóng lần thứ ba - báo cáo nghiên cứu về cải cách chế độ thuế nông thôn”. Cũng như Hà Khai Ấm, ông cũng hy vọng những bài viết này có thể làm cho cấp trên chú ý.
Ngày 16 tháng 7 năm 1991, trong một bức thư nữa gửi cho Hà Khai Ấm, ông viết:
“Tuy chúng ta chưa từng gặp mặt, nhưng từ trong lá thư và tác phẩm có thể thấy được, ông có tình cảm sâu nặng đối với nông dân, có trái tim sự nghiệp và tinh thần sứ mệnh nhiệt tình, mãnh liệt cao độ đối với công tác nghiên cứu chính sách của đảng…
Tôi là một thành viên trên mặt trận nghiên cứu chính sách nông thôn có được tri âm như ông, vô cùng sung sướng. Tôi rất sẵn lòng hợp tác với ông trên vấn đề ruộng đất, lương thực, dân số, đóng góp của nông dân, cùng nhau tìm tòi giải quyết những vấn đề tầng sâu cản trở kinh tế nông thôn phát triển hơn nữa. Từ khi thành lập nước đến nay, vấn đề nông dân của Trung Quốc vẫn chưa được giải quyết tốt. Mọi người đều biết, thời kỳ đầu thành lập nước, nông dân được giải phóng, được chia ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng, tính tích cực sản xuất của nông dân rất cao, nhưng chẳng bao lâu, do quá độ nghèo về quan hệ sản xuất không sát thực tế, làm “một lớn hai chung”, thực hành công xã hóa, quyền tự chủ sản xuất của nông dân bị tước đoạt, phát triển nông nghiệp của Trung Quốc bị cản trở nghiêm trọng. Sau hội nghị Trung ương 3 khóa 11, thực hành chế độ khoán gia đình, nông dân có quyền tự chủ sản xuất, nhưng quyền sử dụng đất canh tác vẫn ở trạng thái biến động, làm cho nông dân không muốn bồi bổ lâu dài đất canh tác, lại cộng thêm rất nhiều danh mục phân bổ các loại thuế phí, nông dân không chịu đựng nổi.
Những vấn đề đó không giải quyết, nông nghiệp Trung Quốc không thể ổn định. Việc các vương triều phong kiến trong lịch sử thay thế nhau, nói cho cùng, đều liên quan đến đóng góp của nông dân quá nặng, cho nên gọi là “chính sự hà khắc còn dữ hơn cọp”, quan bức dân phản. Đảng cộng sản chúng ta lấy phục vụ nhân dân làm tôn chỉ, mục đích của xây dựng chủ nghĩa xã hội là làm cho nhân dân sống cuộc đời tốt đẹp hạnh phúc ổn định, nếu không chú ý vấn đề đóng góp của nông dân, thì có thể làm cho Trung Quốc xã hội chủ nghĩa dẫm lại vết xe đổ của vương triều phong kiến”.
Ông thậm chí coi những ý tưởng cải cách của Hà Khai Ấm nêu ra đó là “lối thoát căn bản ngăn chặn bi kịch này tái diễn”.
Ngày 18 tháng 9 năm 1992, Dương Văn Lương và Khưu Thế Dũng cùng viết chung một bài “Chế độ công lương: lối thoát căn bản giảm nhẹ đóng góp của nông dân”. Không ngờ, rất nhiều bài viết liên quan của ông chỉ có độc một bài viết này được đăng trên tạp chí cơ quan tỉnh nhà, làm cho Bí thư tỉnh ủy Hình Sùng Trí chú ý. Hình Sùng Trí lập tức phê vào bài báo đó gửi cho Lý Bính Lương, Phó bí thư tỉnh ủy: “Đồng chí Bính Lương: triệu tập các đồng chí phụ trách liên quan vấn đề này nghiên cứu đề ra phương án cải cách, cố gắng tìm cách giải quyết về mặt luật pháp vấn đề đóng góp của nông dân quá nặng, chỉ nắm cái trước mắt không thể giải quyết được vấn đề này”.
Thực ra, trước đó Lý Bính Lương đã xem bài viết này ở Phòng nghiên cứu chính sách, và đã phê gửi cho Ngô Chí Hùng, chủ trì công tác của Phòng nghiên cứu chính sách, đồng thời kiêm nhiệm chủ nhiệm văn phòng tổ lãnh đạo cải cách tổng hợp cấp huyện. Ông đã phê vào bài viết của Dương Văn Lương: “Có rất nhiều gợi ý. Chọn một huyện thí điểm cải cách tổng hợp đem vấn đề này cùng với mở cửa giá lương thực, dầu ăn để thí nghiệm ra sao? Xin cân nhắc”. Bây giờ lại thấy ý kiến rất rõ ràng của Bí thư tỉnh ủy Hình Sùng Trí, quyết tâm của Lý Bính Lương muốn tiến hành thí nghiệm chế độ công lương càng lớn hơn, vì thế ông một lần nữa gửi lời phê cho Ngô Chí Hùng: “Đây là một vấn đề rất quan trọng. Theo lời phê của đồng chí Hình Sùng Trí, suy nghĩ ý kiến, rồi chọn thời gian thảo luận một buổi”.
Ngô Chí Hùng liên tiếp nhận được hai lời phê của Lý Bính Lương, không dám lề mề, lập tức tìm đến Dương Văn Lương, mong ông nhanh chóng đưa ra một cái gì cụ thể hơn.
Cuối cùng được lãnh đạo tỉnh ủy khẳng định, Dương Văn Lương rất phấn khởi, ông rất nhanh viết ra “kiến nghị về thực hành chế độ công lương”, cảm thấy chưa hài lòng lắm, sau đó lại khởi thảo một “Phương án cải cách chế độ công lương tỉnh Hà Bắc”. Để cho kín kẽ, vừa viết xong phương án, ông chạy đi trưng cầu ý kiến của Ban nông công tỉnh ủy, Văn phòng cải cách thể chế tỉnh, Sở tài chính và Sở nông nghiệp tỉnh, sau đó lại đi xuống huyện Chính Định, một huyện lớn sản xuất lương thực, trưng cầu ý kiến của bên dưới. Ông phát hiện thái độ của đảng bộ, chính quyền huyện Chính Định đối với tiến hành thí điểm này rất tích cực, vì thế lại cùng với Tạ Lục Sinh nghiên cứu viên cấp phó phòng Phòng nghiên cứu chính sách tỉnh ủy và 5 người trong Văn phòng cải cách tổng hợp huyện Chính Định là Từ Tường Hy, Tiêu Ngọc Vương, Hàn Căn Tỏa, Trương Ngân Tô, Diệp Chính Quốc, trải qua bốn tháng cùng nhau xuống điều tra tìm hiểu một trăm hộ nông dân của mười thôn trang thuộc năm hương trấn của huyện Chính Định. Cuối cùng sau bảy lần sửa chữa bản thảo, ông viết ra “Dự thảo làm thử thí điểm chế độ công lương huyện Chính Định”.
Lúc đó là tháng 5 năm 1993. Phương án cải cách đã viết xong, chuẩn bị báo cáo chính thức lên tỉnh ủy, Dương Văn Lương lại cảm thấy còn có một việc quan trọng chưa làm, đó là phải đi An Huy một chuyến đến thăm Hà Khai Ấm, người khởi xướng đầu tiên cải cách này, nghe qua ý kiến của ông.
