← Quay lại trang sách

Chương 12 Dám hỏi đường ở phương nào?

54. Thị trường không tin nước mắt

Trong bản “Báo cáo điều tra” của Hà Khai Ấm gửi Trung ương, đã thẳng thắn nêu ra: “Khuyết điểm lớn nhất của phương án cải cách thuế phí lần này chính là không xây dựng cơ chế tăng thu nhập”.

Khi thực thi thí điểm, An Huy rõ ràng đã chú ý đến việc ra sức nâng đỡ nông nghiệp, tích cực thúc đẩy kinh doanh hóa ngành sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp, tăng cường sức cạnh tranh thị trường của nông nghiệp. Tóm lại, tìm mọi cách để cho đông đảo nông dân tăng sản lượng, tăng thu nhập, nhanh chóng giàu lên.

Họ không quên câu nói của Đặng Tiểu Bình: Phát triển mới là đạo lý cứng. Tất nhiên phát triển này phải là phát triển mang tính bền vững.

Lợi ích của việc điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp mang lại cho nông dân là điều trông thấy rõ ràng. Khi chúng ta bắt đầu tiếp xúc vấn đề này chính là lúc nông dân trồng dưa của ba huyện thuộc thành phố Hợp Phì “nói dưa đổi màu”. Một năm trước, các loại dưa hấu trên thị trường Hợp Phì đều bán được giá, vì thế những nông dân trồng dưa không nghiên cứu quy luật thị trường, đến lúc này vẫn chưa ra khỏi vòng ràng buộc của nông nghiệp truyền thống mù quáng đổ xô nhau đi trồng dưa, năm đó ruộng dưa khu vực Hợp Phì một lúc mở rộng ra đến 18 vạn mẫu, tổng sản lượng đạt 270.000 tấn, mà dân Hợp Phì mỗi ngày tiêu thụ dưa hấu chỉ 15 tấn, lại thêm những dưa hấu này cơ bản thuộc vào loại dưa chín giữa vụ thông thường, chất lượng bình thường, sản lượng rất lớn, thời gian lại quá tập trung, quả dưa vất vả mấy tháng mới trồng được, nay hai hào một ký cũng không bán nổi, xuất hiện chuyện lạ một quả dưa hấu to không bằng tiền nửa chai nước suối. Những người trồng dưa rơi nước mắt đau lòng.

Để cố hết sức giảm bớt thiệt hại của người trồng dưa, giới báo chí truyền thông tỉnh thành kêu gọi nhân dân thành phố ăn nhiều dưa hấu, chính quyền thành phố Hợp Phì cũng ra một quyết định bất thường, cho phép xe ba gác, máy kéo và các loại xe nông cụ chở số lượng lớn dưa hấu đi vào thành phố, cảnh sát giao thông còn thi hành chính sách đặc thù đối với nông dân trồng dưa: “Không chặn chường, không phạt một xu, bật đèn xanh”.

Một thời kỳ, thành phố này đi đầu cả nước trong hoạt động xây dựng thành phố văn minh, Chu Dung Cơ cũng ca ngợi thành phố Hợp Phì “môi trường sạch sẽ”, bây giờ loạn cả lên, đầu đường ngõ phố đâu đâu cũng thấy các loại xe chở dưa hấu tung bụi mù trời, đi lại như con thoi “chẳng kiêng nể ai”.

Xã hội kêu gọi dân thành thị ăn nhiều dưa hấu, thương hại người trồng dưa không mặc cả, thậm chí không tiếc hy sinh trật tự bình thường của thành phố để tạo thuận tiện cho nông dân trồng dưa, nghĩa cử này và cả hành vi từ thiện tự phát của nhân dân thành phố đều rất cảm kích, lòng đồng tình này tất nhiên phải đề cao, vào giờ phút khó khăn, giúp anh em nông dân một tay cũng là điều đáng làm. Vấn đề là nhân dân thành phố tin vào nước mắt, thị trường không tin vào nước mắt. Dựa vào lòng từ thiện không nâng đỡ nổi một loạt sản phẩm, dựa vào đạo đức càng không chấn hưng được một ngành nghề. Vấn đề của thị trường chung quy vẫn phải dựa vào thủ đoạn của thị trường để giải quyết.

Chính vào lúc đông đảo nông dân trồng dưa mặt ủ mày ê vì không bán được dưa, thì xã Thập Tam Cương ở ngoại ô biết làm ruộng khoa học, họ trồng ra các loại dưa hấu có chất lượng cao như “Kinh Hân số 1”, “Hồng ngọc đầu xuân” và “Tiểu lan” v.v… vừa ló mặt ra chợ trở thành món hàng tranh nhau mua, giá cứ tăng, bán được 7 NDT một kg, lại còn leo cao hơn, đi vào các siêu thị lớn của thành phố.

Cùng là dưa hấu, một đằng kinh doanh thê thảm, một đằng lại trở thành cái “bánh nướng thơm” mọi người tranh nhau mua. Điều đó hình thành một so sánh rất rõ nét ở Hợp Phì tháng 7 năm 2001.

Mao Trạch Đông nói: Nghèo thì nghỉ thay đổi. Thực ra thay đổi suy nghĩ chỉ là những “kẻ tiên tri”.

Xã Thập Tam Cương nằm ở vùng giáp ranh Giang Hoài, núi non thung lũng đan xen, vốn là một làng nghề nông hẻo lánh nghèo nàn. Lãnh đạo xã tỉnh táo nhìn thấy, mục tiêu hàng đầu của cải cách thuế phí nông thôn là giảm nhẹ đóng góp của nông dân, nhưng muốn nông dân giàu lên thì nông nghiệp cần phải hướng ra thị trường, đổi mới quan niệm của nông dân. Trong quá trình đổi mới quan niệm, tiến bộ khoa học kỹ thuật của nông dân lại là điều vô cùng quan trọng, chỉ có nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, nông sản phẩm thực sự trở thành hàng hóa, mới có sức cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, đảng ủy và chính quyền xã Thập Tam Cương đi đôi với thực thi cải cách thuế phí nông thôn, dắt dẫn cả làng đi lên con đường tăng hiệu quả nông nghiệp “đặc sắc + quy mô + đẳng cấp”. Được sự giúp đỡ của cơ quan nghiên cứu khoa học, họ không chỉ tạo ra được loại dưa hấu chất lượng cao, mà còn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa cho những loại dưa hấu đó. Theo đà không mừng mở rộng mặt hàng sản xuất, họ lần lượt tạo ra những thứ dâu tây tươi, hoa quả tươi, rau tươi và cả bí đỏ và ngô đặc sắc cũng đều có nhãn hiệu đăng ký được Cục Quản lý hành chính công thương nhà nước phê chuẩn.

Nông sản phẩm của một địa phương được nâng lên thành một thương hiệu nổi tiếng được luật pháp bảo hộ là một sự việc mới mẻ ở An Huy cũng như cả nước.

Trấn Nông Hưng dưới núi Tử Bồng huyện Phì Tây là một trấn điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi tương đối lớn trong thí điểm cải cách thuế phí nông thôn An Huy. Ở đây chúng tôi đã gặp Thái Gia Đức, trấn trưởng và Lưu Đại Sơn, chủ nhiệm văn phòng nông nghiệp huyện xuống chỉ đạo công tác.

Thái Gia Đức giới thiệu: Cái tên “Nông Hưng” xem ra phấn chấn lòng người, nhưng lâu nay nó chẳng qua là một giấc mơ của nông dân. Toàn trấn có 2/5 diện tích là đồi núi, tất cả có 94 quả núi lớn nhỏ, điều kiện sản xuất nông nghiệp rất lạc hậu, cơ bản vẫn là ăn cơm trời. Hai mươi bốn thôn hành chính thì có một nửa số người, đất, gia súc thiếu nước, không điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp, có thể nói không có một ngày ngóc đầu lên được. Ban lãnh đạo trấn điều tra nghiên cứu nhiều lần, cuối cùng làm rõ tư duy phát triển, đó là:

“Thu hẹp lương thực mở rộng kinh doanh, thu hẹp loại thường mở rộng loại chất lượng cao, thu hẹp thuần chủng mở rộng giống lai; điều chỉnh ngành trồng trọt giống tốt, điều chỉnh ngành chăn nuôi, điều chỉnh ngành trồng cây ăn quả, xây dựng ngành chế biến”.

