Chương 11 Phá đề
47. “Tin tức” đến muộn
Thế trận phát động tuyên truyền chưa từng có trên lịch sử An Huy đã xuất hiện trong thời gian ngắn nhất.
Tỉnh ủy, ủy ban tỉnh công bố “Thư gửi đông đảo quần chúng nông dân trong toàn tỉnh” cho 13 triệu nông hộ, dán “Thông tri về triển khai cải cách thuế phí nông thôn” ở 35 vạn thôn và cụm dân cư, chính sách của đảng nhanh chóng đi vào từng hộ gia đình.
Tiếp theo sau, Tỉnh ủy điều động 365 cán bộ ở các cơ quan, ban ngành, tổ chức làm 85 nhóm đôn đốc kiểm tra, đi khắp hang cùng ngõ hẻm tuyên truyền ý nghĩa của cải cách thuế phí, giải thích chính sách cải cách thuế phí, đôn đốc kiểm tra tình hình các nơi thực hiện cải cách thuế phí.
Phương án thí điểm cải cách lấy tỉnh làm đơn vị thực hiện ở An Huy lần này là do Tổ công tác cải cách thuế phí nông thôn Quốc vụ viện xác định. Quy nạp lại, đại thể có bốn câu: ba bãi bỏ, một bãi bỏ từng bước, hai điều chỉnh và một cải cách. Nội dung cụ thể là: bãi bỏ phí thu ngân sách xã hiện hành, trưng thu theo tỉ lệ nhất định thu nhập ròng bình quân đầu người của nông dân năm trước, bãi bỏ phí sự nghiệp hành chính chuyên trưng thu của nông dân nhằm huy động vốn cho giáo dục nông thôn v.v… và gây quỹ, huy động vốn có tính chính quyền, bãi bỏ thuế sát sinh; trong thời gian ba năm, từng bước giảm bớt cho đến bãi bỏ hoàn toàn công lao động tích lũy và công lao động nghĩa vụ qui định thống nhất; điều chỉnh thuế nông nghiệp, điều chỉnh chính sách thuế đặc sản nông nghiệp; cải cách biện pháp sử dụng phần thu trích để lại cho thôn.
Phương án này nói nôm na là “phí đổi thành thuế”. “Ngân sách xã” trước đây, tức là tiền thu năm loại phụ phí sự nghiệp giáo dục nông thôn trong kinh phí xây dựng trường học hai cấp xã, thôn, phí sinh đẻ có kế hoạch, thăm hỏi gia đình chính sách, huấn luyện dân quân và phí xây dựng đường sá nông thôn v.v… do xã chi phối, sau cải cách được đưa vào thuế nông nghiệp, các khoản thu ngân sách xã bị bãi bỏ; “tiền trích lại cho thôn” trước đây tức là số tiền của ba khoản phí quản lý, vốn công ích, vốn tích lũy chung do cấp thôn chi phối, sau cải cách loại bỏ vốn tích chung trong đó, do dân cư trong thôn gom góp theo biện pháp “bàn từng việc một”, còn phí quản lý và vốn công ích đều đổi thành phần thu thêm của thuế nông nghiệp.
Để tiện cho đông đảo nông dân dễ hiểu, dễ nhớ, lại có thể khái quát thành tám chữ: “Một chính, một phụ, bàn từng việc một”. “Chính” tức là thuế chính thức của thuế nông nghiệp, “phụ” là chỉ phần thu thêm của thuế nông nghiệp; qui định tỉ lệ phần thu thêm của thuế nông nghiệp không được quá 20% phần chính thức của thuế nông nghiệp. Tiền vốn cần cho thôn xây dựng sự nghiệp công ích sản xuất tập thể thì thực hành “bàn từng việc một”, đều do đại hội cư dân nông thôn bàn bạc quyết định và qui định khoản tiền này mỗi năm mỗi người không được quá 15 NDT.
Phải nói rằng, phương án cải cách lần này ra đời lấy giảm nhẹ đóng góp của nông dân làm mục tiêu hàng đầu, đã đưa tuyệt đại bộ phận các khoản trong “ngân sách và trích để lại” thuộc thu phí có tính hành chính sự nghiệp trước đây vào quĩ đạo thu thuế, cải cách “phí” thành “thuế nông nghiệp” hoặc “phần thu thêm của thuế nông nghiệp”, điều đó làm cho hành vi hành chính chung chung trước đây mang tính chất thu thuế theo luật pháp, những việc thu phí bừa bãi, phân bổ bừa bãi, huy động vốn bừa bãi đều mất tính hợp pháp, nông dân nộp hay không nộp, không phải là tuân theo hay không tuân theo pháp luật, vì vậy có thể cương quyết dứt khoát không nộp. Hơn nữa, thế trận tuyên truyền chưa từng có lần này, trên dưới đều thúc đẩy mạnh mẽ, buộc cán bộ xã thôn cần phải làm việc theo luật pháp, điều đó đã tạo ra môi trường xã hội tốt đẹp cho việc giảm nhẹ đóng góp của nông dân.
Để bảo đảm công tác thí điểm cải cách tiến hành thuận lợi, Ủy ban thường Hội đồng nhân dân tỉnh An Huy cùng ra tay hành động với nhiệt tình và trách nhiệm rất cao, họ tiến hành rà soát lại một lượt toàn diện và triệt để những pháp qui có tính địa phương đã chế định hoặc phê chuẩn trước đây. Họ nhất loạt sửa đổi lại hoặc tuyên bố dứt khoát bãi bỏ các loại qui định không nhất trí với tinh thần cải cách thuế hoặc không phù hợp với chính sách giảm nhẹ đóng góp của nông dân từ khi cải cách mở cửa đến nay.
Văn phòng tổ lãnh đạo cải cách thuế phí nông thôn tỉnh, Văn phòng tổ lãnh đạo giám sát quản lý đóng góp của nông dân tỉnh và Văn phòng các vụ án nông dân tỉnh, cả ba Văn phòng này cùng nhau viết “Thư gửi các bạn nông dân toàn tỉnh”. Tuyên truyền tỉ mỉ thuế nông nghiệp và thuế đặc sản nông nghiệp, phần thu thêm thuế nông nghiệp, cho đến “bàn từng việc một” để đóng góp tiền và chính sách cải cách “hai công lao động”, đồng thời công khai từng điểm một nội dung thu phí có tính hành chính liên quan đến nông dân. Cuối cùng họ giới hạn phạm vi cho phép thu phí trong mười khoản thu phí trường tiểu học, phí sinh đẻ có kế hoạch, phí trông coi máy móc nông nghiệp, phí đăng ký kết hôn, phí xây nhà v.v… Con số thu phí mỗi khoản cũng đều qui định rất cụ thể. Ví như xây nhà, ngoài thu phí làm giấy tờ chứng nhận cho phép làm nhà là 5 NDT ra, tất cả các phí hành chính sự nghiệp đối với nông dân làm nhà còn lại đều bãi bỏ; ví như đăng ký kết hôn, chỉ cho phép thu phí làm giấy tờ đăng kí kết hôn cho nông dân, đồng thời qui định phí làm giấy tờ đăng ký kết hôn loại giấy thường là 2 NDT, loại giấy bóng là 9 NDT, nông dân sử dụng loại giấy thường hay giấy bóng đều do đương sự tự lựa chọn, không được yêu cầu cứng nhắc, ngoài ra không cho phép thu tiền bảo hiểm, tiền đặt cọc, và thu bất cứ phí nào khác, càng không được ép mua các loại dịch vụ như quà tặng, tài liệu tuyên truyền; chụp ảnh cưới v.v…
Trong “Thư gửi các bạn nông dân toàn tỉnh”, ba cơ quan quyền uy còn lần lượt công khai điện thoại của mình để cho nông dân yên tâm đã có bùa hộ mệnh.
Chính sách ưu ái nông dân đó, chẳng phải nói, rất nhanh được đông đảo nông dân nhiệt liệt hoan nghênh. Họ nghe hiểu, làm rõ, biết quyền lợi của mình có và cách thức bảo vệ những quyền loại đó, cho nên ai cũng vỗ tay hoan hô, đi báo cho nhau.
Chúng tôi đến thăm ông Nghiêm Hùng Xương, một trong những người đi đầu “khoán lớn” năm xưa ở thôn Tiểu Cương huyện Phụng Dương, khi hỏi những thay đổi của cải cách thuế phí mang lại cho nông dân, ông phấn khởi nói, năm ấy đối với Tiểu Cương là một năm gay go, khi gieo hạt vụ xuân thì gặp hạn hán, khi thu hoạch vụ thu thì gặp lũ lụt, có nơi mất trắng, may mà thực hiện cải cách thuế phí, đóng góp của bà con giảm gần 1/3, nếu không thì thật không biết mọi người sẽ sống ra sao.