Ngày 24 tháng 5 năm 1993, Dương Văn Lương từ Thạch Gia Trang đáp tàu hỏa xuống phía Nam, đến tỉnh lỵ Hợp Phì của tỉnh An Huy. Hợp Phì là một thành cổ có hơn 2000 năm lịch sử, đến ngày nay trong thành vẫn còn bảo tồn di chỉ Đài điểm tướng của Tào Tháo, Trương Liêu đại chiến bến Tiêu Dao thời kỳ Tam Quốc, còn bảo tồn đền Bao Công và mộ Bao Công của ông quan thanh liêm chính trực nổi tiếng thiên hạ Bao Chửng, còn có hương đường và cố cư của Lý Hồng Chương thân trước thân sau gánh nửa giang sơn Đại Thanh còn bị nhiều tranh cãi. Nhưng Dương Văn Lương tất tưởi bước chân lên phố Hợp Phì, không để tâm đến những điều đó, ông đến ở nhà khách đối diện với chính quyền tỉnh, vừa làm xong thủ tục, vội vã đi tìm Hà Khai Ấm.
Hà Khai Ấm gặp Dương Văn Lương từ xa nghìn dặm đến đây, và còn mang theo Tiều Ngọc Lương và Hàn Căn Tỏa của Văn phòng cải cách tổng hợp huyện Chính Định, thật biết bao phấn khởi. Ông đã chuẩn bị thu xếp để các vị khách Hà Bắc này trong thời gian ở Hợp Phì sống vui vẻ thoải mái một tý, ít nhất đưa mấy vị đi dạo chơi tham quan các nơi, nhưng được biết, đảng bộ, chính quyền tỉnh Hà Bắc rất coi trọng và ủng hộ cải cách thuế phí nông thôn, yêu cầu họ đưa ra phương án thực thi cụ thể thật nhanh, Hà Khai Ấm quyết định không đi đâu cả, đóng cửa lại, cùng với họ một lòng một dạ nghiên cứu “việc chung”. Ông rất hy vọng thành quả nghiên cứu của mình có thế giúp ích tốt hơn trên thực tế đối với cuộc cải cách mà tỉnh Hà Bắc muốn thí điểm ngay.
Đoàn Dương Văn Lương ở lại Hợp Phì hai ngày, là hai ngày họ cùng nhau trao đổi. Hai bên đều cảm thấy gặp nhau quá muộn, tất nhiên có vấn đề nói chưa hết.
Khi Dương Văn Lương trở lại Hà Bắc chẳng bao lâu đã hoàn thành công việc sửa chữa cuối cùng phương án thực thi thí điểm cải cách. Sau khi “Phương án thực thi” trình lên trên, thì Dương Văn Lương được biết người lãnh đạo chủ chốt tỉnh ủy Hà Bắc có biến động, không khỏi hồi hộp, công tác thí điểm cải cách thuế phí nông thôn có xảy ra rắc rối gì không?
Lo lắng của Dương Văn Lương không phải không có lý. Cho đến nay chúng ta chưa hình thành một chế độ hữu hiệu bảo đảm tính liên tục công tác không phụ thuộc vào thay đổi nhân sự, lâu nay nhan nhản những việc thay đổi vì nhân sự.
May là phó bí thư tỉnh ủy Lý Bính Lương vẫn một mực ủng hộ Dương Văn Lương, ông xem “Phương án thực thi” rất hài lòng, khi phê để xin Bí thư tỉnh ủy mới nghiên cứu quyết định, rõ ràng là xuất phát từ sự lo lắng giống nhau, nên viết thêm mấy câu:
“Phương án này là của các đồng chí Văn phòng cải cách tổng hợp và các đồng chí huyện Chính Định cùng soạn thảo, tôi đã nghe qua một lần. Đặc điểm chủ yếu của nó là thực hành chế độ công lương đi đôi với mở cửa giá mua bán lương thực. Đối với nông dân từ thuế tiền mặt đổi thành thuế hiện vật, một thứ thuế, thanh toán một lần, tính minh bạch cao, quần chúng dễ chấp nhận, có thể là chính sách căn bản giảm nhẹ đóng góp của nông dân, cũng có thể bảo đảm chi tiêu cần thiết của xã thôn và nhà nước nắm được số lượng lương thực nhất định. Trước hết thí điểm ở ba xã huyện Chính Định, đề nghị đồng ý cho làm thử”.
Trên thực tế, lo lắng của Dương Văn Lương bằng thừa, sau khi Bí thư tỉnh ủy mới đọc kỹ “Phương án làm thử thí điểm cải cách mua bán lương thực huyện Chính Định”, dứt khoát phê vào bốn chữ “đồng ý thí điểm”.
Lãnh đạo tỉnh ủy vỗ bàn đồng ý, Dương Văn Lương coi như thở phào nhẹ nhõm. Nhưng ông vẫn không dám chểnh mảng, để làm cho phương án càng hoàn thiện hơn, ông cùng với các đồng chí huyện Chính Định lại đi Bắc Kinh một chuyến. Họ lần lượt đến rất nhiều đơn vị và cơ quan Phòng nghiên cứu chính sách Trung ương, Ủy ban kế hoạch nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Bộ Nội thương, cho đến Học viện quản lý kinh tế nông nghiệp Đại học nông nghiệp Bắc Kinh v.v… trưng cầu ý kiến rộng rãi.
Khi Dương Văn Lương báo cho Hà Khai Ấm biết tình hình công tác tiến triển của họ, Hà Khai Ấm rất phấn chấn, thậm chí cảm thấy có phần ghen tỵ với khí phách cải cách và công tác chu đáo của tỉnh ủy Hà Bắc.
Cũng chính vào lúc này Hà Khai Ấm được tin trấn Tân Hưng huyện Oa Dương tỉnh nhà lén lút làm cải cách thuế phí, tin đó làm cho Hà Khai Ấm bán tín bán nghi, thậm chí cảm thấy không tưởng tượng nổi. Bởi vì ông đã từng cất công đi xuống huyện Oa Dương vì việc này, đến nay vẫn nhớ như in tình cảnh của hội nghị mở rộng huyện ủy Oa Dương, làm thế nào có thể xảy ra việc đó?
Nửa mừng vui, nửa hiếu kỳ, Hà Khai Ấm đáp xe khách đường trường, quyết định đi Oa Dương tìm hiểu thực hư.
40. Không tranh luận, làm cho họ xem
Ở Oa Dương, Hà Khai Ấm tìm đến huyện trưởng Uông Bính Dụ, người vì ủng hộ cải cách thuế phí, ném quyển vở ghi chép tại hội nghị huyện ủy mở rộng. Uông Bính Dụ tiếp đón ông rất nhiệt tình, nhưng khi Hà Khai Ấm hỏi đến tình hình cải cách thuế phí của trấn Tân Hưng, Uông Bính Dụ lại cười rất ý nhị, nói: “đồng chí hãy tự mình đi xem xem”. Sau đó gọi trưởng phòng thông tin Vương Vỹ đến, bảo Vương Vỹ dẫn Hà Khai Ấm đi tìm đồng chí phụ trách nông nghiệp bồi đồng.
Ra khỏi văn phòng huyện trưởng, Hà Khai Ấm không nén chịu được nữa hỏi ngay Vương Vỹ, Vương Vỹ lặng lẽ nói với Hà Khai Ấm: Trấn Tân Hưng làm cải cách thuế lan đi rất xa, rất xa, ngay cả tổ điều tra nghiên cứu của tỉnh Giang Tô, tỉnh Tứ Xuyên cũng nghe tiếng đến đây, có địa phương thậm chí là bốn ban lãnh đạo đảng ủy, chính quyền, hội đồng nhân dân, Chính hiệp của một hương trấn đã đến học tập rút kinh nghiệm, nhưng việc này ở Oa Dương đến nay vẫn dấu kín như bưng.
Hà Khai Ấm nghe, càng lấy làm lạ. Ở nơi xa xôi như thế còn có tin đồn, ông ở ngay tỉnh lỵ lại không hề nghe ai nói đến, điều đó phải chăng gọi là “đi đêm?”