Lưu Đại Sơn hứng thú kể cho chúng tôi nghe người Nông Hưng ngày nay, được sự giúp đỡ của Văn phòng nông nghiệp huyện, họ làm thế nào “chơi” được “đủ mầu sắc” mà trước đây không dám nghĩ tới, làm nên đủ thứ “sản phẩm rừng”: rau tể rừng, rau quyết rừng, rau răng ngựa rừng, rau dền rừng, rau cử mại rừng, còn nuôi cả vịt rừng, thỏ rừng, gà rừng.

Chúng tôi đến thăm Dư Thành Yến, hộ chuyên ươm cây giống ở thôn Thượng Đường thị trấn Nông Hưng. Dư Thành Yến tuổi Dậu, sinh năm 1945, nay đã 57 tuổi. Đất nhận khoán của gia đình ông trên sườn núi, bởi vì quá nửa không có nước, trước đây vẫn trồng bông xen kẽ lạc và khoai sọ v.v… mỗi mẫu chỉ thu được vài ba trăm kg, cuộc sống rất khó khăn. Mấy năm trước, theo đề xướng của trấn, ông thận trọng dè dặt ươm trồng cây giống hoa, ban đầu chỉ “vơ bèo, gạt tép làm cò con”. Sau cải cách thuế phí, đảng bộ, chính quyền huyện chọn ra mấy xã, trấn Thượng Phái, Đào Hoa, Sơn Nam và Cây Thị, trong đó có Nông Hưng tập trung phát triển ươm cây cảnh, thành phố còn mời chuyên gia, giáo sư trường đại học nông nghiệp bồi dưỡng miễn phí cho họ. Dư Thành Yến động lòng, dứt khoát đem toàn bộ đất khoán ươm cây cảnh. Kết quả, năm đầu bỡ ngỡ, năm sau thành thạo, anh nông dân chính cống nửa đời người trồng bông, lạc và khoai sọ này hiện nay đã trở thành “người tài ươm cây giống” nổi tiếng gần xa. Ông chỉ rừng cây xanh mượt, phủ kín sườn đồi, nói một cách tự hào: “Kia là một vạn năm nghìn cây long não, trên thị trường rất đắt khách, trồng một cây long não như thế này không có lấy một con ruồi, muỗi; một cây hơn 20 NDT, một vạn năm nghìn cây bán ba bốn mươi vạn không thành vấn đề. Cạnh long não là cây nhựa ruồi, cũng không dưới 2.000 cây”. Ông quay người chỉ về bãi đất rặt một màu tươi rói dưới ánh mặt trời, nói “Kia toàn là tử vi đỏ, 5.000 cây; bên cạnh là ô bá cũng 3.000 cây. Tôi bây giờ kinh doanh hơn 10 mẫu, người khác bỏ đất, bỏ sức, tôi bỏ tiền, bỏ kỹ thuật, nói theo lời của người thành phố, cái “bánh ga tô” của tôi càng ngày càng to, thực ra trong toàn huyện, tôi vẫn chưa được gọi là lớn nhất”.

Khi ông dẫn chúng tôi đi tham quan xung quanh, chiếc máy điện thoại di động trên thắt lưng ông luôn luôn reo lên, không phải để học hỏi kinh nghiệm của ông mà là liên hệ nghiệp vụ, dáng vẻ ung dung tự đắc.

Giá lương thực ngày càng xuống thấp, ngày nay trồng lương thực không thể nào làm cho nông dân trở nên giàu có, nông dân khát khao điều chỉnh cơ cấu cây trồng là điều rất bức thiết, nhưng họ bị rất nhiều nhân tố ràng buộc, không biết thế giới bên ngoài, càng không thể nào hiểu được nhu cầu của thị trường, đại đa số nông dân vẫn không nghĩ được kế gì hơn, điều đó cần một lớp đi đầu, dẫn dắt lớp nông dân xung quanh kịp thời điều chỉnh cơ cấu sản nghiệp; cũng chính nhờ tốp “người tài ba” vừa có đầu óc kinh tế thị trường, vừa biết làm ruộng khoa học, nhiều vùng mới xuất hiện cục diện sinh động “bát tiên quá hải, trổ hết thần thông”.

Nếu không nhìn thấy tận mắt, chúng tôi đều rất khó tin sự thật như thế này: Ngô Chính Thương, một người trồng cây ở thôn Thần Linh xã Thanh Bình huyện Phì Tây, từ quả nhân sâm lấy ở Sở thực vật Viện khoa học Trung Quốc về trồng, sản lượng mỗi mẫu lại có thể sáng tạo kỷ lục xưa nay chưa từng có - 16 vạn NDT.

Ngô Chính Thương khác với những thanh niên nông thôn bình thường, thích động não, sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông về nông thôn, bắt đầu thử trồng nho, sau đó đi xuống Thâm Quyến miền Nam làm công, thời gian rỗi việc, anh đi đây đó khảo sát nông nghiệp có thể làm giàu được không, anh còn đi Hồng Công một chuyến bằng tiền mồ hôi nước mắt vất vả dành dụm của mình để tìm hiểu tình hình thị trường. Sau khi trở lại quê nhà, anh hơn người khác một cái đầu kinh doanh, anh thấy ngày nay làm ruộng theo kiểu bảo thủ như ông cha ta ngày xưa, giỏi lắm cũng chỉ đủ no ấm, muốn lên khá giả thì phải làm ruộng khoa học, đi sâu nghiên cứu các môn học vấn kinh tế thị trường, và nhắm trúng quả nhân sâm.

Cái quả gọi là quả nhân sâm này, cỡ như quả lê, trong lòng trắng có màu tím, nhìn bề ngoài rất giống quả tim con người, vốn sản xuất ở Nam Mỹ. Anh nhập quả nhân sâm này, một lúc trồng hơn hai mẫu. Sau khi thu hoạch quả về, anh không vội xử lý mà đem cất nó trong nhà lạnh, chọn mấy quả gửi đến Viện khoa học sự sống trường đại học An Huy kiểm nghiệm, kết quả kiểm nghiệm làm anh mừng vui ra mặt, thì ra cái quả này không chỉ nhìn bề ngoài hấp dẫn lại còn chứa rất nhiều loại vitamine, có thể tăng sức miễn dịch của con người, thậm chí có tác dụng chống ung thư. Vì thế anh đặt cho quả nhân sâm này cái tên “quả tiên trần gian”, nhờ người thiết kế một hộp bao bì Tôn đại thánh tay bê quả nhân sâm, và trong hộp lót một khăn mu-soa hoặc miếng vải tơ tằm, thế là gắn quả nhân sâm của anh với câu chuyện Tôn Ngộ Không ăn trộm quả nhân sâm trong hồi thứ 24 “Tây Du Ký”, làm cho sản phẩm này “hàng hiếm giá cao”. Sau đó anh gửi quả nhân sâm đến “Hội chợ triển lãm” ở Thâm Quyến, một ông chủ xịn ở Hồng Công mua với giá 200 NDT một kg, làm cho quả nhân sâm này càng nổi tiếng. Chờ làm xong những việc trên đây, Ngô Chính Thương mới đến thị trường nhân tài đã tính sẵn trong bụng từ lâu, mời mấy sinh viên biết kinh doanh bán hàng, và trước tiên chọn “thị trường quà tặng” để tiến hành tiêu thụ rộng rãi. Quả nhân sâm sau khi đóng bao bì, vừa ra mắt trên thị trường Hợp Phì, lập tức gây chấn động. Hơn hai mẫu ruộng của anh thu hoạch được hơn 5 tấn quả nhân sâm, kiếm được hơn 40 vạn NDT, được giới truyền thông báo chí hô to: “Phóng vệ tinh trên đồng ruộng!”

Có điều, Ngô Chính Thương giàu sụ, đầu óc vẫn tỉnh táo. Anh nói: “Giá cả như thế rõ ràng là rất không bình thường, theo đà nông dân các nơi trồng trên diện tích lớn, dự tính giá cả sẽ trượt rất nhanh, nhưng dù cho có trượt đến bốn năm NDT một kg, một mẫu ruộng tốt xấu cũng có thể thu nhập hàng vạn NDT, vẫn có lãi hơn làm ruộng trước đây”.