Trước khi tỉnh An Huy là tỉnh thí điểm, khi Hồi Lương Ngọc còn làm tỉnh trưởng, trên cơ sở tiến hành thí điểm cải cách ở vùng Phụ Dương trước tiên, An Huy phát triển đến hơn 20 huyện thị ở vùng dọc sông Hoài, bây giờ phạm vi cải cách của những huyện thị đó mở rộng hơn, nội dung cũng phong phú hơn. Trong đó, cải cách của huyện Hoài Viễn được cấp cao khẳng định.
Trước kia, 26 xã trấn của huyện Hoài Viễn, tuyệt đại đa số xảy ra chuyện kéo nhau đi khiếu kiện vì nông dân đóng góp quá nặng, năm 1998 xảy ra 289 vụ (lượt) được gọi là “huyện lớn số một đi khiếu kiện của An Huy”. Đến năm 1999, toàn huyện bắt đầu thực hiện thí điểm cải cách, việc đi khiếu kiện vì đóng góp của nông dân giảm xuống chỉ có 5 vụ (lượt). Lần thí điểm này, gọi là cải cách vòng hai của huyện Hoài Viễn, hiệu quả của giảm nhẹ đóng góp càng rõ rệt hơn.
Vào buổi sáng ngày 21 tháng 9 năm 2000; một phóng viên của báo “Nam Phương cuối tuần” đi vào xóm dân cư thôn Tống Trang thị trấn Bao Tập huyện Hoàn Viễn, gặp Tống Gia Toàn 37 tuổi đang sàng sảy hạt vừng trong sân nhà. Tuy năm đó Tống Trang cũng như thôn Tiểu Cương huyện Phụng Dương đều gặp xuân hạn thu úng, thu hoạch thấp hơn năm trước, nhưng xem ra Tống Gia Toàn râu ria lồm xồm, lòng vẫn vui.
Nhà họ Tống có 4 người, kinh doanh bốn mẫu rưỡi đất, nửa năm đầu họ trồng toàn lúa mì, sau vụ hè họ trồng hai mẫu lạc, hai mẫu ngô, còn trồng xen kẽ một số hạt bông và vừng. Sản lượng mỗi mẫu lúa mì khoảng 325 kg, tổng cộng thu được 1.300 kg, theo giá thu mua 106 NDT, 100 kg thì được 1.378 NDT; hai mẫu lạc 500 kg, khoảng 1.000 NDT; hai mẫu ngô 550 kg, được khoảng 500 NDT. Thu nhập ròng làm ruộng cả năm của gia đình anh khoảng 2.320 NDT. Đầu tháng 6, trên giấy báo nộp thuế của Tống Gia Toàn nhận được ghi rất rõ: Căn cứ vào diện tích canh tác của gia đình ông, sản lượng tính thuế, thuế suất và giá thu mua lương thực năm nay, phải nộp thuế nông nghiệp 178,87 NDT, phần thu thêm thuế nông nghiệp 35,77 NDT, hai khoản cộng lại tất cả là 214,64 NDT, sự nghiệp công ích trong thôn “bàn từng việc một” theo qui định nhiều nhất không quá 15 NDT, có nghĩa là đưa “một chính, một phụ, bàn từng việt một” của cải cách thuế phí lần này lên bàn toán, không đến 220 NDT. Bãi bỏ khoản thu ngân sách; thuế đặc sản nông nghiệp cũng thu theo nguyên tắc “không thu trùng lặp, chỉ có thấp chứ không cao”, ngoài ra, Tống Gia Toàn theo chính sách có quyền không nộp bất cứ thuế phí nào khác nữa, vì thế anh rất phấn khởi nộp lương nộp thuế đúng thời hạn, nhẹ nhõm cả người.
Anh nói với phóng viên, nếu ở mấy năm trước, thuế này phí kia lộn tùng phèo do trấn, xã, thôn đặt ra, thì nhà anh ta có 4 người phải nộp đến 600 NDT, đại đa số các khoản thu đều chưa nghe nói, một nông dân như anh làm thế nào biết được cái nào thật cái nào giả? Người ta không thể nào chịu đựng nổi.
Ông Chu Hưng Niên, trấn trưởng Bao Tập cũng nói khi tiếp phóng viên: “đóng góp của nhà Tống Gia Toàn từ 600 NDT giảm xuống còn 212 NDT, không chỉ giảm bớt số lượng, mà còn là sự thay đổi về chất”. Trước đây thu phí bằng thủ đoạn hành chính vô trật tự, bây giờ thu thuế theo luật pháp, nông dân dễ giám sát, thu phí bừa bãi thì không có danh mục và biên lai, chỉ cần nghiêm chỉnh chấp hành thì có thể giảm nhẹ về căn bản đóng góp của nông dân.
Sau một trận mưa lạnh tháng chạp năm 2001, chúng tôi cũng đến trấn Bao Tập này, được gặp trấn trưởng Chu Hưng Niên. Ông là người xã Mai Kiều huyện này, làm giáo viên dân lập sáu năm, năm 1984 lúc 25 tuổi bắt đầu làm Phó xã trưởng, về sau lần lượt làm lãnh đạo ở bốn xã trấn, 17 năm liền. Khi chúng tôi gặp ông, ông đang thư thả ngồi trên xa lông của văn phòng uống trà, và xem giấy tờ ở trên gửi xuống. Nhắc đến giảm nhẹ đóng góp, hỏi đến cải cách thuế phí, ông phấn khởi nói như cái máy. Ông nói, sắp đến hết năm rồi, trước đây, gặp phải lúc này ai còn dám ngồi ở đây thanh thản uống trà, càng gần cuối năm càng bận, đến tận từng nhà thúc giục đóng thuế nộp lương! Đã mỏi cả chân, còn dễ xảy ra va chạm với nông dân, thậm chí có lúc muốn thuê “đội thu lương thực” đi thu cũng không xong, khi cần thiết còn phải nhờ đồn công an đến dọa. Bây giờ tốt rồi, đã cởi trói cho cán bộ xã thôn rồi, nông dân cũng không còn lo “đội thu lương thực” hò hét gõ cửa bê thóc, bê tủ, bắt trâu bò. Nông dân làm tốt việc đồng áng, cán bộ cũng rảnh tay làm một việc thiết thực cho nông dân.
Hôm chúng tôi đến cũng là ngày làm việc đầu tiên của đồng chí Hà Vân, Bí thư đảng ủy trấn Bao Tập vừa điều động từ Thường Văn về, hai người kể cho chúng tôi nghe một giai thoại của Phó Thủ tướng Ôn Gia Bảo đi điều tra nghiên cứu ở Hoài Viễn.
Ngày 12 tháng 4 năm 2000, An Huy theo bố trí của Trung ương tiến hành toàn diện cải cách thuế phí trong toàn tỉnh mới được hơn một tháng, Ôn Gia Bảo chẳng ngại bụi đường vất vả đến đây, muốn đến huyện Hoài Viễn “huyện lớn” số một đi khiếu kiện của An Huy để xem ra sao. Mặc dù Ôn Gia Bảo đến đột ngột, đảng ủy và chính quyền địa phương vẫn bố trí chu đáo. Chiều hôm đó, xe xuất phát từ trấn Phong Phụ trên đường sắt Bắc Kinh - Triết Giang, đi qua ngã tư bên sông Oa rẽ vào đường cái của trấn Bao Tập huyện Hoài Viễn. Nhìn thấy sắp đến Bao Tập, xe của Ôn Gia Bảo cố ý lùi lại sau, rồi bất thình lình quay đầu xe, rời đường ô tô chạy thẳng đến thôn Thường Hồ, xã Phì Hà không hề sắp xếp. Đồng chí muốn “kiểm tra đột xuất” tình hình tiến hành cải cách thuế phí nông thôn.
Sau khi điều tra tỉ mỉ ở thôn Thường Hồ, xã Phì Hà, Ôn Gia Bảo cảm thấy quả thật rất tốt, sau đó cho xe trở lại đường ô tô. Ai ngờ, xe chạy chẳng bao xa, Ôn Gia Bảo phát hiện một bên đường ô tô có một con đường đất đơn sơ, đồng chí bảo lái xe rẽ ngoặt rồi đi thẳng đến xóm dân cư thôn Tống Tranh, thôn Lâm Trang mà phóng viên “Nam phương cuối tuần” đã đến.