Hà Khai Ấm theo Vương Vỹ đi tìm đồng chí phụ trách nông nghiệp. Không ngờ, nghe nói phải đi trấn Tân Hưng, họ không kiếm cớ công việc quá bận không đi được thì cũng cáo ốm không tiện đi ra ngoài, làm cho Vương Vỹ cũng rất lúng túng, nên dứt khoát nói thẳng với Hà Khai Ấm: “Bây giờ không ai dám đưa đồng chí đi, tôi tìm một người nữa, nếu không được, thì tôi đưa đồng chí đi vậy!”
Vương Vỹ nghĩ đến Ngưu Diểu, phó chủ nhiệm ban nông nghiệp huyện từ bí thư đảng ủy trấn lên. Ngưu Diểu mới hơn 30 tuổi, không chỉ tư tưởng giải phóng mà còn được phân công phụ trách công tác điều tra nghiên cứu nông thôn. Vương Vỹ gọi điện thoại cho Ngưu Diểu, sau khi hiểu rõ tình hình, Ngưu Diểu rất vui vẻ nhận lời cùng bồi đồng, nhờ đó mới làm cho Vương Vỹ không cảm thấy quá khó xử nữa.
Ba người cùng đến trấn Tân Hưng.
Ở trấn Tân Hưng, Hà Khai Ấm gặp được Lý Bội Kiệt, bí thư đảng ủy trấn.
Khi Lý Bội Kiệt biết được vị Tham sự chính quyền tỉnh này là người đưa ra ý tưởng cải cách này sớm nhất, vô cùng cảm động nắm chặt lấy hai tay bác Hà rất lâu, và nói liên hồi: “Tốt quá rồi. Thắp đèn lồng cũng tìm không ra, hôm nay thầy đến nhà rồi”.
Lý Bội Kiệt đứng trước người thật không nói dối, ông nói với Hà Khai Ấm, cải cách thuế phí của trấn Tân Hưng vẫn làm chui, nhưng cải cách này vô cùng trọng đại, chỉ dựa vào một xã đơn thương độc mã, chẳng khác nào thuyền con xông ra biển cả, đứng trước biến cố quá lớn, hiểm nguy quá lớn, khó khăn quá lớn. Trước đây, trấn qui định, một mẫu mỗi năm chỉ thu của nông dân 30 NDT “phí thuế khoán”, nhưng nhiều ngành cấp trên vẫn biến báo gán ép nhiệm vụ, phân bổ bừa, trấn chống đỡ không nổi, vì vậy cải cách có lúc hầu như không tiếp tục được!
Hà Khai Ấm tuy cảm thấy lo lắng cho tình cảnh đó của trấn Tân Hưng, nhưng ông vẫn không kìm nổi phấn khởi. Ông nghĩ, làm được là tốt. Mặc dù cải cách biện pháp trưng thu thuế phí này của trấn Tân Hưng, cũng giống như cải cách chế độ công lương của huyện Chính Định tỉnh Hà Bắc, nói cho cùng, vẫn chỉ là một thứ tu bổ không lý tưởng đối với thể chế cũ, hơn nữa vẫn là dùng quyền lực hành chính hợp pháp, đưa một số lợi ích bất hợp pháp trước mắt của ngành hành chính và tổ chức tập thể vào khoản thuế phí để trưng thu, thậm chí tỏ ra khoanh tay bó gối trước sự biến đổi của thị trường lương thực, nhưng việc thí điểm cải cách mạnh dạn này đã tiết kiệm rất nhiều giá thành quản lý trưng thu thuế phí, ngăn chặn cái thế đóng góp của nông dân tăng lên, huy động được tính tích cực của nông dân làm ruộng, và cải thiện được quan hệ giữa đảng với quần chúng, giữa cán bộ với quần chúng ở mức độ nhất định. Nhất là bất cứ vấn đề gì mà một cải cách có thể giải quyết thông thường đều nhiều hơn, rộng rãi hơn, sắc bén hơn những vấn đề mà cải cách gây nên, chính vì vậy, nó cung cấp cho chúng ta bài học và gợi ý đều không có gì quý hơn.
Sự đột phá, chưa từng có này, rõ ràng là mang ý nghĩa cột mốc không thể lường hết được trên con đường nông thôn Trung Quốc đi đến cải cách bước hai!
Hà Khai Ấm và Lý Bội Kiệt hầu như là mới gặp nhau đã quen thân như bạn cũ, hai người trò chuyện suốt đêm. Sau đó Hà Khai Ấm chịu khó đến từng hộ trong thôn, trên đường vừa tìm hiểu, vừa suy nghĩ. Sau khi trở về Hợp Phì, ông viết lại những điều tai nghe mặt thấy của mình thành một bản báo cáo điều tra nghiên cứu gửi thẳng cho chính quyền nhân dân tỉnh An Huy.
Điều làm ông phấn khởi bất ngờ là Vương Chiêu Diệu nguyên bí thư địa ủy địa khu Phụ Dương, lập nên khu thí nghiệm cải cách nông thôn Trung Quốc sớm nhất, lúc này giữ chức phó tỉnh trưởng thường trực tỉnh An Huy.
Việc thay đổi nhân sự này đưa đến cho Hà Khai Ấm một dự cảm: An Huy là tỉnh lớn nông nghiệp, có lý do mang đến một ít mừng vui cho nhân dân trong nước về việc đi sâu cải cách nông thôn.
Sau khi từ huyện Oa Dương trở về chẳng bao lâu, Hà Khai Ấm đi đến khách sạn Lúa Thơm ở Hợp Phì tham gia hội nghị công tác nông thôn toàn tỉnh, trong lúc hội nghị giải lao, một người dự hội nghị tên là Mã Minh Nghiệp tìm gặp ông, tự nói tên tuổi, giới thiệu mình là huyện trưởng huyện Thái Hòa, nói họ đã xác định năm này là “năm tăng thêm thu nhập cho nông dân, giảm nhẹ đóng góp của nông dân”, vì thế, huyện ủy, chính quyền huyện còn đề ra một chiến lược “lấy cải cách mưu cầu phát triển, lấy cải cách giảm nhẹ đóng góp”, huyện thông qua điều tra nghiên cứu nông thôn, cuối cùng xác định bắt tay tiến hành cải cách ở “thu thuế bỏ phí”.
Mã Minh Nghiệp nói thẳng, “Thưa thầy Hà, chúng tôi đã sớm biết thầy có rất nhiều ý tưởng rất hay về mặt đi sâu cải cách nông thôn”, “chúng tôi chúng đã tham quan trấn Tân Hưng của Oa Dương, huyện Thái Hòa, cũng định làm thử về cải cách thuế phí, mong được sự giúp đỡ của thầy”.
Hà Khai Ấm nghe rất phấn khởi nói: “Được, tôi có thể cung cấp cho anh một số tư liệu về mặt này”.
Mã Minh Nghiệp nói: “Thế thì rất cảm ơn thầy, lúc nào có thể cho tôi xem được?”
“Sau hội nghị tôi trao cho anh”.
“Nhưng tôi muốn xem ngay bây giờ”.
“Bây giờ?”. Hà Khai Ấm không nhịn được cười.
Mã Minh Nghiệp nói rất nghiêm túc: “Tốt nhất là hôm nay”.
“Được, tôi sẽ đi tìm”.
Tối hôm đó, Hà Khai Ấm về nhà lấy một số bài nghiên cứu của mình, trao cho huyện trưởng Mã Minh Nghiệp.
Điều càng làm Hà Khai Ấm bất ngờ hơn là động tác của huyện Thái Hòa nhanh đến kinh người, chỉ mấy ngày sau, họ trình lên chính quyền tỉnh một bản “Báo cáo ý kiến cải cách thuế phí nông nghiệp huyện Thái Hòa”.