Đúng như Ngô Chính Thương dự đoán, nông dân thôn Khám Tập xã Giải Tập huyện Phì Đông biết được quả nhân sâm là của quý, bắt đầu đưa về trồng trên diện tích lớn, năm thứ hai, tình hình quả nhân sâm trên thị trường Hợp Phì không lạc quan, bởi vì số lượng quá lớn, lại là quả tươi, không tiện để lâu; giá cả đành phải “theo thị trường”, vì thế gặp may còn được giá cao, mỗi kg bán được 50 NDT, về sau càng mất giá, mỗi kg bán được 2 NDT. Sau đó toàn quốc phát triển ra 13 tỉnh thành đều tranh nhau trồng quả nhân sâm, giá cả trên thị trường đi đến hỗn loạn, thậm chí có nơi chèn ép lẫn nhau, bán đổ bán tháo với giá thấp.

Quả nhân sâm sau này trượt giá, vượt ra ngoài dự đoán của Ngô Chính Thương. Hy vọng “mỗi mẫu tốt xấu cũng có thể thu nhập hàng vạn NDT” lại không trở thành như dự đoán, anh và một bộ phận nông dân tuy trồng quả nhân sâm tương đối sớm đi lên khá giả, nhưng cùng với kỹ thuật này được phổ biến nhanh chóng, quả nhân sâm cuối cùng trở thành “quả đau lòng” của rất nhiều nông dân.

Quá trình phổ biến kỹ thuật nông nghiệp lại trở thành quá trình nông dân giảm thu. Làm ruộng khoa học không hẳn nhất định sẽ tăng thêm thu nhập của nông dân, nghe ra, có những cái làm cho người ta khó tưởng tượng, nhưng quy luật kinh tế thị trường thực là rất cao sâu thâm thúy như vậy, trong đó đầy rẫy phép biện chứng.

Vì thế, người ta dần dần nhận thức được, điều chỉnh cơ cấu, thu hẹp thích đáng diện tích lương thực, quyết không có nghĩa là trước đây nắm sai lương thực, điều chỉnh cơ cấu cũng quyết không chỉ có nghĩa là điều chỉnh tỷ lệ lương thực (lương) và kinh doanh (cây kinh tế), lý giải là trồng cái gì nhiều hơn hoặc trồng cái gì ít hơn, thậm chí không có nghĩa chỉ là điều chỉnh chất lượng mặt hàng của nông sản phẩm, mà là phải thay đổi tình trạng cơ cấu trước đây xu hướng giống nhau, phát huy ưu thế tương đối của từng khu vực khác nhau.

Năm thứ hai thành phố Hợp Phì thực thi cải cách thuế phí nông thôn rút ra 50 triệu NDT từ trong tài chính thành phố làm “Quỹ hỗ trợ nông dân”, có kế hoạch hướng dẫn nông dân các huyện ngoại thành tiến hành điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp. Lãnh đạo thành phố Hợp Phì tỉnh táo thấy rằng, mình ở vào vị trí trung tâm tập kết phân tán cấp tỉnh; đều có buôn bán, trao đổi hàng hóa và trao đổi thông tin rộng lớn mật thiết, toàn phương vị với thị trường nông sản phẩm phu của các vùng khác trong tỉnh, của thành phố ngoại tỉnh và cả trong, ngoài nước. Xuất phát từ ưu thế vị trí vùng này, thành phố Hợp Phì xây dựng năm cơ sở lớn nông sản phẩm: phát triển cơ sở trồng cây đặc sắc ba vạn mẫu dâu tây, hai vạn mẫu nấm ăn, năm vạn mẫu dưa hấu ngọt trái mùa và mười vạn mẫu cà chua bi, ớt màu, đậu tương non lai; phát triển cơ sở trồng cây dưới nước một vạn mẫu củ ấu, một vạn mẫu cỏ lận, hai vạn mẫu ngó sen, hai vạn mẫu mã thầy; phát triển cơ sở trồng cây màu đen, năm vạn mẫu lạc đen, năm vạn mẫu khoai sọ đen, năm vạn mẫu đậu tương đen; phát triển cơ sở trồng cây ăn quả năm vạn mẫu táo tuyết, táo tím, đào mật và nho chất lượng cao và năm vạn mẫu cơ sở ươm hoa cây cảnh.

Điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp vĩ mô này của thành phố Hợp Phì có thể nói là một tác phẩm lớn.

Ngỗng Ngô Sơn của huyện Trường Phong từng làm lễ vật dâng lên triều đình nhà Thanh, bí quyết pha chế nó truyền từ đời này sang đời khác cho đến ngày nay, lãnh đạo thị trấn Ngô Sơn biết sâu sắc rằng chỉ có biến ưu thế tài nguyên thành thế mạnh làm giàu cho dân, thị trấn Ngô Sơn mới có thể thực hiện chấn hưng, họ tóm chặt lấy “Ngỗng đi cống” và lên một kế hoạch: Trước hết liên hợp với trường đại học An Huy và Công ty thực phẩm phụ thành phố Hợp Phì, xây dựng một trại giống ngỗng, kế đó cùng với công ty hữu hạn Chấn Lam trên tỉnh xây dựng xưởng chế biến ngỗng Ngô Sơn, đồng thời xây dựng một dây chuyền sản xuất ngỗng, các khâu gắn kết với nhau “thị trường - chi nhánh - cơ sở - nông hộ” ở 24 thôn hành chính trong toàn trấn. Vẻn vẹn hơn một năm, số lượng nuôi ngỗng trong toàn huyện đạt 22 vạn con, chế biến 1400 tấn “vịt đi cống Ngô Sơn”, bán khắp 33 thành phố lớn nhỏ trong toàn quốc, còn thành công đi vào thị trường thủ đô. Món ăn ngon nổi tiếng trên bàn của vương hầu khanh tướng ngày xưa, ngày nay trở thành món ăn ngon của dân thường thưởng thức. Thành tích này không nhỏ, nhưng họ không vì thế mà thỏa mãn, năm 2002 lại dùng bí quyết pha chế truyền thống, nghiên cứu làm ra “bồ câu đi cống” và “gà tam hoàng”, đồng thời tung ra “gạo tinh Ngô Sơn”. Bồ câu thịt vừa đưa ra thị trường bán được 22 vạn con, số lượng bán “gà tam hoàng” còn phấn khởi hơn, nhanh chóng vượt lên 1 triệu con; gạo tinh cũng bán được hơn 7.000 tấn. Chỉ riêng thu nhập của ba thứ này không liên quan gì đến “ngỗng đi cống” truyền thống vượt trên 100 triệu NDT.

Huyện Trường Phong, một “huyện nghèo” cấp nhà nước chứ không phải là giàu (trường phong) có trấn Ngô Sơn làm đủ món về “ngỗng”, lại khéo biết chớp thời cơ để phát huy, trấn Ngô Sơn ngày nay nổi lên như ngọn núi (sơn) ở huyện Trường Phong!

Huyện Dĩnh Thượng có xã Bát Lý Hà, tên gọi là tám con sông, kỳ thực không có sông nào, chỉ có một bãi đầm lầy hồ ao hoang vu. Giữ mảnh đất cằn cỗi này, dù chôn cái đầu trong bùn đất cũng không mọc nổi cây hái ra tiền, càng không có ưu thế gì đáng nói. Bí thư đảng ủy xã Trương Gia Vượng xuất thân chân đất, phát hiện những năm gần đây Trung Quốc bắt đầu cơn sốt du lịch, anh nảy ra ý nghĩ lạ lùng, phải xây dựng một công viên nông dân lớn nhất Trung Quốc ở vùng đất đầm lầy hồ ao này, lấy phát triển ngành du lịch thúc đẩy một loạt ngành sản xuất có liên quan ăn uống, vận tải và dịch vụ v.v... phát triển để kiếm tiền của người thành phố. Anh không chỉ dám nghĩ, mà còn dám làm. Anh đích thân chạy lên huyện, thành phố vay tiền, còn tổ chức một đội thi công giỏi tay nghề, trước hết đắp một con đê quanh hồ, trồng cây liễu rủ, xây lên một thôn nghỉ ngơi xinh đẹp, sau đó theo tư liệu tranh ảnh thu thập được, bên cạnh hồ nước xây nên tòa nhà trắng của Mỹ, cối xay gió Hà Lan, khải hoàn môn nước Pháp, nhà thờ nông thôn Đức, miếu thờ thần Dớt Hy Lạp, tất nhiên vẫn có Trường Thành, Bạch tháp ở công viên Bắc Hải và đường hành lang trong Di Hòa viên Trung Quốc.