Có lẽ vì làm 17 năm ở ngành địa chất cơ sở, quanh năm suốt tháng trèo đèo lội suối, đã tôi luyện đôi bàn chân chắc nịch, có lẽ sau khi ngồi ở vị trí cao vẫn thường xuyên đi sâu vào tuyến đầu, tinh thần sức lực của Ôn Gia Bảo rất dồi dào, đi bộ quen chân, thoắt đi vào thôn như người khách quen ở đây, nhiệt tình vẫy chào, thình lình dừng lại hỏi chuyện với dân làng, rồi đi vào hết nhà này sang nhà khác, đồng chí muốn tận mắt nhìn sự thật.
Nói đến tình hình bồi đồng Ôn Gia Bảo, Hà Vân bỗng nghiêm sắc mặt. Đồng chí nói, ngày 13 tháng 4, huyện vốn sắp xếp Ôn Gia Bảo đi trấn Thường Phần, khi xe đến Vương Trang, Ôn Gia Bảo bỗng bảo “dừng xe lại”, xe vừa đỗ lại, đồng chí nhảy ra khỏi xe, đi băng băng. Lúc đó Hà Vân vẫn còn làm Bí thư thị trấn Thường Phần, để đuổi kịp Ôn Gia Bảo, tất nhiên phải chạy mệt vã mồ hôi.
Phải nói rằng, Thường Phần ở huyện Hoài Viễn là một xã, trấn khá sung túc, Ôn Gia Bảo vào thôn Vương Trang, thấy nhà ai xấu xí thì vào nhà ấy, thấy ai mặc xoàng xĩnh thì tìm người ấy điều tra. Cuộc tọa đàm ở trấn chuẩn bị trước bị bỏ nhỡ, Ôn Gia Bảo lại mở một cuộc họp nông dân tâm sự do đồng chí đích thân chủ trì ở thôn Vương Trang. Đồng chí để mọi người nói thoải mái, cứ nói thật, nói thẳng.
Kết quả của cuộc điều tra nghiên cứu làm đồng chí rất hài lòng. Đồng chí tin chắc cải cách thuế phí nông thôn thực sự làm cho đóng góp của nông dân huyện lớn sản xuất lương thực, huyện lớn đi khiếu kiện này đang được giảm nhẹ.
Năm đầu tiên tiến hành toàn diện cải cách thuế phí nông thôn, Sở thanh tra tỉnh An Huy tiến hành một cuộc kiểm tra nghiêm túc đối với tình hình cải cách thuế phí năm 2000 ở 85 xã (trấn) của 17 thành phố trực thuộc và 62 huyện (thành phố, địa khu)trong toàn tỉnh. Kết quả cho thấy, đóng góp bình quân đầu người của những xã, trấn này đã từ 123,98 NDT giảm xuống còn 83,14 NDT, giảm được 48,84 NDT so với trước khi cải cách, đóng góp của nông dân giảm nhẹ rõ rệt.
Bí thư Tỉnh ủy Vương Thái Hoa khi trả lời phỏng vấn nói: “công tác thí điểm cải cách thuế phí nông thôn xét trên tổng thể tiến triển tương đối thuận lợi. Trước hết cải cách đã mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân. Qua tính toán, sau cải cách, thuế nông nghiệp, thuế đặc sản nông nghiệp và phần thu thêm tổng cộng 3,661 tỷ NDT, giảm bớt 1,164 tỷ NDT so với trước cải cách. Cộng thêm bãi bỏ thuế sát sinh và huy động vốn cho giáo dục nông thôn, tổng số đóng góp thuế phí của nông dân giảm bớt 1,690 tỷ NDT, mức giảm là 31%. Đồng thời, chính quyền tỉnh bãi bỏ các loại thu phí, huy động vốn, quĩ hành chính và 50 khoản đạt tiêu chuẩn nhằm vào nông dân. Ba loạn cơ bản được ngăn chặn có hiệu quả”.
Ngày 5 tháng 8 năm 2000 công nguyên, vào một tối thứ bảy, trong chương trình “Tin tức tổng hợp” vào giờ hoàng kim, Đài truyền hình Trung ương đưa tin tỉnh An Huy tiến hành cải cách thuế phí nông thôn. Đây rõ ràng không phải là lần đầu tiên phát “tin tức” này, mà nó đã cách nhau 5 tháng và ba ngày so với thời gian “Trung ương xác định lấy tỉnh làm đơn vị tiến hành thí điểm cải cách thuế phí nông thôn ở tỉnh An Huy”. Tất nhiên đó không phải là “sơ suất” của Đài truyền hình Trung ương, mà chỉ cơ thể cho thấy sự thận trọng và chú ý hiệu quả của cải cách lần này. Bởi vì lúc này thu hoạch vụ hè đã xong, công tác cải cách thuế phí nông thôn của tỉnh An Huy vào trận rộn ràng, đã nhìn thấy kết quả ban đầu.
48. Hai số “Tham khảo nội bộ”
Giảm nhẹ đóng góp của nông dân có nghĩa là tài chính của huyện xã thâm hụt lớn hơn. Làm thế nào để bù vào thâm hụt thu nhập tăng lên đột ngột này, bỗng chốc trở thành vấn đề hết sức cấp bách phải giải quyết gấp.
Lấy huyện Thái Hòa tiến hành thí điểm cải cách thuế phí sớm nhất làm dẫn chứng, thâm hụt thu nhập năm 2000 khi tiến hành cải cách thuế phí nông thôn này đã lên đến 97,36 triệu NDT, thiếu gần 100 triệu NDT.
Tiền đã không đủ chi thì hoặc là tăng thu, hoặc là giảm chi. Trung ương tỉnh năm lần bảy lượt chỉ thị “phải bảo đảm đóng góp của nông dân hạ thấp thiết thực, không cho tái diễn”, chủ tâm khai thác lại nguồn quan trọng này từ nông dân đã bị vít lối. Cơm không đủ ăn chỉ còn biện pháp hữu hiệu nhất là giảm bớt người ăn cơm. Năm năm về trước, khi bắt đầu làm thí điểm cải cách thuế phí, huyện Thái Hòa đã tinh giản một số đông người, thâm hụt bây giờ còn lớn hơn bất cứ lúc nào, chỉ có cho nghỉ việc tất cả nhân viên hợp đồng ngoài biên chế vì thế tinh giảm tất cả nhân viên thừa biên chế, trong xã, trấn. Những việc này ngày thường không hạ nổi quyết tâm, cũng không ra tay nổi, bây giờ không có lựa chọn nào khác phải đưa lên chương trình nghị sự.
Nhưng ngay cả khi cho thôi việc những nhân viên hợp đồng ngoài biên chế và tinh giản nhân viên thừa biên chế vẫn chẳng làm được, cũng phải xem xét kỹ đối với nhân viên trong biên chế, có người không thể không khuyên họ nghỉ vì bệnh, hoặc về hưu sớm để rút bớt biên chế. Tất nhiên, ai nghỉ, ai không nghỉ, trong đó còn nhiều nhân tố phức tạp cảm tình cá nhân, hoàn cảnh gia đình v.v… phải xem xét, nhưng cố gắng hết sức để thu hẹp số người ăn cơm vua đã không thể trì hoãn được nữa.
Sau khi giảm bớt số người ăn cơm, còn phải sống khắc khổ. Đảng ủy, chính quyền huyện Thái Hòa sau đó lại đưa ra khẩu hiệu “đặt đũa xuống, cho xe nghỉ, đóng máy lại”, đồng thời đưa ra một loạt qui định chế độ tương ứng như “chế độ bố trí sử dụng xe con” “chế độ tiếp khách” v.v… Ban lãnh đạo của huyện đã thế thì ô tô con của cán bộ xã, trấn cũng đành phải chuyển sang xe đạp, và đều ăn trưa ở nhà ăn, cấp thôn bãi bỏ chi phí chiêu đãi… Toàn bộ số tiền đều trước hết phải dùng để trả lương, trong trường hợp không thể bảo đảm phát lương bình thường, thì nhất loạt ngừng mọi chi tiêu khác.
Những cán bộ xã trấn quen sống thoải mái phóng khoáng, trong lòng bực bội đối với cuộc sống khắc khổ thiếu muối, thiếu dầu hiện nay, cũng là điều rất tự nhiên. Vì vậy, mặc dù quyết tâm của Trung ương và tỉnh trong cải cách thuế phí nông thôn lần này đều rất lớn, tuyệt đại đa số địa phương quả thực cũng làm được những điều đã cấm, nhưng bao giờ cũng có những địa phương tức là làm theo cách của ta, trên có chính sách, dưới có đối sách.