Đây là việc về nông nghiệp nên “báo cáo” đến tay Vương Chiêu Diệu. Vương Chiêu Diệu nhận được báo cáo của huyện Thái Hòa vừa là không hẹn mà gặp, vừa nằm trong dự kiến. Bởi vì khi ông còn là Bí thư địa ủy Phụ Dương nảy sinh hứng thú rất lớn đối với cải cách thuế phí, ông nói với Hà Khai Ấm: “Chúng tôi quyết định làm” và dẫn Hà Khai Ấm đi tìm địa phương thí điểm. Khi tư tưởng của ban lãnh đạo hai huyện Dĩnh Thượng, Oa Dương còn rất khó thống nhất, ông lại nói với Hà Khai Ấm: “Việc này không vội được. Có một nơi anh yên tâm, tôi ủng hộ anh làm cải cách thuế phí ở địa khu Phụ Dương”. Bây giờ huyện Thái Hòa của địa khu Phụ Dương cuối cùng đã đứng ra, điều kiện rõ ràng cũng tương đối chín muồi, vì thế, ông đứng lên đánh trống mở đường cho cuộc cải cách này của Thái Hòa.
Ông lập tức viết lời phê: “Gửi đồng chí Diêu Tường đọc: Tiến hành cải cách chế độ thuế nông nghiệp ở huyện Thái Hòa, tôi cho rằng có thể làm được, xin cân nhắc”.
Thái độ của ông rất rõ ràng: “Tôi cho rằng có thể làm được”; là Phó tỉnh trưởng thường trực chính quyền, ông không những ra sức hỗ trợ, mà còn tìm thêm sự ủng hộ của Phó bí thư Phương Diêu Tường, được tỉnh ủy phân công phụ trách công tác này.
Ý kiến của Phương Diêu Tường lúc bấy giờ cũng rất rõ ràng: “Tận tâm thí điểm, chú ý tổng kết, giữ vững ổn định”.
Sau khi có ý kiến cụ thể của lãnh đạo phụ trách chính của tỉnh ủy, Vương Chiêu Diệu lập tức thông tin cho Phó văn phòng Trường Phong Sinh, yêu cầu Phó chủ nhiệm Ban kinh tế nông nghiệp tỉnh Ngô Chiêu Nhân căn cứ vào chỉ thị của lãnh đạo chủ quản tỉnh ủy, nhanh chóng tổ chức đơn vị hữu quan luận chứng nghiêm chỉnh, và nhấn mạnh cần phải tận tâm tổ chức, làm tốt thí điểm, chú ý tổng kết kinh nghiệm và kịp thời báo cáo tình hình tiến triển.
Trương Phong Sinh nhanh chóng chuyển “báo cáo” có lời phê của hai vị lãnh đạo tỉnh cho Ngô Chiêu Nhân. Ngô Chiêu Nhân triển khai bố trí rất nhanh.
Bốn vị lãnh đạo hữu quan của đảng bộ, chính quyền tỉnh, cùng ngày có lời phê rõ ràng vào “báo cáo” yêu cầu cải cách thuế phí ở huyện Thái Hòa, và văn phòng tổ lãnh đạo công tác nông thôn tỉnh, ngày hôm sau đã gửi thông tri triệu tập cuộc hội nghị luận chứng và cả “báo cáo” của huyện Thái Hòa cho các đơn vị và ngành hữu quan: Ban cải cách thể chế tỉnh, Sở tài chính tỉnh, Văn phòng giảm nhẹ đóng góp tỉnh và Văn phòng chính quyền tỉnh. Hiệu suất công tác giải quyết sự kiện cải cách trọng đại này hiếm thấy trong lịch sử của tỉnh An Huy.
Hà Khai Ấm khi nhận được thông tri mời ông dự hội nghị luận chứng, cũng giật mình về tốc độ xử lý phi thường này. Ông tin rằng, điều này dứt khoát có liên quan tới Phó tỉnh trưởng Vương Chiêu Diệu luôn ở tuyến đầu cải cách, liên quan đến tình thế cải cách sục sôi khí thế của hai tỉnh Hà Nam, Hà Bắc. Tất nhiên còn có một nhân tố quan trọng không nên coi thường là vào mùa xuân năm đó, một nông dân trẻ tên là Đinh Tác Minh ở thôn Lộ Doanh xã Kỷ Vương Trường huyện Lợi Tân tỉnh An Huy, vì phản ánh vấn đề đóng góp của nông dân bị đánh chết ở đồn công an, vụ án gây chấn động đến Trung ương. Sau đó, Trung ương Đảng, Quốc Vụ viện liên tiếp đưa xuống thông tri khẩn cấp, hội nghị chuyên đề và cả thẩm tra xử lý các khoản liên quan đến nông dân, trong khoản thời gian ngắn, “giảm nhẹ đóng góp” trở thành việc lớn hàng đầu của Trung Quốc năm đó.
Có thể nói, “Báo cáo” của huyện Thái Hòa yêu cầu tiến hành cải cách thuế phí nông thôn, lấy giảm nhẹ đóng góp của nông dân làm tôn chỉ chủ yếu được cả thiên thời, địa lợi, nhân hòa!
Vì vậy, Hà Khai Ấm cảm thấy, có sự ủng hộ hợp sức cả trên lẫn dưới, triệu tập cuộc hội nghị luận chứng trong tình hình như thế thì không thể xảy ra điều gì bất ngờ nữa.
Thế nhưng, tình hình mà ông không ngờ tới vẫn xảy ra.
8 giờ 30 phút sáng ngày 8 tháng 11 năm 1993, cuộc hội nghị luận chứng do Ngô Chiêu Nhân, Phó chủ nhiệm Ban kinh tế nông nghiệp tỉnh chủ trì khai mạc đúng giờ tại lầu sáu cơ quan tỉnh ủy. Tham gia hội nghị, không những có những người phụ trách các đơn vị và ban ngành Ban cải cách thể chế tỉnh, Sở tài chính tỉnh, Văn phòng giảm nhẹ đóng góp tỉnh, Văn phòng chính quyền tỉnh v.v…, còn có Trưởng phòng sản xuất, Trưởng phòng điều tra nghiên cứu, Chủ nhiệm văn phòng, Bí thư chi bộ đảng và Trưởng phòng quản lý kinh tế của Ban kinh tế nông nghiệp tỉnh đều đến dự; huyện trưởng huyện Thái Hòa Mã Minh Nghiệp, Trưởng phòng Phòng tài chính huyện Cung Hiểu Lê, Phó chủ nhiệm ban kinh tế nông nghiệp huyện Châu Tân Hoa và trưởng phòng điều tra nghiên cứu của chính quyền huyện Tống Duy Xuân cũng đều từ Thái Hòa về tỉnh, dự cuộc hội nghị này.
Hà Khai Ấm đến hội trường từ sớm.
Tại hội nghị, Phan Mậu Quần, trưởng phòng Phòng nông thôn Ban cải cách thế chế tỉnh phát biểu nhiệt tình sôi nổi. Ông rất tán thưởng cải cách mạnh dạn của huyện Thái Hòa, cho rằng “báo cáo” của họ rõ ràng rành mạch, thiết thực khả thi, thao tác tiện lợi, khẳng định đầy đủ, đồng thời, cũng nêu ra một số ý kiến cụ thể sửa đổi hoàn thiện thêm. Tiếp đó, Mao Lễ Hòa, thư ký văn phòng giảm nhẹ đóng góp tỉnh nêu ra, đóng góp của nông dân hiện nay thực là quá nặng, lại vẫn không giảm được, vì vậy, ông bày tỏ sự ủng hộ đối với “báo cáo” của huyện Thái Hòa, cho rằng có thể làm thử. Chu Tín Sinh, Trưởng phòng Phòng điều tra nghiên cứu Ban kinh tế nông nghiệp tỉnh thì nói, khi đồng chí Hà Khai Ấm vừa bắt đầu nêu ra ý tưởng cải cách thuế phí, ông đã giơ hai tay tán thành, chỉ cảm thấy phương án này của Thái Hòa đưa ra hiện nay vẫn còn hơi thô một chút, ông tin tưởng thông qua không ngừng tìm tòi, thực tiễn, công tác này sẽ ngày càng được hoàn thiện.