Có một ngôi làng nghỉ ngơi đầy thú vui hoang dã, còn trang điểm sáng tạo độc đáo phong cảnh các nơi trên thế giới, ngày nghỉ người thành phố đến tham quan đông nghịt.

Có thu nhập du lịch tăng lên từng ngày, Trương Gia Vượng quyết tâm lớn hơn, sau đó anh lại tiếp tục xây một vườn động vật và một bể bơi lớn bên hồ ba vạn mét vuông, lần lượt đặt thêm rất nhiều thiết bị vui chơi giải trí cao cấp đồng bộ như bánh xe chọc trời, tàu hải tặc và cả ghế bay hào hoa v.v... mà nhiều thành phố lớn cũng rất ít được nhìn thấy. Cứ như vậy, theo vật đổi sao dời, “Khu phong cảnh Bát Lý Hà” làm người ta khó tin xuất hiện lộng lẫy bên bờ sông Hoài và vinh dự được mang tên “500 môi trường toàn cầu tốt nhất” cho Liên Hợp Quốc công nhận.

Đầm lầy nước đọng hoang dã ngày xưa, ngày nay đã trở thành “phong thủy bảo địa” giàu nhất một vùng. Nông dân Bát Lý Hà đời đời làm ruộng, nhờ thay “trồng” “phong cảnh điền viên hiện đại hóa” đã bước lên đời sống khá giả.

Huyện Kim Trại khu Biệt Đại Sơn là “huyện tướng quân” có tiếng, lại là huyện nghèo nổi tiếng, hai năm nay họ ra sức phát triển dâu tằm và hạt dẻ, nông dân vùng căn cứ cũ bắt đầu đi lên đường thoát nghèo; nông dân huyện Đương Đồ lợi dụng ruộng lúa, đầm nước nuôi cua, quy mô từng năm mở rộng, dần dần đi đến kết quả; ba huyện Oa Dương, Mông Thành và Lợi Tân nhờ hô hào phát triển sự nghiệp nuôi bò đã trở thành “tam giác vàng nuôi bò” nổi tiếng của nước ta; thành phố Hào Châu, quê hương của thần y Hoa Đà chịu khó kinh doanh cây thuốc, càng nổi tiếng trong và ngoài nước...

Cũng có những người trồng lúa giống trở thành “triệu phú”. Ở thôn hậu Trần xã Hoàng Loan huyện Phụng Dương, chúng tôi đã gặp Trần Hưng Hán được Vương Quang Vũ, cựu Bí thư tỉnh ủy gọi là “Trần triệu phú”. Trần Hưng Hán cho rằng, làm nông dân thì phải biết làm ruộng, không biết làm nông thì sao gọi là nông dân được? Hiện nay anh đã nhận khoán 1.200 mẫu đất canh tác của nông dân lân cận bên bờ sông Hoài của Hoàng Lan, để thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp, anh lần lượt mua máy cày, máy gieo hạt, máy gặt đập liên hợp, máy kéo công suất lớn, và cả “xe bốn bánh” và ô tô nông cụ. Anh còn đắp đê làm kè xây dựng trạm bơm nước, bảo đảm hai vụ hè thu hạn úng đều thu hoạch tốt. Năm tốt nhất, anh thu được 625 tấn thóc, 340 tấn lúa mì, được đảng bộ, chính quyền thành phố Từ Châu tặng danh hiệu “Trạng nguyên trồng lương thực”.

“Ai bảo trồng lương thực không thể làm giàu?”

Trần Hưng Hán tự hào chỉ lên tầng hai của nhà anh nói, “Trồng lương thực không chỉ có một mình tôi giàu, bà con phụ lão của cả vùng này cũng đều giàu. Tầng hai này của tôi đã tiếp khách của hai mươi tám nước đến thăm Trung Quốc. Thủ tướng Chu Dung Cơ cũng đã làm khách ở đây!”

Anh quả là rất điển hình. Vì xuất thân nghèo khổ, sáu tuổi bắt đầu đi ăn xin cho đến năm 1949 mới được giải phóng vươn mình. Nhưng từ sau khi giữ chức Chủ nhiệm hợp tác xã cao cấp, hơn 20 năm nay anh bị bốn lần khai trừ ra khỏi đảng: năm 1957, anh bắt đầu khai hoang trồng cải, đúng lúc đang chống phái “hữu”, mặc dù cải trồng ra đều bán cho mọi người ăn, cấp trên lại nói anh “làm chủ nghĩa tư bản”, bị khai trừ ra khỏi đảng; năm 1960, anh hướng dẫn mọi người đan sọt, dệt chiếu để giúp mọi người vượt qua nạn đói, xã lại trị anh “đầu cơ trục lợi”, lại khai trừ đảng vừa mới phục hồi; năm 1973 vì mấy câu “nói xấu” công xã nhân dân “một lớn hai chung”, ngoài khai trừ đảng, còn bị ngồi nhà lao một năm ba tháng; năm 1980, mọi người đều đang thực hiện “khoán lớn”, anh cho rằng lúc này có thể ra tay làm ăn lớn, yên tâm mạnh dạn vận động bốn huyện Huyện Tứ, Tứ Hồng, Ngũ Hà, Phụng Dương xung quanh tổ chức cho dân công bốn huyện hai tỉnh An Huy và Giang Tô đan dệt, không ngờ, một lần nữa xúc phạm chính sách lúc bấy giờ - vì Mác đã nói, thuê quá tám nhân công tức là tư bản - anh ta lại nghiễm nhiên thuê trên 200 nhân công! Xã thấy vấn đề của anh quá nghiêm trọng, lại một lần nữa khai trừ khỏi đảng.

Bà con trong xã nói đùa với Trần Hưng Hán: “Đặng Tiểu Bình không quá ba lần lên ba lần xuống, nhưng anh bốn lần chìm bốn lần nổi!”

Trần Hưng Hán chỉ cười hóm hỉnh. Cuộc đời dù lắm gian truân, nhưng lòng say mê của anh không thay đổi. Khi anh được sửa sai hoàn toàn, phục hồi lại đảng tịch, trở về cương vị Bí thư chi bộ đảng thôn Hậu Trần lần nữa, lại xả thân dắt dẫn mọi người đi lên con đường làm giàu.

Ngày 11 tháng 3 năm 2001, vào một buổi sáng ánh nắng chói chang, chúng tôi vào thôn Hậu Trần. Lúc này anh không chỉ nhận khoán đất canh tác mênh mông, mà còn xây dựng một nhà máy chế biến lương thực, sản lượng mỗi ngày 50 tấn gạo tinh và một xưởng làm gạch mỗi năm sản xuất 1,5 triệu viên gạch. Đồng thời đang lên kế hoạch nuôi 1.000 con bò, 1.000 con dê và 10 vạn con gia cầm.

Bò nhiều, dê nhiều, gia cầm nhiều, làm ruộng không lo thiếu phân; lương thực từ ruộng lúa thu về tự mình có thể chế biến, sản xuất nông nghiệp đi vào tuần hoàn lành tính, vì thế cuộc sống của người làm nông tốt đẹp lên.

Nghe “Trần triệu phú” bốn lần mất đảng tịch kể chuyện của chính anh, chúng tôi như nghe một bộ sử phấn đấu khiến người ta xiết bao cảm động của nông dân Trung Quốc hơn 50 năm qua.