Trong đó tính chất tồi tệ nhất, ảnh hưởng chính trị rất xấu, phải kể đến sự kiện trấn Trình Trang huyện Đảng Sơn.
Huyện Đảng Sơn thực ra trong huyện không có núi, nhưng ở gần huyện bên cạnh có một quả núi Đảng Sơn, thời Tam Quốc đã từng là nơi Lưu Bị ẩn náu lánh nạn, có lẽ từ đó mà có tên huyện Đảng Sơn. Nó ở vào dòng chảy cũ con sông Hoàng vùng cực Bắc An Huy, xưa nay sản xuất lê giòn nổi tiếng thiên hạ, nhưng bao nhiêu năm nay, nông dân trấn Trình Trang trồng lê không được giàu có rủng rỉnh, chỉ vì nông dân ở đây đóng góp rất nặng… Chỉ trong ba năm từ 1997 đến năm 1999, các loại thuế phí bình quân đầu người nông dân Trình Trang đóng góp lần lượt chiếm đến 11,9%, 11,4% và 13,24% của thu nhập ròng bình quân đầu người năm trước, tỉ lệ đó vượt quá xa “giới hạn” 5% của Trung ương qui định!
Người Trình Trang hàng năm thu hoạch lê ngọt, vất vả quanh năm, nhưng thu về hình như chỉ có chua xót và đau lòng.
Năm 2000, theo phương án thực thi cải cách thuế phí nông thôn của huyện đặt ra, nông dân thị trấn Trình Trang đóng góp bình quân đầu người 16,7 NDT, trong chấp hành thực tế, trấn lại bất chấp qui định của Trung ương và tỉnh về nghiêm cấm tăng thêm đóng góp của nông dân ngoài qui định, căn bản không động não tính toán về mặt tăng thu giảm chi, làm chút ít việc phù hợp với cải cách này mà là tất cả làm như cũ, lấy chi để định thu, tự ý tăng thêm 1.550.600 NDT, bình quân đầu người tăng thêm 36,12 NDT. Trong quá trình trưng thu, không những vi phạm qui định, phân bổ bình quân theo mẫu, mà còn không lên bảng công khai, cũng không phát giấy báo nộp thuế, càng không viết biên lai nộp thuế, vẫn làm bừa bãi.
Cái hay là tính minh bạch của cuộc thí điểm lần này ở An Huy rất cao, tất cả phương châm chính sách của đảng đều trực tiếp gặp mặt đông đảo nông dân, không nói đến “Thư gửi đông đảo quần chúng nông dân toàn tỉnh” của đảng và chính quyền tỉnh in phát đến từng hộ gia đình, mà ngay cả “Thông tư về triển khai cải cách thuế phí nông thôn” cũng dán khắp mọi nơi, nhưng cách làm đó của đảng ủy, chính quyền Trình Trang không nhất trí với tinh thần nói trên, rất nhiều nông dân hăng hái đứng lên phản đối tẩy chay.
Bí thư đảng ủy trấn Bành Gia Lương cũng là một nhân vật khác thường, ông thấy quần chúng cự tuyệt chấp hành quyết định của thị trấn, ông nhận định nông dân mắc tội làm loạn, liền quyết định cho mọi người biết tay. Vì thế, “Trường chính trị tư tưởng” do ông đề nghị và được hội nghị liên tịch đảng và chính quyền trấn thông qua chính thức khai giảng, họ tập trung nông dân không kịp thời nộp thuế phí đủ số tiến hành “giáo dục”. Bí thư đảng ủy trấn Bành Gia Lương đích thân giữ chức hiệu trưởng danh dự, trấn trưởng Phó Chính Dũng làm hiệu trưởng, những người phụ trách đảng chính quyền có liên quan khác đều lần lượt giữ chức Phó hiệu trưởng.
Thời gian yêu cầu, hoàn thành nhiệm vụ nộp thuế xác định là cuối tháng sáu, lúc này đối với người trồng lê chính là ngày “giáp hạt”, vì lê giòn phải đợi đến hạ tuần tháng tám mới lục tục ra chợ, không bán lê thì nông dân trồng lê lấy đâu ra tiền? Đi vay lãi suất cao, rất nhiều người không trả nổi. Như vậy đến tháng bảy, những người không trả nổi đủ số thì cán bộ thôn cung cấp danh sách, nhà trường đến tận nhà cưỡng bức dẫn đi. Ai đến trường trước hết phải rút hầu bao trả “tiền ô tô” từ 50 đến 100 NDT, sau đó mỗi người mỗi ngày 20 NDT tiền ăn và tiền ở?
Bước vào Trường chính trị tư tưởng của thị trấn lập ra, nông dân trồng lê đừng hy vọng còn có tự do thân thể. Lúc đó vào đúng ngày hè nắng gắt, ngồi lỳ trong nhà không làm gì cũng đổ mồ hôi ướt áo, thế mà nhà trường xua mọi người như xua vịt ra bãi tập để phơi nắng, còn bắt mọi người chạy một vòng tròn, ai chạy chậm bị mắng, thậm chí bị phạt. Điều làm người ta không chịu nổi nhất là tập trung tất cả mọi người lại, ra lệnh cho cha con, anh em lấy tay vả vào mặt nhau, phải vả thật sự, và vả thành tiếng, không kêu không tính, mỗi lần qui định là 30 cái. Một lát sau, ruột thịt tương tàn, tiếng bàn tay vả vảo mặt người vang lên inh ỏi.
Đã bước vào thế kỷ 21 rồi, hành động dã man cưỡng bức thu thuế vô nhân đạo như thế, tất nhiên gây nên phản đối mạnh mẽ của nông dân thị trấn Trình Trang. Một người hô, trăm người hưởng ứng, một đội ngũ đi khiếu kiện thề chết không quay đầu, ngồi lên mấy chiếc máy kéo đến thẳng tỉnh lỵ, trên 400 km.
Việc này lập tức làm giật mình đảng bộ, chính quyền tỉnh An Huy. Ủy viên thường vụ, tỉnh ủy Phó tỉnh trưởng Trương Bình vội vàng đánh xe đi gặp đoàn người khiếu kiện ở Tào Yêm huyện Trường Phong cách Hợp Phì 89 km. Ông nhẫn nại nghe mọi người tố cáo. Bản thân ông là người huyện Tiêu, giáp huyện Đảng Sơn, rất hiểu rõ nông dân vùng Tiêu Đảng, ông biết sâu sắc con cháu dòng chảy cũ sông Hoàng cần cù chất phác, không bị buộc đến bước đường cùng, thì quyết sẽ không gây chuyện động trời như vậy.
Trương Bình thành khẩn nói: “Xin mọi người hãy về đi, không cần phải đến Hợp Phì nữa, ngày mai tôi cử người đến Trình Trang điều tra”. Ông lớn tiếng hứa với mọi người “Hãy tin tưởng tôi, việc này nhất định phải xử lý tốt”.
Ngày hôm sau, một đoàn năm người do Trợ lý chủ nhiệm ban nông nghiệp tỉnh Hứa Vũ dẫn đầu từ tỉnh lỵ Hợp Phì về huyện lỵ Đảng Sơn cách trên mấy trăm cây số. Trước tiên, họ gặp Bí thư huyện ủy Mã Tuấn tìm hiểu tình hình, không ngờ Mã Tuấn nói rất tùy tiện: “Nhân dân ở địa phương đó luôn luôn không chăm lo sản xuất, cứ đi kiện tụng”.
Hứa Vũ nghe qua biết vị bí thư huyện ủy này quá trẻ, đến lúc này vẫn chưa rõ tính chất nghiêm trọng của sự kiện Trình Trang, bèn nói “Chúng tôi xuống xem sao”.
Mã Tuấn thấy đoàn cán bộ tỉnh nhất quyết phải xuống dưới điều tra nên ngăn cản khéo, nêu ra tính chất nguy hiểm khi đi xuống đó: “Các anh đi lúc này e rằng không thể bảo đảm an toàn tính mạng”.
Tất nhiên Hứa Vũ không tin. Theo kinh nghiệm của ông, chỉ cần để cho quần chúng nói ra và tôn trọng ý kiến của quần chúng, thì tuyệt đại đa số quần chúng vẫn thấu tình đạt lý; ngược lại, nếu một mực lẩn tránh mâu thuẫn, thậm chí coi quần chúng là mặt đối lập của mình, thì hỏng hết việc.
Đoàn Hứa Vũ không ở lại trên huyện, tiếp tục đi ngay xuống thị trấn.
Nông dân Trình Trang thấy tỉnh quả thật cử người về, tin tưởng lãnh đạo tỉnh nói lời giữ lời, mọi người như đèn cù náo nức kéo nhau đến đầu thôn, quì rạp trên đất chỉnh tề, mọi người trong đoàn cảm động đếu rơi nước mắt.