Hà Khai Ấm cũng phát biểu tại hội nghị. Ông chủ yếu nói đến suy nghĩ của mình đối với cải cách thuế phí bao nhiêu năm qua, và nêu rõ, đã là một cuộc cải cách tất nhiên sẽ liên quan đến những vấn đề cụ thể của nhiều ngành, vì vậy đặc biệt mong muốn các ngành hữu quan thông cảm và ủng hộ nhiều nhiều cho cải cách này của huyện Thái Hòa.
Phát biểu của mọi người về cơ bản đều bày tỏ thái độ ủng hộ tích cực, nhưng không ai ngờ, đại diện của Sở tài chính tỉnh, ngành chủ quản công tác trưng thu thuế nông nghiệp, lại nằng nặc đưa ra ý kiến phủ định và rất gay gắt.
Lúc này, Trưởng phòng Phòng thuế nông nghiệp Sở tài chính tỉnh Trương Quang Xuân ngồi ở ghế cách xa Hà Khai Ấm thình lình đứng dậy tay chỉ Hà Khai Ấm, lớn tiếng chỉ trích: “Ông Hà, ông đừng đứng dậy phát biểu cho đỡ đau lưng! Đưa ra chủ ý bừa bãi! Ông làm loạn thuế phí, thu không được thuế, từ nay trở đi ai trả lương? Đến lúc không trả được lương, mọi người sẽ không tìm ông, mà là tìm tôi”.
Giọng ông ta rất to, nói rất gay gắt, vụt đứng lên lại chỉ thẳng vào Hà Khai Ấm, tất cả đều xảy ra rất đường đột, làm cho những người dự hội nghị ai cũng ngớ người ra.
Không khí hội nghị bỗng chốc trở nên căng thẳng.
Thoạt đầu khi chúng tôi nghe khúc nhạc dạo đầu này ở hội nghị luận chứng, cũng cảm thấy không hiểu nổi. Bởi vì, Phòng thuế nông nghiệp suốt ngày làm bạn với “thuế nông nghiệp”, là người phụ trách của ngành này lẽ ra phải rõ hơn ai hết đóng góp của nông dân ở nông thôn hiện nay, đóng góp đó quá nặng, ngay cả Thủ tướng Chu Dung Cơ về sau cũng không thể không lớn tiếng kêu lên: “nông dân không kham nổi gánh nặng, vấn đề này cần phải giải quyết”. Thậm chí còn nói “bòn rút xương tủy”, “nông dân oán hận sục sôi”.
Còn một quan chức nhà nước chuyên làm “thuế nông nghiệp” thì không có chút lòng trắc ẩn đối với 900 triệu nông dân “người nộp thuế” nhiều nhất Trung Quốc, lại đứng ra làm người phát ngôn cho “tộc người làm công ăn lương”, việc đứng nhầm chỗ nghiêm trọng trong tình cảm và tinh thần trách nhiệm đó, làm cho người ta không tưởng tượng nổi.
Người ngồi không yên trước hết là Mã Minh Nghiệp, huyện trưởng huyện Thái Hòa.
Mã Minh Nghiệp nói rất rành rọt, bản “báo cáo” này của huyện Thái Hòa có tham khảo rất nhiều “chủ ý” cải cách của Hà Khai Ấm, và những “chủ ý” đó đều tốt. Trước đó, huyện cũng đã làm rất nhiều công tác điều tra, Mã Minh Nghiệp từng điều một loạt đồng chí có tinh thần trách nhiệm rất cao ở Ban kinh tế nông nghiệp, Phòng pháp chế, Phòng tài chính huyện, tổ chức thành một tổ điều tra do Chu Trị Lâm, chủ nhiệm Văn phòng chính quyền làm tổ trưởng, Châu Tân Hoa, Phó chủ nhiệm Ban kinh tế nông nghiệp làm tổ phó, đi vào hơn 100 nông hộ ở mười thôn năm trấn Cung Tập, Cựu Huyện, Thuế Trấn, Tiêu Khẩu và Bì Điều Tôn, sau khi tiến hành rất nhiều điều tra nghiên cứu và thông qua tổng kết qui nạp nghiêm túc, mới hình thành bản “báo cáo” này, hơn nữa, “báo cáo” này cuối cùng lại được hội nghị thường vụ lần thứ 26 chính quyền huyện xem xét thông qua.
Mã Minh Nghiệp thừa nhận, “báo cáo” còn phải sửa chữa khá nhiều, thậm chí có thể cần bỏ đi làm lại, nhưng tư tưởng cải cách và tôn chỉ chủ yếu của nó là không nên hoài nghi. Trưởng phòng thuế nông nghiệp Sở tài chính không cần phân tích phủ định cả gói đối với “báo cáo” của họ, lời lẽ quá khích như vậy, thái độ thô bạo như vậy, dù thế nào chăng nữa, điều đó không thể chấp nhận được.
Mã Minh Nghiệp đang muốn đứng lên đánh trả lại, nhưng bị Hà Khai Ấm ấn nhẹ, ngụ ý ông phải bình tĩnh.
Do vị Trưởng phòng thuế nông nghiệp này giữ ý kiến phủ định kiên quyết, vì vậy tranh luận ở hội nghị trở nên rất gay gắt, song cuối cùng nhiều người ủng hộ.
Sắp kết thúc hội nghị, Ngô Chiêu Nhân chủ trì hội nghị tổng kết mấy điểm. Ông nói xuất phát điểm của huyện Thái Hòa yêu cầu cải cách thuế phí nông thôn trước tiên là nên khẳng định, suy nghĩ cũng tốt. Như vậy vừa có thể giảm nhẹ đóng góp của nông dân, vừa có thể giảm bớt cán bộ mắc sai lầm, thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, hơn nữa, điều đó cũng được lãnh đạo hữu quan của tỉnh ủy, chính quyền tỉnh ủng hộ. Còn về cải cách này rốt cuộc đặt tên gì? Cải cách như thế nào? Chúng ta có thể học cách làm của Quảng Đông, “đặt tên cho con sau”. Ông nói, tôi đồng ý tiến hành thí nghiệm cải cách này ở huyện Thái Hòa, nhưng “báo cáo” phải viết lại, có thể viết kỹ hơn một chút, để nó phải nói được về mặt lý luận, phải làm được về mặt thực tiễn, sau đó chúng ta lại mời chuyên gia luận chứng một lần nữa.
Sau khi tan họp, Mã Minh Nghiệp túm áo Hà Khai Ấm hỏi: “Ở hội nghị người ta nói thầy như thế, vì sao thầy không lên tiếng”.
Hà Khai Ấm cười hà hà, nói: “Chúng tôi là bạn bè. Anh ấy không thành kiến với tôi, anh ấy xuất phát từ công việc”.
“Đã là bạn, làm sao lại có thể không có chút nể mặt như thế?” Mã Minh Nghiệp càng lấy làm lạ, “một câu thầy cũng không tranh luận?”
Hà Khai Ấm nói: “Đối với những việc như thế, vẫn phải làm theo câu nói của đồng chí Tiểu Bình, không tranh luận, làm cho họ xem! Việc đó tranh luận không đi đến kết quả, càng tranh luận càng gay gắt, ngược lại tổn thương tình cảm, tăng thêm trở lực”
Mã Minh Nghiệp suy nghĩ một lát rồi nói: “Thầy nói cũng đúng. Không làm việc thì sẽ không có chút ít đúng sai, muốn làm thì không sợ nói này nói kia. Dân gian có câu tục ngữ: “nước rút mới thấy hai chân dính bùn”. Chân đạp lên đất, mở ra một con đường, là điều quan trọng hơn bất cứ cái gì.