Rõ ràng là, từ trên con người “Trần triệu phú”, anh hùng lao động toàn quốc, chúng tôi đã nhìn thấy chính sách làm giàu cho dân của đảng ngày nay đã đi sâu vào lòng người, lại rất được lòng người tất nhiên, không giấu giếm gì, nông thôn rộng lớn An Huy hiện nay tuy đã tiến hành thí điểm cải cách thuế phí, nhưng vẫn như nông thôn rộng lớn Trung Quốc, nhân tố giảm thu vẫn quá nhiều, còn nhân tố tăng thu quá ít, biện pháp tăng thu trông thấy trước mắt đã thiếu và càng thiếu, kinh tế thị trường vẫn còn rất xa lạ với rất nhiều, rất nhiều nông dân, đồng thời còn có quá nhiều “cạm bẫy”. Những điển hình như Ngô Chính Thương trồng quả nhân sâm, Dư Thành Yến hộ chuyên ươm cây giống và Trần Hưng Hán trạng nguyên sản xuất lương thực vẫn chỉ là số ít; ngay cả những người như Ngô Chính Thương, Dư Thành Yến và Trần Hưng Hán một con số chưa nhiều, đứng trước tình hình thị trường thiên biến vạn hóa cũng không thể là “tướng quân luôn luôn thắng trận”. Hiện nay, một số chính quyền địa phương khá tỉnh táo, đã bắt đầu nhận thức được điều chỉnh cơ cấu sản nghiệp nông nghiệp là một quá trình diễn biến lâu dài. Nông thôn rộng lớn từ sản lượng cao chuyển sang hiệu quả cao, không những cần có sự ủng hộ của môi trường khách quan và chính sách vĩ mô, mà càng cần có sự phối hợp về mọi phương diện. Phải nói rằng, đứng ở góc độ một huyện một xã, cho đến một thành phố, một tỉnh để nhìn, điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp lần này trong thời gian ngắn có thể tăng thêm thu nhập cho nông dân, nhưng xét trên phạm vi toàn quốc, có lẽ không hẳn là chính sách giải quyết triệt để. Đạo lý ở đây về mặt kinh tế học gọi là “sai lầm tổng hợp”, tức là “lý tính cá nhân dẫn đến phí lý tính tập thể”, có lẽ nói theo lời của nhân dân thì rõ ràng hơn: anh chỉnh, tôi chỉnh, anh ấy chỉnh, chỉnh đi chỉnh lại, sản phẩm của mọi người đều không bán được. Bởi vì dưới gầm trời này, thể chế giống nhau, môi trường sống giống nhau, kinh tế nông thôn giữa các khu vực khác nhau dù cho có khác biệt và ưu thế của riêng mình, nhưng làm thế nào có thể thoát khỏi cảnh ngộ của “xu hướng giống nhau” này. Nói cho cùng, lần điều chỉnh này vẫn dừng lại trên mảnh đất cũ, dừng lại trên con đường làm giàu lấy nông làm gốc. Hơn nữa, giá trị sản xuất đơn vị của sức lao động nông nghiệp bị tài nguyên ruộng đất cực kỳ có hạn hạn chế, và điều có thể khẳng định là theo đà năng suất lao động thành phố không ngừng nâng cao, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn vẫn tiếp tục mở rộng, cơ cấu sản nghiệp nông nghiệp có điều chỉnh như thế nào, sản lượng đơn vị của nó cũng rất có hạn, sự thật cơ bản dân số nông nghiệp chiếm đại đa số trong tổng dân số vẫn không có gì thay đổi, tổng giá trị sản xuất mà nó làm ra chiếm tỷ lệ trong nền kinh tế quốc dân trên tổng thể vẫn ngày càng thấp, trong tình hình đó, mong muốn nông dân giàu có, sung túc nhờ điều chỉnh cơ cấu sản nghiệp hoàn toàn là điều không thể được. Huống hồ, do khống chế chính sách có tính cưỡng chế của nhà nước, tước đoạt có tính thị trường và hạn chế mang tính kỹ thuật, nông nghiệp của chúng ta đã không phải là một loại sản nghiệp. Kinh tế nông nghiệp hiện nay chẳng qua là thể hiện một bố cục “hàng tăng tiền giảm” (nông sản phẩm đang tăng lên nhưng nông nghiệp, lại giảm bớt thu nhập có tính tổng thể).

Vì vậy, nếu nói điều chỉnh cơ cấu, cái cần điều chỉnh không phải là cơ cấu của nội bộ nông nghiệp, nó còn nên bao gồm xây dựng thành phố thị trấn, giáo dục bắt buộc, xí nghiệp hương, trấn, sản nghiệp phi nông nghiệp, cơ cấu lực lượng lao động, nguồn vốn, tiền tệ và phương thức kinh doanh v.v... đặc biệt là, cần giải quyết về căn bản cục diện bất công thành thị và nông thôn ngăn cách, đối lập, chia rẽ lâu nay. Trung Quốc cần tiến hành một cuộc cách mạng chế độ, giải phóng nông dân, di chuyển nông dân, giảm bớt nông dân, để cho càng nhiều nông dân Trung Quốc nhìn thấy được hy vọng vào thành phố, và cuối cùng để cho họ từ giã làng quê bưng bít ăn đời ở kiếp của họ, để họ hòa vào trong dòng lũ đô thị hóa.

Con đường phía trước còn rất dài, rất dài.

55. Đằng sau sự huy hoàng và giàu có

An Huy là một tỉnh lớn nông nghiệp, cũng là tỉnh lớn tài nguyên lực lượng lao động. Năm 2000, Trung ương bố trí tỉnh An Huy bắt đầu thí điểm cải cách thuế phí nông thôn, lực lượng lao động dư thừa trong nông thôn toàn tỉnh trên 10 triệu người, chiếm 40% tổng số lực lượng lao động nông thôn. Có thể khẳng định cùng với việc mở rộng mức độ điều chỉnh cơ cấu sản nghiệp nông thôn, tỷ lệ này sẽ mở rộng thêm.

Làm thế nào để khai thác tài nguyên lực lượng lao động nông thôn, xúc tiến chuyển dịch lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn, không chỉ có ý nghĩa xứng đáng trong vấn đề giảm nhẹ đóng góp của nông dân, mà càng là vấn đề lớn có tính chiến lược thực hiện hiện đại hóa nông nghiệp, liên quan đến hiện đại hóa Trung Quốc. Bởi vì, tiến trình hiện đại hóa của Trung Quốc không thể vứt bỏ nông dân; không có hiện đại hóa của nông dân thì không có hiện đại hóa của Trung Quốc.

Làm ruộng đã xuất hiện thua lỗ có tính kinh doanh, đóng góp của nông dân lại làm cho hiệu quả làm nông xuống thấp thêm, mô thức làm ruộng manh mún của một nông hộ đang mất đi sức hấp dẫn đối với nông dân; khoảng cách quá lớn giữa thành thị và nông thôn càng làm cho rất nhiều nông dân coi mảnh đất sinh sống bao đời của họ là một “gánh nặng”, vì thế một đại quân nông dân số lượng kinh người, rầm rập bỏ cửa bỏ nhà, phá vỡ các bức tường đồng vách sắt do con người dựng nên, đổ vào thành phố.

Đi vào thành phố, nhưng tuyệt đại đa số người trong họ lại chỉ có thể sống gửi dưới mái che của thành phố. “Bảo hiểm thu nhập thấp”, “bảo hiểm y tế”, trợ cấp nhà ở của thành phố và mạng lưới ấm áp tình người của các loại phúc lợi xã hội vẫn để họ đứng ngoài.

Chế độ hộ khẩu không thể vượt được, đã định trước họ chỉ có thể trở thành “con chim di cư” của thành phố.

Một thống kê của Cục Thống kê nhà nước cho thấy, nhân khẩu lưu động ở ngoài tỉnh của Trung Quốc đã lên đến trên 120 triệu người. Trong số nhân khẩu lưu động ngoại tỉnh này, nhân khẩu lưu động của sáu tỉnh An Huy, Tứ Xuyên, Hồ Nam, Giang Tây, Hà Nam, Hồ Bắc chiếm 59,3% nhân khẩu lưu động ngoại tỉnh toàn quốc, chiếm quá nửa tổng số. Nhân khẩu lưu động của An Huy đứng thứ hai toàn quốc.

An Huy hiện có hơn 27 triệu lực lượng lao động nông thôn, trong đó có hơn 7 triệu đi tìm việc làm ở ngoại tỉnh. Trong số hơn 7 triệu dân công này, chỉ riêng Thượng Hải có đến hơn 1 triệu 25 vạn người, chiếm 1/3 số dân công ở bên ngoài đến Thượng Hải. Và đấy chỉ là con số thống kê của nhà nước, trên thực tế, có một bộ phận rất lớn dân công An Huy đã đứng chắc chân ở Thượng Hải, lại còn mang vợ con về Thượng Hải, trên thực tế dân công An Huy ở Thượng Hải đã vượt xa 2 triệu người.

Trong đô thị lớn này ở phía Đông Trung Quốc chỉ cần nơi nào có thể dung nạp dân công, thì nhất định có thể tìm thấy bóng dáng của “quân An Huy”.

Giáo sư Ngô Diêu Uy ở trường đảng quận Mân Hành thành phố Thượng Hải nói, mấy năm sau này, các quận có tốc độ phát triển nhanh nhất của Thượng Hải là quận Mân Hành, quận Bảo Sơn, quận Gia Định và quận Phố Đông về sau, ở mấy quận này, dân công An Huy cũng nhiều nhất, chiếm 47,4% tổng số dân công An Huy ở Thượng Hải.