Hứa Vũ vội bảo mọi người đứng dậy, không nén nổi nghẹn ngào nói: “Tôi được Tỉnh ủy, chính quyền tỉnh cử về để nghe ý kiến của bà con”.
Qua báo cáo của Ban kinh tế nông nghiệp tỉnh, Bí thư Tỉnh ủy Vương Thái Hoa hiểu rõ sự thật của nông dân huyện Đảng Sơn đi khiếu kiện tập thể, tức giận nói: “Đối xử với quần chúng nông dân như vậy có còn là đảng cộng sản nữa không? Chúng ta cần đảng viên như thế để làm gì?” Đồng chí lập tức về Đảng Sơn, phải đích thân xử lý vụ “sự kiện Trình Trang” này.
Chẳng bao lâu, Ban kiểm tra kỷ luật của Tỉnh ủy An Huy, Sở giám sát tỉnh An Huy ra thông báo cho toàn tỉnh về tình hình điều tra xử lý sự kiện này. Thông báo nêu rõ, trấn Trình Trang huyện Đảng Sơn đã vi phạm nghiêm trọng chính sách cải cách thuế phí nông thôn của Trung ương, coi thường các chỉ thị của Tỉnh ủy, chính quyền, tự ý tăng thêm đóng góp của nông dân, đặc biệt là mở “Trường chính trị tư tưởng”, một biến tướng giam cầm tra tấn quần chúng, làm thiệt hại rất lớn lợi ích của quần chúng, xâm phạm tự do thân thể của quần chúng, bôi nhọ hình ảnh của đảng và nhà nước, phá hoại quan hệ giữa đảng với quần chúng, giữa cán bộ với quần chúng, gây nên ảnh hưởng chính trị rất xấu. Đối với hành vi tự làm theo ý mình, trên có chính sách, dưới có đối sách, vi phạm nghiêm trọng kỷ luật chính trị, coi thường nguyên tắc của đảng, xa rời tôn chỉ của đảng, gây hậu quả nghiêm trọng này quyết không thể nương nhẹ, cần phải xử lý nghiêm khắc.
Nghiên cứu quyết định: khai trừ đảng tịch của Bành Gia Lương, Bí thư đảng ủy trấn; cách chức trấn trưởng của Phó Chính Dũng và lưu đảng một năm để xem xét; xóa bỏ chức vụ trong đảng của Vương Pháp Châu, phó bí thư đảng ủy trấn; ghi kỷ luật hành chính đối với Phó trấn trưởng Mạnh Phàm Xương, Vương Nham; đồng thời cảnh cáo nghiêm khắc trong đảng và ghi kỷ luật xử lý hành chính đối với Bí thư huyện ủy Mã Tuấn và huyện trưởng Thẩm Cường, những người chịu trách nhiệm lãnh đạo! “Sự kiện Trình Trang” và việc điều tra xử lý nghiêm túc về sau đã gây chấn động rất mạnh trong nông thôn rộng lớn tỉnh An Huy lúc bấy giờ, gióng tiếng chuông cảnh tỉnh đinh tai cho cán bộ thôn xã bí quá hóa liều vì thâm hụt tài chính!
Thực ra bài học phản diện như huyện Đảng Sơn, vào năm đầu tiến hành thí điểm cải cách thuế phí ở tỉnh An Huy cũng không phải chỉ có vụ này. Bí thư Vương Thái Hoa khi trả lời phỏng vấn không hề lẩn tránh những vấn đề tồn tại trong công tác thí điểm. Đồng chí đặc biệt nêu rõ, do hệ thống giám sát chưa hoàn thiện, cá biệt có địa phương xảy ra hiện tượng cán bộ thôn xã đến từng nhà xúc lương thực, bê của cải, dẫn đến hiện tượng tranh chấp. Nói cụ thể là xã Quảng Đại huyện Lai An phía Đông tỉnh An Huy.
Huyện Lai An cũng là một trong những huyện của tỉnh An Huy triển khai công tác thí điểm cải cách
thuế phí khá sớm, việc tuyên truyền các chính sách chế độ không thể nói là không đến nơi đến chốn, thế nhưng những người phụ trách của xã Quảng Đại năm đó, vẫn dùng biện pháp cũ khi bố trí công tác trưng thu thuế phí nông nghiệp vụ hè. Tại hội nghị cán bộ hai cấp toàn xã, họ công khai động viên: “Đối với thiểu số hộ lằng nhằng, hộ trây ì, hộ hóc búa có tiền, có lương thực không chịu nộp, khi cần thiết vẫn phải áp dụng chính sách xúc”.
Lãnh đạo xã dám nói những lời như thế trước hội nghị, thì cái gan của cán bộ thôn có thể to bằng trời.
Lưu Xuân Quốc, một nông dân ở xã này vốn là người an phận thủ thường, trước đây năm nào cũng đều nộp thuế đủ số lượng, đúng thời hạn, tuy không chịu nổi đóng góp, nhưng không nói một câu, chỉ riêng năm toàn tỉnh khởi động công tác cải cách thuế phí bị hạn, Lưu Xuân Quốc một lúc không lấy đâu ra tiền mặt, cán bộ thôn cho rằng anh ta chống lại công tác cải cách thuế phí, thuộc về loại “hộ lằng nhằng, hộ trây ì, hộ hóc búa có tiền không chịu nộp”, vì thế dẫn một đám nhân viên thu thuế, la hét ầm ĩ cưỡng bức xúc lương thực, Lưu Xuân Quốc tức quá không chịu nổi, uống thuốc sâu, tự sát ngay tại chỗ.
Cải cách thuế phí cuối cùng đụng chạm đến lợi ích thiết thực trên mọi phương diện, mà lợi ích này không chỉ hình thành lâu dài, mà còn liên kết chặt chẽ với các quyền lực, vì vậy nhiệm vụ cải cách gian nan là điều dễ hiểu, hễ sơ ý một chút, một số địa phương sẽ đẻ ra lắm trò đủ kiểu tìm cách tăng thêm đóng góp của nông dân.
Xét thấy tình hình đó, Bí thư Tỉnh ủy Vương Thái Hoa nhấn mạnh ở mọi cuộc họp lớn nhỏ, yêu cầu các nơi trong tỉnh kiện toàn hơn nữa cơ chế giám sát nhiều mặt, quần chúng giám sát, pháp chế giám sát, dư luận giám sát v.v… Khơi thông kênh nông dân phản ánh vấn đề, nhanh chóng hình thành một hệ thống giám sát đóng góp của nông dân trên toàn phương vị, nhằm bảo đảm đóng góp của nông dân được kiểm soát nghiêm ngặt. Chỉ có như vậy, mới có thể nói được có thể bảo đảm ổn định lâu dài.
Câu chuyện xảy ra ở thôn Tam Thanh xã Long Đường huyện Phì Đông đã giải thích tốt nhất cho những lời nói đó của Vương Thái Hoa.
Một hôm, Ban biên tập báo “Tân An buổi chiều” có số lượng phát hành lớn nhất tỉnh An Huy, đột ngột nhận được bức thư của thôn Tam Thanh xã Long Đường huyện Phì Đông gửi đến với danh nghĩa “Toàn thể nhân dân trong thôn”. Trong thư viết: “Trung ương đảng, Quốc Vụ viện tiến hành thí điểm cải cách thuế phí nông thôn ở tỉnh chúng tôi, mục đích là giảm nhẹ đóng góp của nông dân, chúng tôi xin bày tỏ biết ơn và ủng hộ tự đáy lòng. Nhưng chúng tôi ở đây, khi chấp hành cụ thể chính sách cải cách thuế phí lại không xuất phát từ thực tế, qui định “sản lượng thường niên tính thuế” mỗi mẫu là 1.043 kg và giấy báo nộp thuế rất nhiều khoản “sản lượng thường niên tính thuế”, “thuế suất”, “tỉ suất thu thêm của thuế nông nghiệp” v.v… qui định phải ghi rõ thì đều để trống, chỉ có ghi chúng tôi phải nộp bao nhiêu tiền.
Nếu tính thuế theo sản lượng mỗi mẫu là 1.043 kg, thì đóng góp của nông dân chúng tôi không những không giảm bớt, ngược lại còn cao hơn nhiều so với năm ngoái, cuộc sống càng khó khăn hơn…”
Nhận được lá thư này của nông dân, lãnh đạo tòa báo rất coi trọng, lập tức cử Sử Thủ Cầm đi điều tra xác minh.