Hà Khai Ấm nhìn vị huyện trưởng trẻ có khuôn mặt xinh trai, bỗng nhiên cảm thấy ah ta thật đáng yêu, đáng kính.
Khi chia tay, Mã Minh Nghiệp từ tốn nói:
Tôi đi xe khác về ngay, tôi để lại lái xe và xe cho thầy, Châu chủ nhiệm Ban kinh tế nông nghiệp cũng ở lại, tôi chờ thầy ở Thái Hòa.
Hà Khai Ấm nghe nói cười: “Anh cũng không hỏi ý kiến của tôi, anh đã chắc như thế kia à?”
Mã Minh Nghiệp nắm tay Hà Khai Ấm lắc lắc mạnh, rồi nói: “Cứ như thế đi, cứ như thế đi, tôi chờ thầy ở Thái Hòa, có gì để đến Thái Hòa hãy nói!”
Ngày hôm đó, Mã Minh Nghiệp vội về Thái Hòa. Tối hôm đó, Hà Khai Ấm và Châu Tân Hoa ở lại bước đầu bàn phương án sửa chữa “báo cáo”. Ngày hôm sau, dậy sớm, hai người và vội mấy miếng cơm, ngồi xe con của Mã Minh Nghiệp lên đường.
Chiều hôm đó đến huyện Thái Hòa, toàn thể thành viên của sáu ban lãnh đạo huyện ủy, chính quyền huyện, Hội đồng nhân dân huyện, Chính hiệp huyện, Ban kiểm tra kỹ thuật huyện, Ban chỉ huy quân sự huyện, các trưởng phòng hữu quan trực thuộc huyện đều tề tựu đông đủ. Tại cuộc họp, Mã Minh Nghiệp báo cáo tình hình hội nghị luận chứng ở tỉnh; tiếp đó, Hà Khai Ấm phát biểu ý kiến về làm thế nào xây dựng tốt phương án cải cách thuế phí lần này. Cuộc họp hết sức sôi nổi, mọi người đua nhau hiến kế, nêu ra suy nghĩ và đề nghị của mình. Châu Tân Hoa được gọi là “cây súng máy”, đêm hôm đó, ông thức suốt đêm viết lại bản báo cáo.
Sáng hôm sau, sáu ban lãnh đạo, các trưởng phòng chụm đầu lại một lần nữa, tiến hành một vòng thảo luận sôi nổi bản “báo cáo” mới thảo lại. Buổi trưa, Châu Tân Hoa tập hợp ý kiến của mọi người, buổi chiều ngồi lại tiếp tục thảo luận.
Bí thư huyện ủy Vương Tâm Vân nêu ra yêu cầu “ba cần phải” về vấn đề phương án cải cách: “Cần phải đạt được mục đích giảm nhẹ đóng góp”, để nông dân hài lòng; cần phải làm được “rõ ràng dễ làm, trình tự đơn giản”, thật sự nâng cao hiệu suất công tác của cán bộ cơ sở. Cần phải chiếu cố đến lợi ích của ba phía nhà nước, tập thể, cá nhân, được lãnh đạo cấp trên ủng hộ”.
Nhờ có chỉ đạo cụ thể của Hà Khai Ấm, lại thông qua tập hợp rộng rãi ý kiến quí báu từ trên xuống dưới, đầy đủ mọi mặt cân nhắc kỹ lưỡng, một bản “báo cáo về phương án thực thi cải cách thuế phí nông nghiệp huyện Thái Hòa” gồm có bốn phần, 19 điều ra đời.
“Phương án thực thi” quyết định: bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 1994, huyện Thái Hòa bãi bỏ nhiệm vụ định mua lương thực trong phạm vi toàn huyện, sửa đổi thành thu công lương của nông dân, thu lương thực bằng hiện vật là chính, nếu nộp hiện vật có khó khăn, cũng có thể nộp tiền thay tính theo giá lương thực thị trường năm đó do ngành vật giá, tài chính v.v… cùng nhau xác định. Sửa đổi nhiều khoản trưng thu trước đây thành trưng thu sáp nhập, phân loại thanh toán; sửa đổi ba cấp xã, thôn, cụm thanh toán trước đây thành hương trấn thống nhất thanh toán; sửa đổi trưng thu quản lý nhiều tầng nấc lâu nay thành trưng thu quản lý thống nhất; sửa đổi thuế phí nông dân đóng góp theo sản lượng biến động thành sản lượng cố định, sửa đổi tính thuế phí trước đây lấy theo đầu người, ruộng đất, sản lượng và thu nhập ròng làm căn cứ, thành chủ yếu lấy mẫu ruộng làm căn cứ. Năm bình thường, mỗi mẫu đất canh tác trưng thu công lương 50 kg, cố định ba năm không thay đổi; đối với tình hình khác nhau của thôn, cụm, nông hộ không có đất canh tác hoặc đất canh tác bình quân đầu người không nhiều, và cả hộ đặc biệt khó khăn trong nông thôn thì lần lượt xây dựng các biện pháp khác nhau.
Hoàng đế khai quốc triều Minh Chu Nguyên Chương xuất thân từ nông dân khi nói đến thu thuế theo luật pháp như thế nào, có nói câu nổi tiếng “luật pháp quí ở chỗ đơn giản, làm mọi người dể hiểu”, Hà Khai Ấm cũng tóm tắt cải cách thuế phí huyện Thái Hòa thành “Tứ tự kinh” có 4 dòng 64 chữ:
Thuế phí tính chung, thu theo hiện vật, nộp lương theo sổ, bãi bỏ đặt mua;
Hè sáu thu bốn, hai lần nộp xong, ba năm cố định, không tăng không giảm;
Trạm lương thu lương, tài chính thanh toán, thuế nộp nhà nước, phí nộp xã thôn;
Khoán cả chi tiêu, thôn có xã quản, thu chi chặt chẽ, sổ sách công khai.
Tóm lại, “phương án thực thi” cố gắng hết sức để làm được gần gũi nhân dân, phù hợp thực tế, vừa phải có tính nghiêm túc của nó, lại thể hiện một sự quan tâm nhân văn. Để thiết thực ngăn chặn “ba bừa bãi”, giảm nhẹ đóng góp của nông dân, trong phương án có thêm hai điều khoản riêng; một là, “ai vi phạm hợp đồng công lương, phân bổ bừa bãi, huy động vốn bừa bãi, thu phí bừa bãi đối với nông dân, thì nông dân có quyền từ chối, có quyền khai báo, khiếu kiện, chính quyền bảo hộ và khuyến khích những người khai báo”. Hai là, “Tòa án nhân dân huyện căn cứ vào thông tri về kịp thời xử lý vụ án đóng góp của nông dân quá nặng gây ra” của Tòa án nhân dân tối cao, chiếu theo hợp đồng, đối với các vụ án cơ quan hành chính, cán bộ xã thôn phi pháp yêu cầu nông dân gánh vác chi phí hoặc lao động mà dẫn đến tố tụng hành chính, thì tòa án nhân dân thụ lý theo luật pháp, kịp thời xét xử. Bãi bỏ theo luật pháp đối với quyết định bất hợp lý; vì phân bổ bừa bãi gây thiệt hại kinh tế cho nông dân, phán quyết bồi thường theo luật pháp; đối với những vụ án xấu do tùy tiện tăng thêm đóng góp của nông dân gây ra, căn cứ theo luật pháp truy cứu trách nhiệm hình sự những người có trách nhiệm gây ra tổn thất to lớn”.
Tất nhiên “phương án thực thi” cũng nhấn mạnh tính không hoàn lại và tính cưỡng chế của công tác thu thuế phí, đối với nông dân không làm tròn nghĩa vụ, qua thuyết phục giáo dục không có hiệu quả, cũng có qui định căn cứ theo luật pháp pháp qui hữu quan giải quyết, thậm chí khi cần thiết có thể yêu cầu Tòa án nhân dân cưỡng chế chấp hành.