Có thể nói thế này: việc ăn, mặc, ở, đi lại của người Thượng Hải gắn liền với dân công An Huy. Từ ngành xây dựng, ngành dệt may, ngành ô tô đến ngành trồng trọt chăn nuôi, ngành nghề nào cũng có dân công An Huy làm việc rất xuất sắc, nhiều người đã trở thành nhân tài nổi bật hoặc tiêu binh tiên tiến trong các ngành.

Dân công huyện Tùng Dương Cao Ngọc Mỹ trở thành thợ giỏi kỹ thuật đứng máy ở xưởng dệt bông Đông Hải - Thượng Hải, được bầu là người xung kích của cuộc trường chinh mới thành phố Thượng Hải; Ngô Luân Trung, dân công thành phố Lục An lập một phòng trang trí mỹ thuật ở Thượng Hải, tài sản hàng chục triệu, qui mô của nó được liệt vào mười cái đứng đầu ở Thượng Hải; Ngưu Truyền Vân, dân công huyện Hoắc Khưu, chuyên tâm nghiên cứu máy tính, chuyên làm tư vấn và chẩn đoán vận hành của máy tính cho các công ty lớn, đã sớm trở thành “bác sĩ máy tính”có tiếng ở bãi sân Thượng Hải…

Không khâm phục sao được. Một số phế liệu trong con mắt của người Thượng Hải vào tay dân công An Huy lại trở thành “của quý”; có những việc người Thượng Hải không thèm để ý, dân công An Huy một khi vào việc thì làm nên thành tích đẹp đẽ. Giang Quang Năng, dân công huyện Lư Giang lập công ty hữu hạn thực nghiệp Khang Bảo Liên ở Thượng Hải, lợi dụng xỉ than nhà máy thải ra sửa đường, phát triển đến bốn xí nghiệp, có tài sản hàng chục triệu NDT; hơn 500 công nhân viên chức thiện chiến ở các bộ phận then chốt đóng tàu quân sự của tập đoàn đóng tàu Giang Nam đều là người huyện Vô Vy tỉnh An Huy, họ vừa chịu khó, vừa chịu đi sâu nghiên cứu, Trần Kim Hải, Chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn này khen ngợi nói, kỹ năng của những dân công An Huy này nắm được đã vượt xa cán bộ nhân viên chính thức trong tập đoàn của thành phố Thượng Hải.

Trong số dân công An Huy làm thuê ở Thượng Hải đã có một bộ phận đổi đời, bước lên tầng lớp quản lý xí nghiệp, tạo ra cục diện dân công quản lý công nhân viên chức chính thức. Đường Khởi Trác, dân công thị trấn Lạc Kiều huyện Lư Giang được công ty hữu hạn quần áo thời trang Gaushenda Trung-Mỹ hợp doanh ở Thượng Hải ngắm chọn để lãnh đạo hàng ngàn nhân viên, trong một thời gian ngắn đã làm ra được hơn 5 triệu đô la Mỹ cho công ty, trở thành người nổi trội trong tộc người làm thuê.

Khi người Ôn Châu tiến quân vào bãi sông Thượng Hải với số vốn hùng hậu thì dân công An Huy cũng chẳng chịu thua, họ đi vào Thượng Hải bằng lao động cần cù, trí tuệ và vốn liếng ít ỏi, gian khổ lập nghiệp ở một đô thị lớn cạnh tranh quyết liệt này. Họ xây dựng cơ đồ bắt đầu từ mở quán cơm bụi, cắt tóc, sửa chữa, thậm chí dựa vào sức lực chân tay đi khuân vác, xây dựng hoặc đi khắp ngõ ngách phố phường thu mua phế liệu, từng bước, từng bước tích lũy vốn liếng ban đầu, từ kiếm từng đồng xu phát triển lên khai thác “vàng”. Hiện nay, theo thống kê chưa đầy đủ, ở đại Thượng Hải ngày nay, ít nhất có bốn, năm mươi xí nghiệp có tài sản hàng chục triệu do dân công An Huy xây dựng nên.

Thời kỳ đầu cải cách mở cửa, các cô gái nhà quê của huyện Vô Vy bỏ quan niệm truyền thống “khó bỏ quê hương”, không ngại đường xa nghìn dặm, đi vào kinh đô làm bảo mẫu, trở thành “lính đứng hàng đầu” của nông dân Trung Quốc đi vào thành phố làm thuê. Ngày nay, thị trấn Phùng Tĩnh huyện Hoắc Khưu - An Huy nằm ở vùng ngập lũ sông Hoài, “cái rốn thiên tai lâu đời” nổi tiếng trong mấy năm, lại nổi lên một nghìn một trăm “chân đất”, xông thẳng đến Trung Quan thôn - Bắc Kinh. Từ chỗ không biết mấy chữ tây đến có thể lắp ráp một máy vi tính tính năng cao với những linh kiện phức tạp, từ chỗ là người đứng bán hàng đến làm đại lý cao cấp, từ chỗ là người dưới đáy của giá trị sản phẩm kỹ thuật cao các cô đã bộc lộ toàn bộ tài năng, chiếm trên 60% số kinh doanh thị trường bản vi mạch CPU “Santa Clara Trung Quốc”, sáng tạo ra một “đồng thoại mùa xuân” của thế kỷ mới cho dân công Trung Quốc.

Đội ngũ xây dựng của dân công ba huyện thuộc thành phố Hợp Phì không chỉ có một vạn tám nghìn người đứng chắc chân ở thủ đô Bắc Kinh, có 12 đơn vị đã đăng ký, đội ngũ xây dựng của dân công vùng Hợp Phì tổ chức đã rải khắp 22 tỉnh thành khu tự trị trong toàn quốc, đồng thời còn kéo dài ra thị trường hải ngoại của 14 nước và khu vực, lập nên thành tích đáng tự hào.

Được biết, ở một nơi không lớn gọi là Hậu Nhai, thành phố Đông Uyển tỉnh Quảng Đông, nông dân huyện Phụ Nam - An Huy làm thuê ở đây đến cơ quan công an đăng ký chính thức có 11.481 người, nếu cộng với số chưa làm thủ tục thì con số tương đối chính xác, dân công Phụ Nam quê ở trấn Hậu Nhai, phải là hơn 5 vạn người.

Hơn 5 vạn người ở một thị trấn nhỏ miền Nam, dù thế nào chăng nữa cũng không thể nói là một con số nhỏ.

Dân công An Huy bốn biển là nhà, cứ như thế, hoặc bằng lao động cực nhọc, hoặc bằng tài mọn kiếm sống, hoặc bằng trí lực làm thuê, ở nơi đất lạ quê người xa cách người thân, mỗi người một cách khác nhau đang thêu dệt nên ước mơ của họ.

Hơn 7 triệu nông dân An Huy làm thuê ở ngoại tỉnh, GDP họ sáng tạo ra ở ngoại tỉnh, nếu tính theo mỗi người một năm 5 vạn NDT, tổng giá trị sẽ là 300 tỷ NDT, thì hầu như tương đương với tổng giá trị GDP một năm của tỉnh An Huy, có nghĩa là, dân công An Huy làm thuê ở bên ngoài mỗi năm đều sáng tạo ra một “An Huy lưu động” ở bên ngoài An Huy; và thu nhập có tính chất tiền lương của họ làm thuê thu được mỗi năm gửi tiền về quê ít nhất cũng khoảng 30 tỷ NDT, rõ ràng là cao hơn thu nhập tài chính địa phương An Huy, cũng có nghĩa là, những nông dân An Huy làm thuê ở ngoại tỉnh này, đồng thời với sáng tạo ra một “An Huy lưu động” ở bên ngoài, mỗi năm còn sáng tạo ra một “An Huy trở về”!

Nhân khẩu nông nghiệp lưu động không chỉ thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế xã hội phát triển của nơi đến, đồng thời cũng thúc đẩy cả nơi đi, đó là sự thật chắc chắn không thể nghi ngờ. Do trình độ văn hóa của những người ra đi tương đối cao, trải qua nhiều năm rèn luyện được mở rộng tầm mắt, càng tăng thêm tài năng, họ đổ về thành phố lớn, bị thành phố lớn làm thay đổi, đồng thời họ cũng thay đổi thành phố lớn, thay đổi quê hương.