Sử Thủ Cầm chưa phải là phóng viên lâu năm, nhưng lại nổi bật trong đám phóng viên trẻ, tuy là nữ giới, nhưng chẳng chịu thua kém giới mày râu, rất nhiệt tình, dám nói thật, dám đương đầu, người ta gọi là “Sử đại hiệp”. Lần này, lãnh đạo tòa báo cử cô đến Phì Đông, tất nhiên có nguyên nhân của nó. Một thôn của xã Lộ Khẩu huyện Phì Đông trước đây cũng phản ánh vấn đề đóng góp của nông dân, cử cô đi điều tra xác minh, vì vậy, làm nên giai thoại “nửa bát nước đục”. Hôm đó, cô mặc trên người một chiếc váy liền áo hoa to vừa ở Nhật Bản mang về, vì đi vội vàng không kịp để ý thay, tất tưởi lên đường. Khi về đến thôn, nói rõ ý định của mình với nông dân đang đứng đầu bờ ruộng, thấy ai cũng trố mắt ngẩn người, nhìn cô một cách rất tò mò, lúc này cô mới ý thức được bộ váy trên người đã làm hại mình. Vì thế cô lấy bức thư của nông dân gửi cho tòa báo, giải thích thêm, ai ngờ, một nông dân trẻ vừa tròn 20 bỗng nhiên đứng dậy, cầm một cái bát to viền xanh bên cạnh đi ra bờ mương, cúi người múc một nửa bát nước đục, sau đó đến trước mặt cô nói: “Chúng tôi làm thế nào tin được các vị không “bảo vệ quan trên?” Như thế này nhé, nếu cô không sợ nước bẩn, dám uống hai ngụm, thì chúng tôi tin cô có lẽ có thể nói mấy câu trung thực thay cho chúng tôi”. Sử Thủ Cầm liếc nhìn bát nước quặn đau trong lòng. Uống thì nước bẩn xông lên mắt, vào trong bụng, cảm thấy mọi thứ quay cuồng, không uống, thì phải đi ngay lập tức. Cô không nghe được đối phương nói ra những lời như thế, thế là cô lấy lại tinh thần, không chút do dự, cầm lấy cái bát không nháy mắt, ngẩng cổ lên trời uống ừng ực. Khi uống sắp hết, cái bát bị dằng lại, cô nhìn thấy trên mặt người nông dân trẻ kia lộ vẻ xấu hổ, và nét mặt biểu hiện của nông dân tại chỗ cũng thay đổi.
Sau khi kết thúc cuộc phỏng vấn điều tra lần đó, nông dân trong thôn đều ra tiễn cô về, có người tiễn hết đoạn này đến đoạn khác.
Về sau cô viết bài đưa tin giải quyết vấn đề cho nông dân trong toàn thôn, để bày tỏ cảm ơn, một thầy giáo làng đã 70 tuổi bất chấp tuyết to hiếm thấy trong năm, đến tặng báo buổi chiều một câu đối, trên đó viết:
“Vai sắt gánh đạo nghĩa,
Tay mềm viết văn chương”.
Từ đó trở đi cô kiên định một niềm tin: đứng dưới lá cờ đảng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
Lần này, khi xem xong lá thư của nông dân gửi đến, lòng cô nặng trĩu, lập tức lên đường; sau khi điều tra xác thực tại chỗ, cô càng trở nên bồn chồn. Xem xét tình hình tìm hiểu được, nông dân ở đấy không có bàn tán gì về phương án tổng thể cải cách thuế phí của Trung ương, cũng không có ý kiến gì đối với thuế suất nông nghiệp và tỉ suất thu thêm thuế nông nghiệp của chính quyền tỉnh xác định, chỉ có rất bất mãn đối với “sản lượng thường niên tính thuế” do xã Long Đường “xác định” sản lượng mỗi mẫu cao đến 1.043 kg, cho rằng đó là thay đổi cách thức tăng thêm đóng góp của nông dân. Bởi vì con số sản lượng mỗi mẫu “xác định” càng cao thì tiền thuế nông dân phải nộp theo thuế suất qui định càng nhiều, đã nhiều đến mức họ không thể nào chịu đựng nổi.
Anh nông dân Đinh Hữu Phát lấy thẻ thu phí đã nộp trước đây và giấy báo nộp thuế năm nay đưa cho cô xem, nhà Đinh Hữu Phát có hai nhân khẩu trồng không đầy hai mẫu ruộng, trước đây nộp 161,48 NDT, năm nay cải cách thuế phí lại phải nộp 221,59 NDT, cải cách thuế phí lẽ ra phải giảm nhẹ đóng góp của nông dân, bây giờ lại càng cải càng nặng.
Anh nông dân Dương Thượng Lộc tính sổ thu chi rõ ràng chi tiết một năm làm ruộng của gia đình anh cho Sử Thủ Cầm nghe. Anh nói, nhà anh có 4 người, trồng ba mẫu ba sào ruộng, mua lúa giống hết 87,5 NDT, thuốc trừ sâu 20 NDT, phân hóa học 190 NDT, chi tiền nước cho trạm bơm điện 140 NDT, trước sau hai lần sử dụng trâu cày của người khác hết 500 NDT, tuốt lúa 80 NDT, như vậy cộng lại là 997,5 NDT, gần 1.000 NDT. Sản lượng thường niên mỗi mẫu ruộng ở đây chỉ được 500 đến 600 kg một vụ thu được 1.815 kg, theo giá thu mua của trạm lương thực năm nay mỗi kg là 0,82 NDT, được 1.669,8 NDT; một vụ rau cải dầu thu được 200 kg, có thể được khoảng 400 NDT, hai thứ cộng lại, trừ thêm 356,25 NDT thuế nông nghiệp, phí nước và trả lãi vay vốn nước ngoài cho công trình Tụy Hà Hàng Châu, rõ rành rành, chỉ còn lại 716,5 NDT!
Tính đến đây, Dương Thượng Lộc cười chua chát nói: “Như thế vẫn chưa tính hết. Mấy ngày trước đây, kế toán thôn lại đến đòi tiền, nói phí nạo vét kênh mương còn 122 NDT, xây trạm bơm điện, xây ở đâu không cần biết phải nộp 68,85 NDT; phí tiêu úng 36,9 NDT, lại thêm phí sửa chữa hồ Sào 22,95 NDT, phí làm đường thôn xã 50,4 NDT, tổng cộng 301,18 NDT. Nhưng tiền này tôi không nộp. Tôi muốn kế toán thôn viết một tờ nộp phí, tôi rắp tâm đi kiện vụ này”.
Sử Thủ Cầm nhìn thấy tận mắt tờ nộp phí đó, cô cũng tính sổ thay cho Dương Thượng Lộc: năm đó nhà Dương Thượng Lộc có 4 người, bận từ sáng đến tối, không tính sức lao động của cả nhà, sau khi trừ đi các loại thuế phí chỉ cầm được 414,87 NDT! Chia cho cả nhà, một ngày không đến 1,2 NDT; dù cho cứ tính là 1,2 NDT, lại chia đều cho 4 người, mỗi người mỗi ngày chỉ có 3 hào! Ngày nay một bao diêm bình thường đều từ 2 xu tăng lên một hào, vậy 3 hào làm được cái gì?
Dương Thượng Lộc cực chẳng đã nói với Sử Thủ Cầm: “Đóng góp nặng nề thế này, bảo nông dân chúng tôi sống thế nào? Nông dân trong thôn chúng tôi đều bàn bạc xong rồi, không hạ “ Sản lượng thường niên tính thuế”, cán bộ trong thôn còn tiếp tục quay lưng với cấp trên, đòi tiền bừa bãi, thì chúng tôi chỉ có trả hết ruộng, đi ra ngoài kiếm sống ”.
Sử Thủ Cầm nghe nói giật mình.
Cô cũng buồn phiền: “ Sản lượng thường niên” của một mẫu ruộng có thể đạt được một tấn không? Cô đi tìm Vương Văn Trung, Bí thư đảng ủy xã Long Đường, Vương Văn Trung cũng thừa nhận không thể đạt được, “Thế thì, khi xác định “Sản lượng thường niên tính thuế”, vì sao các anh lại làm như thế?”, cô hỏi. Không ngờ, Vương Văn Trung cũng bụng đầy đau khổ: “Không ai muốn định cao như vậy, nhưng nếu không như thế thì chính quyền hai cấp xã thôn không làm việc được”.