Sau khi “Phương án thực thi” được hội nghị liên tịnh sáu ban lãnh đạo xét duyệt lần nữa, Hà Khai Ấm cùng với Mã Minh Nghiệp và Châu Tân Hoa lại chạy về Phụ Dương. Bí thư địa ủy Phụ Dương lúc này là Tần Đức Văn, sau khi xem “Báo cáo về phương án thực thi cải cách thuế phí nông nghiệp huyện Thái Hòa” vô cùng phấn khởi, lập tức thông tri Văn phòng đóng dấu của địa ủy và chính quyền.
Hà Khai Ấm đi Thái Hòa lần này ở lại ba ngày ba đêm. Hôm nay sau sáu năm nhớ lại chuyến đi Thái Hòa lần đó, ông xúc động nói: “tinh thần cải cách và thực tế của huyện trưởng Mã Minh Nghiệp làm người ta khó quên, khả năng phối hợp hài hòa của Bí thư Vương Tâm Vân thể hiện trong công tác thống nhất hành động của sáu ban lãnh đạo quả thực làm người ta khâm phục!”
“Phương án thực thi” sau khi gửi lên tỉnh, được lãnh đạo Ban kinh tế nông nghiệp, Sở lương thực và Sở tài chính tỉnh nhất trí chấp nhận. Tất nhiên trong khi khẳng định đầy đủ, họ cũng nêu ra một số ý kiến rất cụ thể, rất tốt. Cuối cùng Ngô Chiêu Nhân phó chủ nhiệm ban kinh tế nông nghiệp đích thân xác định cuối cùng “Phương án thực thi”.
9 giờ sáng ngày 16 tháng 11 năm 1993, Châu Tân Hoa mang bản sửa cuối cùng của “Phương án thực thi” đến văn phòng chính quyền tỉnh. Theo qui định của Văn phòng, phải đưa công văn đến Phòng văn thư, sau khi Phòng văn thư đọc, căn cứ theo yêu cầu gửi cho các phòng ban hữu quan, sau đó phòng ban hữu quan ký chuyển cho lãnh đạo phân công phụ trách của Văn phòng, để chuyển cho Phó văn phòng và Phó tỉnh trưởng được phân công phụ trách công việc này, một vòng quay như thế thật phí sức. Để tranh thủ thời gian, Hà Khai Ấm nói: “Chúng ta thử phá vỡ thông lệ này xem sao”. Ông biết Phó tỉnh trưởng Vương Chiêu Diệu luôn quan tâm theo dõi chặt chẽ việc này, đã làm nhiều việc tỉ mỉ cho tỉnh ủy, chính quyền, vì thế ông giới thiệu cho Châu Tân Hoa nộp 10 bản cho trưởng phòng văn thư, sau đó ông cầm một bản trực tiếp gửi cho phó văn phòng Trương Phong Sinh phụ trách nông nghiệp. Trương Phong Sinh sau khi lật một lượt tài liệu, nhìn Hà Khai Ấm hỏi: “Tài liệu này ông đã xem kỹ chưa?” Hà Khai Ấm thận trọng nói: “Đây là tài liệu tôi và họ cùng làm, lại được chính quyền địa khu Phụ Dương xem duyệt đóng dấu, và sau khi được Ban kinh tế nông nghiệp duyệt sửa thành bản chính thức mới báo cáo lên trên”. Trương Phong Sinh xem một lượt từ đầu chí cuối, không nói năng gì, cầm bút ký chữ “đồng ý”.
Tiếp theo đó là Trưởng phòng văn thư làm thủ tục chuyển công văn, trước sau không đến hai tiếng đồng hồ. Sau việc này, Hà Khai Ấm khẳng khái nói: “đây là một lần làm việc giải quyết giấy tờ hiệu suất cao nhất, tốc độ nhanh nhất mà tôi thấy được từ khi về văn phòng này hơn 20 năm nay”.
Thế là, một cuộc cải cách thuế phí nông thôn chưa từng có đã mở màn ở huyện Thái Hòa có 1.39 triệu dân, 1,75 triệu mẫu đất canh tác nằm trên đồng bằng Hoài Bắc rộng lớn, làm rạo rực lòng người.
Ngày 1 tháng 1 năm 1994, trong khi cải cách chế độ công lương của tỉnh Hà Bắc vẫn đang tiến hành thí điểm trong phạm vi ba xã của huyện Chính Định, huyện Thái Hòa tỉnh An Huy triển khai toàn diện cuộc cải cách này ở 31 xã, trấn trong toàn huyện như sấm rền chớp giật, từ đó nó xứng đáng trở thành huyện đầu tiên cải cách thuế phí nông thôn Trung Quốc.
41. Cải cách và không cải cách là có khác nhau
Trong một bài viết đưa tin cải cách thuế phí nông thôn Trung Quốc đăng trên tờ “Thời báo kinh tế Trung Quốc” do Trung tâm nghiên cứu phát triển kinh tế Quốc Vụ viện chủ biên có nói đến “Nam Bắc cùng nhau thúc đẩy cải cách”. Về vấn đề này, Dương Văn Lương, phụ trách nhóm đề tài cải cách này của Phòng nghiên cứu chính sách Tỉnh ủy Hà Bắc viết một cách khiêm tốn trong một bức thư gửi ông Hà Khai Ấm như sau:
Coi tôi ngang hàng với thầy Hà, thực tế là đề cao tôi. Nói về thời gian đề xướng chế độ công lương, thầy Hà sớm hơn tôi; về trình độ nghiên cứu hạng mục cải cách này, thầy Hà nghiên cứu sâu hơn tôi. Vì vậy cải cách chế độ công lương, An Huy là cái nguồn, Hà Bắc là cái nhánh; thầy Hà là thầy, Dương Văn Lương là trò. Tôi chẳng qua chỉ theo bước thầy, tích cực chạy vạy hô hào phất cờ hò hét thúc đẩy cải cách chế độ thuế nông nghiệp mà thôi.
Tuy Dương Văn Lương nói như vậy, nhưng tỉnh Hà Bắc chính vì có những đồng chí như Dương Văn Lương chạy vạy hô hào có sự ủng hộ mạnh mẽ của lãnh đạo Tỉnh ủy, lại thêm tỉnh Hà Bắc lại là nơi bảo vệ chung quanh kinh thành, chiếm hết ưu thế địa lợi, vì vậy cải cách của họ ngay từ khi bắt đầu đã làm cho các giới xã hội chú ý rộng rãi, và trong thời gian rất ngắn đã làm rất nổi đình nổi đám, với khí thế rầm rộ, sục sôi cuồn cuộn.
Ngày 3 tháng 12 năm 1993, tức ngày thứ 16, huyện Thái Hòa tỉnh An Huy mở màn cải cách thuế phí, Văn phòng cải cách tổng hợp tỉnh Hà Bắc và chính quyền huyện Chính Định tỉnh Hà Bắc liên hợp tổ chức cuộc “Hội thảo thí điểm cải cách chế độ công lương” ở Bắc Kinh.
Có thể nói, đây là cuộc hội thảo lý luận đầu tiên về liên quan đến cải cách thuế phí nông thôn trong lịch sử Trung Quốc. Tầm cỡ cao, ảnh hưởng lớn của cuộc hội thảo đều chưa từng có.
Lãnh đạo và chuyên gia nổi tiếng có liên quan của Ban nghiên cứu chính sách Trung ương, Ban nghiên cứu Quốc Vụ viện, Trung tâm nghiên cứu phát triển Quốc Vụ viện, Ủy ban cải cách thể chế Nhà nước, Viện Khoa học nông nghiệp Trung Quốc, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Bộ Nội thương đều đến dự.
Tại cuộc hội thảo, mọi người đều đánh giá rất cao việc thí điểm cải cách chế độ công lương này của tỉnh Hà Bắc. Rõ ràng là ảnh hưởng của cuộc hội thảo đối với các cơ quan trực thuộc Trung ương và nhà nước còn lớn hơn thu hoạch của nó về mặt nghiên cứu lý luận.
Năm mới vừa sang, ngày 10 tháng 1 năm 1994, Bí thư Tỉnh ủy Hà Bắc lại đưa ra tiếp quyết định “có thể mở rộng thí điểm”. Thế là, thí điểm cải cách chế độ công lương của Hà Bắc từ ba xã của huyện Chính Định nhanh chóng mở rộng ra 184 xã, trấn của 26 huyện thị toàn tỉnh, trong đó các chuyện Chính Định, Ninh Phổ, Cố Thành, Tân Lạc và huyện Thương đều triển khai toàn diện trong toàn huyện.
Vào lúc này, “Quang Minh nhật báo” đăng bài hết lời ca ngợi chế độ công lương của tỉnh Hà Bắc, báo “Tham khảo kinh tế” và tạp chí “Tìm tòi và cầu thị” cũng liên tiếp đăng bài “Chế độ công lương là chính sách cơ bản giảm nhẹ đóng góp của nông dân” v.v…
Bốn tháng sau, ngày 10 tháng 5, tỉnh Hà Bắc lại triệu tập đại hội trao đổi phương án thí điểm chế độ công lương toàn tỉnh tại huyện Hoạch Lộc.
Trong một thời gian, làn sóng cải cách chế độ công lương cuồn cuộn dâng lên sục sôi trên bờ ruộng ngút ngàn ở bờ Bắc Hoàng Hà này; mang lại sức sống hừng hực cho vùng sản xuất lúa bông quan trọng của nước ta!
Điều đáng tiếc lại là, cuộc cải cách thuế phí nông thôn xuất phát từ An Huy, vào lúc này, chính tại nơi đây, An Huy lại gặp phải số phận khác. Tỉnh trưởng tỉnh An Huy Phó Tích Thọ bỗng nhiên đưa ra quyết định yêu cầu huyện Thái Hòa ngừng ngay thí điểm cải cách thuế phí.
Quyết định này đến rất bất ngờ, đến nỗi làm cho nhiều người không rõ rốt cuộc là ý kiến cá nhân của tỉnh trưởng hay là có chuyện gì của Trung ương.
Khi nghe tin này, thoạt đầu, Hà Khai Ấm thậm chí không dám tin. Bởi vì ông vẫn luôn giữ liên hệ đường dây nóng với Dương Văn Lương, rõ ràng tỉnh Hà Bắc đang làm với khí thế ngút trời, việc cấm thí nghiệm này hiển nhiên không phải là ý của Trung ương. Nhưng quyết định của tỉnh trưởng yêu cầu ngừng ngay thí điểm cải cách chế độ thuế chắc hẳn phải có căn cứ nguyên do, khỏi phải nói, vẫn là một số lý do mà Hội đồng nhân dân huyện Oa Dương năm ấy lấy đó để quyết định chấm dứt cải cách thuế phí ở trấn Tân Hưng, tức cải cách này là phi pháp, bởi vì căn cứ của chế độ thuế nông nghiệp hiện hành là “Điều lệ thuế nông nghiệp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”. Mặc dù “Điều lệ” này ban bố từ năm 1958, hơn 30 năm qua, Trung Quốc đã có những biến đổi long trời lở đất, nông nghiệp của Trung Quốc dù là sản phẩm, cơ cấu sản nghiệp và cả cơ cấu thu nhập, hay là phương thức sản xuất và phương thức kinh doanh đều có những biến đổi cơ bản, chế độ thuế nông nghiệp không phù hợp với ngày nay đó đã bộc lộ ra nhiều điều bất cập, nhưng “Điều lệ” năm đó một ngày chưa bị xóa bỏ thì một ngày nó còn có hiệu lực pháp lý, chế độ thuế này vẫn được luật pháp bảo hộ, vì vậy bất cứ một quyết định nào đưa ra sửa đổi vi phạm pháp chế này đều phải có lý do đầy đủ.
Trong phỏng vấn, chúng tôi không thể nào biết được nguyên nhân thực sự của Phó Tích Thọ đột ngột đưa ra quyết định này, nhưng quyết định bất thường này rõ ràng là đánh đòn cảnh cáo đối với tất cả những người nhiệt tình ủng hộ cải cách của huyện Thái Hòa, nhất là người Thái Hòa đang trong cải cách!
Người ta bàng hoàng, sửng sốt, lo buồn, đau xót, nhưng lại không biết làm sao được.
Không ít người cũng đặt câu hỏi sau lưng: nếu không dám thay cũ đổi mới, hăng hái tiến thủ, nông thôn còn có thể phát triển được không? Hoặc nói, nông nghiệp Trung Quốc, và nông dân Trung Quốc còn có hy vọng nữa không?
Hà Khai Ấm cảm thấy cần thiết phải đứng lên tranh cãi cho ra nhẽ.
Vì thế, ông phô-tô các phê duyệt có liên quan của Bí thư, tỉnh trưởng Hà Nam và Bí thư hai nhiệm kỳ, tỉnh trưởng hai nhiệm kỳ Hà Bắc gửi cho lãnh đạo chủ chốt của đảng bộ và chính quyền tỉnh An Huy.
Lúc này, Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy, phó chủ tịch thường trực tỉnh An Huy Vương Chiếu Huy đứng ra lên tiếng.
Vương Chiếu Huy tìm gặp Lư Vinh Cảnh, Bí thư Tỉnh ủy, trình bày ý kiến của mình. Ông nói: “Chính quyền tỉnh đã ký và gửi đi văn kiện phê chuẩn huyện Thái Hòa tiến hành cải cách thuế phí nông thôn, nếu bây giờ lại gửi công văn phủ định, như vậy chẳng phải là tự vả vào mồm mình hay sao? Pháp lệnh thay đổi xoành xoạch như vậy, chính quyền từ nay về sau còn biết làm việc thế nào? Huống hồ công tác cải cách thuế phí nông thôn, các tỉnh khác cũng đang làm!”
Tất nhiên Lư Vinh Cảnh biết rõ cải cách của Thái Hòa tiến hành dưới sự ủng hộ của Vương Chiếu Huy, ý kiến của đồng chí không phải không có đạo lý, nhưng Phó Tích Thọ muốn ngưng cải cách của Thái Hòa là để bảo vệ luật thuế, cũng xem xét từ công việc, không chỉ có đạo lý, mà càng có cơ sơ sở pháp lý. Vì thế Lư Vinh Cảnh nói: “Nếu chưa gửi công văn đi, không làm thì cũng không làm, tỉnh đã gửi công văn đi rồi, thì tiếp tục làm vậy, sau vụ thu xem hiệu quả thế nào rồi hãy tính”.
Bí thư Tỉnh ủy đều giữ thể diện cho tỉnh trưởng và phó tỉnh trưởng phụ trách nông nghiệp. Tuy lời nói khá ôn hòa, nhưng cuối cùng là tiếng nói quyết định, vì vậy, cải cách thuế phí nông thôn của huyện Thái Hòa cũng được tiếp tục.
Sau vụ thu, tình hình có sự thay đổi kịch tính, Phó Tích Thọ đã mất quyền phát ngôn đối với cải cách của huyện Thái Hòa. Ông ta bị bãi miễn chức vụ tỉnh trưởng tỉnh An Huy, tin đến rất đột ngột, hôm đó, ông ta vừa đi thăm Âu Mỹ về, đang còn ở sân bay Lạc Cương Hợp Phì đã tuyên bố quyết định của Trung ương muốn ông ta sớm rời khỏi cương vị tỉnh trưởng. Theo người ta nói, đó là vì cán bộ quần ch