Lấy khu Phụ Dương tỉnh An Huy, nơi làm thuế phí nông thôn tương đối tốt, lực lượng lao động ở ngoại tỉnh lại tương đối nhiều, làm ví dụ, hiện nay đã có hơn 700 xí nghiệp của những người sau khi ra ngoài lao động trở về xây dựng. Trong đó 69 xí nghiệp điều tra được đã thu hút lực lượng lao động 17.500 người, tổng số tài sản lên 137 triệu; nộp thuế 58,39 triệu NDT.

Ở nông thôn xa xôi hẻo lánh mà chúng tôi đến, thường thường là giữa một dãy nhà tranh vách đất tồi tàn, thấy có mấy ngôi nhà lầu nổi bật lên sáng sủa. Những ngôi nhà đó, chẳng cần phải hỏi, chủ nhân của nó không phải là cán bộ xã thôn được hưởng đặc quyền, mà là những người có người nhà đi làm thuê ở ngoài.

An Huy muốn thực hiện nhảy vọt từ tỉnh lớn nông nghiệp sang tỉnh mạnh nông nghiệp, không thể không coi trọng và sử dụng tốt đại quân dân công đi vào thành phố. Trên thực tế, tỉnh An Huy khởi động chuyển dịch lực lượng lao động dư thừa nông thôn tương đối sớm, theo đà cải cách thuế phí không ngừng đi sâu, đảng bộ và chính quyền tỉnh liên tiếp đưa ra nhiều văn kiện liên quan, cố gắng biểu dương “ngôi sao nông dân lập nghiệp” “đi bốn phương”. Nông hội tỉnh, Sở bảo hiểm lao động tỉnh, Sở dân chính tỉnh, Sở công an tỉnh, Sở giao thông tỉnh và Sở xây dựng tỉnh cũng đã đều lần lượt làm rất nhiều việc về vấn đề này. Bí thư Tỉnh ủy Vương Thái Hoa nhiều lần nhấn mạnh nêu rõ:

“Năm đến mười năm từ nay về sau, đảng ủy chính quyền các cấp đều phải coi việc xuất lực lượng lao động là sản nghiệp quan trọng, nắm cho tốt việc đào tạo, hướng dẫn, dịch vụ và quản lý, để thúc đẩy lực lượng lao động nông thôn lưu động có trật tự, nỗ lực mở rộng con đường tăng thêm thu nhập cho nông dân”. Đồng thời lần lượt xây dựng một loạt chính sách mới đối với nông dân trong tỉnh An Huy ra thành phố làm thuê; tùy theo khả năng cho phép bãi bỏ các hạn chế bất hợp lý hiện tồn tại, thậm chí để họ có thể được hưởng các đãi ngộ kể cả tham gia bảo hiểm.

Nhưng, trong khi điều tra, chúng tôi cũng chú ý đến việc xuất lực lượng lao động tuy có giải quyết được sức ép việc làm ở nông thôn An Huy ở mức độ nhất định, làm sống động kinh tế nông thôn An Huy, có tác dụng nhất định đối với phát triển kinh tế của An Huy, nhưng chúng tôi cũng không thể một mực thổi phồng vai trò của kinh tế dịch vụ lao động, bởi vì một số tỉnh lớn xuất khẩu lực lượng lao động kể cả An Huy, đã bộc lộ rõ tác dụng phụ của việc xuất lực lượng lao động nông thôn của mình. Cùng với số lớn lực lượng lao động có tố chất khá cao chuyển đi nơi khác, tiềm lực dự trữ cho phát triển nông thôn thiếu hụt rõ rệt, dây chuyền sản nghiệp nông nghiệp đang co lại, hệ thống sản nghiệp phát triển kinh tế khó hình thành; còn do phần lớn tài nguyên sức lao động chuyển sang các tỉnh kinh tế phát triển, từ đó mở rộng khoảng cách giữa tỉnh mình với các tỉnh phát triển, khoảng cách đó, ngược lại đã làm nhụt ý muốn của thương gia nước ngoài đầu tư vào những tỉnh này, dẫn đến của sự phát triển kinh tế của những tỉnh và vùng lạc hậu này lâm vào cảnh tuần hoàn ác tính.

Đặc biệt là, do sự bất chấp về mặt thể chế, rất nhiều vấn đề trong chuyển dịch lực lượng lao động dư thừa nông thôn, không phải những tỉnh và vùng đó có thể giải quyết được. Một sự thật gay gắt tương tự không thể lẩn tránh là tuyệt đại đa số: những nông dân ra ngoài tỉnh được gọi là “dân công” này đến nay vẫn không thể được đãi ngộ thật sự công bằng và có thân phận tôn nghiêm từ thành phố.

Trọng điểm chính sách quản lý dân công của chính quyền các nơi hầu như đều chỉ xem xét làm thế nào để quản lý chặt, quản lý nghiêm dân công; điểm xuất phát và điểm tới đích của quản lý cũng chỉ là đề phòng nhân khẩu lưu động phạm tội, bảo đảm chắc chắn cho ổn định và an ninh của thành phố. Nhiều địa phương thậm chí coi thợ nông dân là “nhân khẩu lưu động phạm tội” đối tượng đề phòng và tấn công, coi là đối tượng chỉnh đốn xử lý tổng hợp của trật tự trị an xã hội, và giao trách nhiệm cho cơ quan công an.

Chính quyền của chúng ta đang tự giác hay không tự giác phạm vào nhận thức và cách làm sai lầm “coi thường thợ nông dân”: khuynh hướng quản lý có tính kỳ thị đó đã hạn chế và cản trở nghiêm trọng đến tiến trình hiện đại hóa Trung Quốc.

Đầu những năm 60 thế kỷ trước, khi các học giả các nước Âu Mỹ kéo nhau đến Hakone - Nhật Bản để thảo luận một cách hệ thống và nghiêm túc vấn đề về hiện đại hóa, thì Trung Quốc lại đang khốn đốn trong cơn đói kém mất mùa do thiên tai nhân họa gây ra, tiếp đó lại nổ ra cuộc “đại cách mạng văn hóa” tai họa khủng khiếp kéo dài 10 năm. Cho nên khi chúng ta bắt đầu tiến hành cải cách để thực hiện hiện đại hóa, thậm chí còn chưa rõ, Trung Quốc muốn hiện đại hóa, nhất là thực hiện hiện đại hóa nông nghiệp thì trước hết cần phải giảm bớt một lượng lớn dân số nông nghiệp, chuyển dịch lực lượng lao động dư thừa nông thôn ra thành phố ắt phải trở thành trào lưu lịch sử không thể đảo ngược của Trung Quốc ngày nay.

Nước Mỹ kinh tế phát triển nhất trên thế giới, nhân khẩu nông nghiệp chỉ chiếm 7% tổng số dân cả nước; Nhật Bản sau thời kỳ Minh Trị Duy Tân, kinh tế phát triển nhanh nhất trong lịch sử, đó cũng chính là lúc nhân khẩu nông nghiệp của Nhật Bản từ 85% của tổng dân số giảm xuống còn 15%; tỉnh Đài Loan của nước ta cũng không ngoại lệ, phát triển tốc độ cao của Đài Loan là vào thời kỳ nhân khẩu nông nghiệp chiếm 85% của tổng dân số giảm xuống còn 15%.

Trung Quốc hiện nay có 1.300 triệu nhân khẩu, nhân khẩu nông nghiệp chiếm 900 triệu, trong đó số người đến tuổi lao động chiếm hơn 500 triệu, xí nghiệp hương trấn chỉ giải quyết được mấy chục triệu, sản xuất nông nghiệp cũng chỉ cần hơn 100 triệu, còn ba, bốn trăm triệu lực lượng lao động dư thừa chờ di chuyển.

Vì vậy có thể nói, chỉ có hàng loạt nông dân ra khỏi mảnh đất của mình, trở thành dân thành phố, hiện đại hóa của Trung Quốc mới có hy vọng.