Ông cũng tính sổ với phóng viên: theo sản lượng thường niên thực tế, tính thuế theo qui định của cải cách thuế phí, thu nhập tài chính cấp xã năm nay phải giảm bớt hơn 10 vạn NDT so với năm trước; thu nhập của mười thôn trong toàn xã giảm bớt 478.000 NDT so với trước, như vậy tiền lương của cán bộ hai cấp, chi phí làm việc, xây dựng thủy lợi, làm đường, trồng cây xanh, tiền đặt báo tạp chí v.v … và v.v…, tất cả đều có khó khăn.
Ông nói, nông dân có cái khó của nông dân, hai cấp xã thôn cũng có cái khó của mình. Chúng tôi cho rằng, phương án cải cách thuế phí ban hành cần sửa lại và bổ sung, phương án đặt ra quá cứng nhắc, về cơ bản không chiếu cố đến quan hệ giữa giảm đóng góp và cân đối, bên dưới không có chút tính linh hoạt về mặt thao tác.
Xã trưởng Lý Trạch Phần cũng không thông: “Cá nhân tôi cho rằng, khi đặt ra chính sách, cấp trên nên thực hành khống chế tổng số lượng đối với diện giảm đóng góp, yêu cầu mỗi hộ nông dân đều đạt được mục đích giảm đóng góp, điều đó nói về mặt lý thuyết thì có thể được, còn thao tác thực tế thì không thể làm được”.
Sử Thủ Cầm phỏng vấn trở về, nấn ná mãi vẫn chưa cầm bút, cô cảm thấy tính chính sách của việc cải cách thuế phí nông thôn rất mạnh, hơn nữa lại ở giai đoạn thí nghiệm, dứt khoát có nhiều chỗ không như ý muốn. Cán bộ hai cấp xã thôn gặp phải những khó khăn đó cũng là thực tế rành rành, cần nghiêm chỉnh thảo luận và giải quyết, tất nhiên đóng góp của nông dân sau cải cách không những không giảm, ngược lại nặng thêm, chắc chắn đó cũng không phải là điều cải cách thuế phí mong muốn nhìn thấy, những lời Dương Thượng Lộc cực chẳng đã nói ra càng cần phải làm cho lãnh đạo cấp trên suy nghĩ sâu sắc.
Vì vậy, cô cho rằng, đóng góp của nông dân mà thôn Tam Thanh xã Long Đường huyện Phì Đông phản ánh không chỉ là một vấn đề cần “đưa ra ánh sáng”, nếu viết một bài tham khảo nội bộ có lẽ sẽ thích hợp hơn.
Vì thế, ngày 11 tháng 12 năm 2000, dưới đầu đề “Sản lượng thường niên tính thuế” cớ sao phóng “vệ tinh””, Sử Thủ Cầm lấy nội dung bức thư của toàn thể nông dân thôn Tam Thanh gửi tòa báo và “ghi chép điều tra” của cô làm số báo “Tham khảo nội bộ Tân An”, trực tiếp báo cáo Thường vụ Tỉnh ủy, Chánh phó chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, Chánh phó tỉnh trưởng, Chánh phó Chủ tịch Chính hiệp tỉnh An Huy, đồng thời sao gửi Bí thư thị ủy, thị trưởng Hợp Phì và Văn phòng cải cách thuế tỉnh, thành phố.
Dụng ý lần này của “Sử đại hiệp” làm cho “Sản lượng thường niên tính thuế” từ mỗi mẫu 1.043 kg thực sự cầu thị giảm xuống còn 790 kg, sau khi tờ tham khảo nội bộ ra mắt, Phó tỉnh trưởng thường trực Trương Bình còn dẫn đầu triệu tập một cuộc hội nghị chuyên đề, hội nghị căn cứ vào tình hình thực tế của tỉnh An Huy đối với công tác trưng thu thuế nông nghiệp toàn tỉnh, xác định ra một “mức tối đa”, sét đánh cũng không lay: “Sản lượng thường niên tính thuế” không được quá 800 kg. Có “đường cao áp” này, hiện tượng tương tự như xã Long Đường biến báo để tăng thêm đóng góp của nông dân trong toàn tỉnh An Huy được loại trừ triệt để.
Một cuộc “dư luận giám sát” của báo buổi chiều không những làm cho Tỉnh ủy, chính quyền tỉnh hết sức coi trọng tình hình mới và vấn đề mới mà tổ chức cấp xã, trấn và thôn gặp phải, đẩy nhanh hơn nữa công tác thí điểm cải cách đồng bộ, mà còn trên vấn đề “Sản lượng thường niên tính thuế” làm cho lợi ích thiết thân của 40 triệu nông dân trong toàn tỉnh được bảo đảm căn bản. Tin này bay về thôn Tam Thanh xã Long Đường, mọi người trong toàn thôn đều cảm thấy hết sức phấn khởi vui mừng. Sau đó, Dương Thượng Lộc được mọi người ủy nhiệm, chuẩn bị mua mấy hộp “pháo nghìn quả”, đến cổng tòa báo buổi chiều đốt một trận cho khoái chí thỏa lòng, để bày tỏ tình cảm vui sướng cảm kích của họ, nhưng “Đại hiệp” không cho, nói là dù cho cám ơn cũng phải cám ơn chính sách tốt của đảng, lại nghe nói thành phố Hợp Phì đã sớm cấm đốt pháo, không được đốt bừa, nên mới thôi việc này.
49. Nước mắt mừng vui của người Nam Cực
Trong khi công tác thí điểm cải cách thuế phí ngày càng đi vào lòng người, các nơi cũng không ngừng xì ra những câu chuyện phục hồi, ở thành phố Ninh Quốc bên phía Phú Giáp Giang Nam lại lan truyền một tin chấn động một thời: 38 hộ nông dân trồng cây hồ đào ở xã Nam Cực kiện chính quyền xã ra tòa.
Tiếp theo có tin chi tiết hơn, nói đi kiện chính quyền xã không chỉ có 38 hộ, nói chính xác phải là 318 hộ; nói bị cáo không chỉ là chính quyền xã, mà còn có Cục Tài chính và Cục Lâm nghiệp thành phố Ninh Quốc; còn nói nông dân sợ Tòa án ở tại Ninh Quốc xét xử không công minh, nên trực tiếp kiện lên Tòa án nhân dân trung cấp địa khu Tuyên Thành. Tòa án địa khu xét thấy, trong khi toàn tỉnh thực thi thí điểm cải cách thuế phí nông thôn, nông dân xã Nam Cực khởi tố hành vi vi phạm luật pháp của chính quyền xã cưỡng bức trưng thu thuế phí, ở địa khu này cho đến các nơi trong toàn tỉnh, đây là vụ đầu tiên và số người nguyên đơn rất đông, ảnh hưởng khá lớn, theo qui định thì phải thụ lý, có điều họ thấy nông dân nhiều như thế này từ xã Nam Cực Ninh Quốc chạy lên Tuyên Thành đi kiện, tốn kém rất lớn, chỉ tố tụng một việc, hoàn toàn không cần nhiều người như thế cũng ra tòa, cử ra một số người đại biểu là được, điều đó cũng xuất phát từ giảm nhẹ đóng góp của nông dân, vì thế mới có 38 hộ hiện diện.
Tòa án nhân dân, bảo đảm cải cách thuế phí nông thôn theo luật pháp, bản thân sự việc này là tin tức tốt nhất!
Tình hình vụ án đặc thù, nhưng bản thân vụ án thì không phức tạp. Trước đây, trung tuần tháng 11 năm 1998, để làm tốt công tác thí điểm trưng thu thuế đặc sản nông nghiệp, chính quyền thành phố Ninh Quốc từng tổ chức một tổ công tác xuống xã Nam Cực chuyên trồng hồ đào, tiến hành một cuộc điều tra toàn diện đối với nguồn thuế hồ đào toàn xã. Nhưng điều tra là điều tra, con số kế hoạch trưng thu thuế đặc sản nông nghiệp vẫn tới tấp đưa xuống, thành phố Ninh Quốc vẫn phải giao nhiệm vụ thu thuế như mọi năm, nhiệm vụ này rõ ràng là chênh lệch rất lớn với kết luận của điều tra. Nghĩa là, nếu trưng thu theo tình hình điều tra lần trước, xã Nam Cực căn bản không hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Cho nên chính quyền xã không thể không theo biện pháp cũ trước đây, lấy thuế định sản lượng, lấy chỉ tiêu sau khi phân giải làm nhiệm vụ giao cho các thôn, rồi do các thôn bốc thuốc theo đơn, phân bổ cho từng hộ.
Hàng năm, chính quyền xã Nam Cực đều làm như vậy, và không cảm thấy có gì không thỏa đáng; nông dân trồng hồ đào trước đây cũng đều nộp như thế, tuy có bất mãn, nhưng cánh tay không vặn nổi bắp đùi, đành phải chấp nhận thế. Bây giờ chính sách cải cách thuế phí nông thôn đã tiếp xúc trực tiếp với nông dân, tình hình có những cái đã khác.
Thu thuế không theo sản lượng thực tế, trước hết là đi ngược lại chính sách cải cách thuế phí, huống hồ phát hiện trên giấy báo thu thuế đặc sản nông nghiệp hồ đào còn ghi chú có “Quĩ trồng rừng”, như vậy thuế phí thu lẫn lộn, “ngồi xe thu phí”; hơn nữa, thậm chí có lúc thu thuế nông nghiệp và thuế đặc sản nông nghiệp trùng lắp, rõ ràng là làm càn.
Nông dân tức quá, đùng đùng nổi giận chửi thề: “Chính sách tốt của đảng bị những hòa thượng méo mồm này đọc sai hết rồi!”
Trên tờ “Giấy báo xác định sản lượng tính thuế đặc sản nông nghiệp” của chính quyền xã phát xuống có ghi rất rõ ràng, nếu nông hộ có ý kiến gì khác đối với con số xác định, thì trong vòng 30 ngày có thể làm đơn lên cơ quan thu thuế yêu cầu kiểm tra lại, cơ quan thu thuế sẽ kiểm tra lại theo trình tự qui định, và lấy kết quả kiểm tra lại làm căn cứ trưng thu theo thực tế. Bây giờ, nông dân xã Nam Cực vẫn thực sự lên tiếng yêu cầu chính quyền xã làm lại theo trình tự qui định”.
Người đập bàn đứng dậy đầu tiên là Ngô Thâm Điền, nông dân trẻ 36 tuổi ở tổ dân cư Hạ Hồng thôn Nam Cực.
Trước tiên, anh viết đơn yêu cầu điều tra lại, sau đó hai mươi nông dân theo anh lần lượt ký tên vào lá đơn. Nhưng khi họ đưa lá đơn này cho cán bộ xã Trình Quế Bình và Đường Thừa Quyền, hai người này không nhận. Hành động đó chọc tức tất cả hộ dân cư Hạ Hồng, họ bèn đem giấy báo xác định sản lượng gửi cho từng hộ gia đình trả lại tất tật cho chính quyền xã.
Tiếp theo tất cả nông hộ của thôn Liên Hợp cũng trả lại giấy báo xác định sản lượng.
Tình hình mở rộng ra rất nhanh. Hai mươi sáu dân cư trong tổ Lật Ổ thôn Quan Lĩnh cũng trình lên chính quyền xã “Đơn xin yêu cầu thực sự cầu thị thu thuế đặc sản nông nghiệp”, chẳng bao lâu sau, Quan Lĩnh lại có thêm 70 dân cư viết đơn yêu cầu lần nữa. Lúc này lòng người nông dân xã Nam Cực sục sôi, liên tiếp cực lực yêu cầu điều tra sản lượng hồ đào. Thôn Nam Cực có Trương Khai Quốc, Trương Khai Điền, Chương Hải Minh, Lý Thọ Hải, Hồ Định Viễn, Soái Bội Tổ; thôn Đại Nguyên có Phương Cao Chiếu, Phương Thi Quân, Phương Quan Thí, Phương Ứng Xa, Phương Hồng Xa, Phương Lương Hào, Vương Ngọc Bảo, Phương Cao Phong… hết người này đến người khác đứng lên tới tấp yêu cầu chính quyền xã xác định lại sản lượng hồ đào để giảm nhẹ đóng góp quá nặng của nông dân do cưỡng bức đưa ra chỉ tiêu gây nên.
Tổ dân cư ba thôn Thanh Phong, Dương Gia và Ổ Lý đều đưa đơn tập thể; còn thôn Mai xuất diện với danh nghĩa chi bộ thôn và tổ chức đoàn thể thôn đi gặp lãnh đạo đảng ủy chính quyền xã, hi vọng họ thu lại mệnh lệnh đã ban ra, điều chỉnh lại chút ít.
Nhưng, tất cả những lá đơn yêu cầu đều một đi không trở lại, chính quyền xã không định xác định lại sản lượng thực tế hồ đào toàn xã, càng không muốn giải thích bất cứ điều gì, điều đó làm cho quan hệ giữa cán bộ và quần chúng đã gay gắt, nhanh chóng xấu thêm.
Song, chính quyền xã Nam Cực không sợ quan hệ giữa cán bộ và quần chúng xấu đi. Khi hồ đào của nhiều hộ nông dân vừa bắt đầu thu hoạch, chưa bán ra thì xã bắt đầu hành động. Mặc dù Trung ương nhiều lần nhấn mạnh, nghiêm cấm dùng công cụ và thủ đoạn chuyên chính để thu lấy tiền của của nông dân, nhưng họ vẫn tổ chức tổ công tác trưng thu có cơ quan tư pháp tham gia cưỡng bức trưng thu. Họ còn định ra thời hạn, quá thời hạn một ngày, giá cả tính thuế nộp hồ đào phải từ 16 NDT một kg tăng lên 26 NDT; trong thời gian trưng thu, hộ nào nộp tiền mặt không kịp thời đủ số hoặc tỏ ra bất mãn đối với sản lượng và giá cả tính thuế, thì bị đập cửa xông vào nhà xúc lương thực thay cho thuế, hoặc lấy đồ đạc thay cho thuế, hơi trái ý sẽ bị bắt người tại chỗ.
Thôn Đại Nguyên có Phương Quan Thí, Phương Ứng Xa, Phương Cao Phong…, thôn Nam Cực có Ngô Thâm Điền, Ngô Vân Lăng…, thôn Quan Lĩnh có Chương Hồng Trường… những nông dân này cũng không ngoại lệ đều bị cưỡng bức lấy hồ đào thay cho thu thuế.
Hoàng Xuân Phát ở thôn Quan Lĩnh bị cưỡng bức lấy lúa thay cho thuế.
Chương Hải Minh ở thôn Nam Cực bị giữ tủ lạnh, sau đó dùng hồ đào để đổi lại; tài sản của Sài Trung Phúc thôn Quan Lĩnh cũng bị thu giữ, mãi đến sau này bị khởi tố vụ ra tòa, cũng không trả lại tài sản bị thu giữ.
Trương Khai Quốc, Trương Khai Điền, Ngô Thanh Tường v.v… thôn Nam Cực, Phương Cao Chiếu và Phương Thi Quân thôn Đại Nguyên vì để quá thời hạn của chính quyền xã qui định, nên bị nộp tiền thuế theo giá tính thuế thu thêm 10 NDT một kg.
Trần Chiếm Quân ở thôn Hồng Du còn bị phạt tiền gấp 5 lần.
Ngô Chí Chu, Chu Ái Phương thôn Nam Cực, Ngô Hồng Hà thôn Giang, ba người này còn thê thảm hơn, vì cái gọi là thái độ bất hảo, bị tổ công tác thu thuế trói đưa về xã, hạn chế tự do thân thể và chất vấn ghi biên bản.
Hồ Quang Diệu thôn Nam Cực không những bị đánh đập ở xã, mà còn bị cơ quan công an lấy cớ “khiêu khích gây sự”, giam giữ bảy ngày.
Đối với cách làm lạm dụng quyền lực hành chính vi phạm pháp luật kỷ cương của chính quyền xã Nam Cực, nhiều người trong thôn muốn lên tỉnh hoặc địa khu phản ánh khiếu nại, yêu cầu cơ quan lãnh đạo cấp trên ra mặt can thiệp, cũng muốn đến báo chí địa khu hoặc trên tỉnh, thậm chí muốn liên hệ với chương trình “gặp gỡ trao đổi vấn đề thí điểm” của Đài truyền hình Trung ương, yêu cầu phóng viên báo chí đưa ra ánh sáng. Nhưng cũng có không ít người bình tĩnh phân tích nghiêm túc, cảm thấy thí điểm cải cách thuế phí nông thôn lần này là do Trung ương đích thân bố trí, đã có Trung ương đảng nâng đỡ nông dân, nhà nước lại đặt ra nhiều qui định hữu quan, dân đi kiện quan đã có cơ sở pháp lý, chẳng lẽ các bô lão của xã Nam Cực cũng không bằng “Thu Cúc” hay sao? Học Thu Cúc đi kiện lại có gì mà ngại! Chẳng phải đã nói “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” đó sao? “chúng ta cũng thử xem lời nói đó có thật đúng không?”.
Người đứng lên đầu tiên là Ngô Vân Lăng, anh chàng tía tai đỏ mặt 46 tuổi ở tổ dân cư