Thế nhưng, thành thị Trung Quốc ngày nay, đối với hàng chục triệu nông dân làm thuê mà nói, vẫn không phải là chốn nghỉ chân yêu thương. Tuyệt đại đa số trong họ được hưởng chỉ là cuộc sống trôi nổi và mất mát tình cảm. Họ không thể thực sự làm được việc “ngang hàng với người thành thị”. Một số người lợi dụng chức quyền của nhà nước trao cho, bắt nạt, hạch sách, nhũng nhiễu họ, điều làm họ đau lòng nhất là vẫn giăng đầy cạm bẫy trước và sau lưng họ: làm thêm ca liên tục mà không được lĩnh tiền làm thêm; lao động tổn hại sức khỏe và nguy hiểm đến tính mạng cũng không có phương tiện bảo hộ lao động tối thiểu; rất nhiều người bị mắc lừa, làm công không lấy được tiền lương; có người vì lao động bị thương, mắc bệnh đến tàn phế thì một đạp ra khỏi cửa là xong; và đau lòng hơn là có nhiều người rơi vào cảnh ăn xin, gái điếm, hút xách, phạm tội ác.

Lý Cường, một chuyên gia nghiên cứu xã hội học và một số người khác qua điều tra phát hiện, chỉ riêng năm 2002, dân công tỉnh ngoài đến làm thuê ở Bắc Kinh, cứ khoảng trong bốn nông dân thì có một người không lấy được tiền lương, hoặc bị nợ lương dây dưa; do nhiều nguyên nhân, có 36,3% thợ nông dân có hiện tượng không một xu dính túi; có 60% dân công mỗi ngày lao động trên 10 giờ, 1/3 trên 12 giờ, 16% trên 14 giờ, 46% người mắc bệnh, mà 93% đơn vị người thuê không chi một xu tiền thuốc.

Những việc này lại đều xảy ra ở Bắc Kinh, thủ đô của Trung Quốc.

Vô số dân công ở ngoại tỉnh đến, bằng mồ hôi, nước mắt và tâm sức của họ đã làm nên sự huy hoàng và giàu có của biết bao thành thị, nhưng một số người thành thị chúng ta lại để cho thợ nông dân các nơi hiểu được thế nào là “làm giàu bất nhân”. Cùng dưới một bầu trời xanh, nhưng những bình đẳng, hỗ trợ, hữu ái, tôn trọng và khiêm nhường cần có giữa người với người đã bị đập nát tan tành và phũ phàng như thế đó, thậm chí không để lại cho họ ít nhiều tình thương xót.

Thì ra, cơ cấu xã hội nhị nguyên lấy chế độ hộ tịch làm tiêu chí đã gây ra một cách nhân tạo sự bất bình đẳng thân phận cư dân thành thị và nông thôn, sự bất bình đẳng cơ hội phát triển, khoảng cách thu nhập bị kéo rộng ra, lưu động giữa thành thị và nông thôn bị tắc nghẽn, chủ nghĩa trung tâm thành thị thấm sâu vào trong tiềm thức của hàng chục triệu dân thành thị, và một số hành vi bất chính của chính quyền thành phố lại tăng cường hơn nữa quan niệm truyền thống thâm căn cố đế đó của dân thành thị, vì thế nông dân vào thành phố được liệt vào tầng lớp “tiện dân” một cách có tính chế độ.

Môi trường sinh tồn tồi tệ của dân công và sự đối xử phi nhân tính mà họ chịu đựng, những năm gần đây thường xuất hiện trên báo, nhưng những câu chuyện không trở thành thời sự đã lâu đó, đã làm cho người ta bắt đầu trở nên thờ ơ, tê liệt.

Chúng ta đã bước vào thế kỷ 21, đang tắm ánh nắng mặt trời tươi rói của thế kỷ mới, nhưng một số tin tức như thế này làm cho chúng ta mệt mỏi kinh ngạc: thu nhập ròng bình quân đầu người của nông dân tiếp tục giảm xuống, hiện tượng thu nhập quốc dân buồn vui không đều càng ngày càng rõ rệt. Phó Chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu phát triển của Quốc Vụ viện Lỗ Chí Cường nêu lên một cách thống thiết, Trung Quốc đã bước vào nước thu nhập của cư dân rất không bình đẳng; công chúng đã tỏ ra bất mãn đối với hiện trạng phân phối thu nhập, trên 70% người cho rằng “giàu nghèo chênh lệch” đã ảnh hưởng đến ổn định của xã hội.

Trung Quốc ngày nay, hễ người có năng lực hầu như không muốn ở nông thôn. Người có đầu óc linh hoạt thông qua thi cử đi vào thành phố, người biết cửa chạy chọt cũng đều thông qua tuyển công nhân, nhờ vả người thân hoặc làm thuê đổ về thành phố. Những năm 80 thế kỷ trước, vì sao xí nghiệp hương trấn phát triển rầm rộ? Chủ yếu là nông thôn lúc đó tích lũy được một số nhân tài. Nhưng sau đó nhân tài nông thôn không ngừng bỏ đi nơi khác, tài nguyên nhân lực của xí nghiệp hương trấn khó tiếp tục duy trì, tinh thần sáng tạo và tài nguyên lập nghiệp thiếu thốn và khô cạn, rõ ràng là nguyên nhân quan trọng làm cho tiềm lực của xí nghiệp hương trấn mấy năm gần đây yếu đi.

Cách biệt giữa thành thị và nông thôn làm cho tài nguyên của cải của đất nước tập trung cao độ ở thành phố, tài nguyên của cải không chỉ bao gồm tài nguyên nhân lực mà cả tài nguyên vật chất cụ thể. Vì vậy, cùng ra đi với nhân tài, không chỉ là nhân tài ưu tú trong nông thôn, mà còn có cả rất nhiều vốn liếng tiền bạc. Theo con số chúng tôi nắm được, 10 năm từ 1985 đến 1994, tiền vốn của nông thôn chảy ra ngoài cả thảy đến 305,7 tỷ NDT, bình quân mỗi năm hơn 30 tỷ.

Có tin cho biết, Bộ Công an từ năm 1985 bắt đầu khởi thảo “Luật hộ tịch” để mong lấp bằng hoàn toàn cái hố bất bình đẳng ngăn cách giữa thành thị và nông thôn này. Nhưng, cuộc chiến tranh chống Nhật vô cùng gian khổ chỉ có 8 năm; chiến tranh giải phóng đánh sập vương triều họ Tưởng cũng chỉ có 3 năm; bây giờ thời gian 18 năm dằng dặc, gấp đôi chiến tranh chống Nhật, gấp 6 lần chiến tranh giải phóng đã trôi qua, “Luật hộ tịch” mà nông dân Trung Quốc trông chờ mỏi mắt đến nay vẫn chưa thấy ra đời. Nguyên nhân chủ yếu là trở lực quá lớn của các ban ngành chính phủ xóa bỏ cơ cấu nhị nguyên hộ khẩu nông nghiệp và hộ khẩu phi nông nghiệp hầu như bị các ban ngành chính phủ, nhất trí phản đối.

Xem ra, không thể hiểu nổi, thực ra nói cho cùng là không ít các ban ngành chính phủ bo bo bám giữ nhiều lợi ích và đặc quyền truyền thống của ngành đã đạt được trong thời đại kinh tế kế hoạch, thà khư khư ôm giữ cái cũ, không chịu làm gì.

Điều làm người ta lo lắng là, cùng với sức ép công nhân viên chức thành phố bị rời khỏi cương vị tìm lại việc làm tăng lên; thành phố các nơi áp dụng rộng rãi biện pháp “thay lồng đổi chim”, hoặc từ chối thợ nông dân, hoặc sử dụng có thời hạn dân công ngoại tỉnh, thậm chí mở rộng phạm vi ngành nghề và nghề nghiệp hạn chế sử dụng những người nơi khác đến, làm cho dân công đi ra ngoài không tìm được việc làm phải trở về quê mỗi năm một tăng. Đó là một đám người thất nghiệp nông nghiệp khổng lồ không nằm trong con số thống kê của chúng tôi hôm nay, số người của đám người này vượt xa số người thất nghiệp ở thành phố và cán bộ nhân viên bị rời khỏi cương vị!

Chỉ cần bảo hiểm xã hội của nông nghiệp một ngày không được giải quyết, không có một chế độ mới để sắp xếp giải quyết sinh lão bệnh tử của nông dân vẫn ở lại nông thôn, thì nông dân chỉ có thể sống dựa vào mảnh đất rất có hạn của mình. Mặc dầu sống dựa đó rất bị động, nhưng không có cách nào khác. Vì vậy, chúng ta có thể nói, nếu nông nghiệp của Trung Quốc ngày nay vẫn là nguồn thu nhập chủ yếu của đa số nông dân, thì khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị v