QUYỂN HAI Chương một
Một ngày cuối thu, hoàng hôn cuối thu. Mặt trời lặn trong hoàng hôn, trên bình nguyên đất Dự Đông [2] , vì là hoàng hôn, nó tròn như máu, màu đỏ tràn khắp đất khắp trời. Đỏ lênh láng, nên có hoàng hôn của mùa thu. Cuối thu rồi, khí lạnh cũng dày hơn. Vì cái lạnh này, khắp đầu thôn cuối xóm, không một bóng người qua lại.
Chó đã về ổ.
Gà đã lên chuồng.
Trâu trong chuồng cũng sớm đi nằm tìm hơi ấm.
Cái tĩnh trong thôn, cái tĩnh dày đặc, không một tiếng động. Đinh Trang đang sống, mà giống như đã chết. Bởi cái tĩnh tuyệt đối, bởi đã rất thu, bởi vì hoàng hôn, thôn xóm đã tàn, người cũng đã tàn. Cứ héo tàn như thế, cuộc sống theo đó cũng khô khan, như xác chết vùi trong lòng đất.
Cuộc sống như xác chết.
Cỏ trên bình nguyên, đã xác xơ rồi.
Cây trên bình nguyên, đã héo khô rồi.
Đất cát và hoa màu trên bình nguyên, sau hồi đỏ máu, chúng cũng héo rồi.
Người Đinh Trang, họ cũng co mình trong nhà, không ra khỏi cửa.
Khi ông nội Đinh Thủy Dương từ thành phố trở về, hoàng hôn đã phủ trên bình nguyên. Chiếc xe khách đường dài chở ông từ huyện Vy chạy về, rồi lại chạy đến Đông Kinh xa tít tắp, để ông lại bên đường, như mùa thu đánh rơi chiếc lá bên đường. Con đường thông với Đinh Trang, khi mười năm trước nhà nhà người người Đinh Trang đều bán máu, đã được làm thành con đường xi măng. Ông đứng bên đường, nhìn Đinh Trang trước mắt, gió vừa thổi, đầu óc lơ mơ suốt cả chặng đường cuối cùng cũng trở nên tỉnh táo. Rốt cuộc đã lần ra đầu mối của một mớ lộn xộn suốt chặng đường. Hiểu ra rồi, ông sáng sớm đã rời khỏi thôn, bắt xe vào thành phố nghe bên trên nói cả ngày những việc mơ hồ, trên đường về Đinh Trang, đã có chút rõ ra như mặt trời mọc trong ngày nắng.
Hiểu ra có mây thì có mưa.
Hiểu ra cuối thu thì sẽ lạnh.
Hiểu ra người bán máu mười năm trước, hôm nay tất sẽ mắc bệnh nhiệt. Mắc bệnh nhiệt rồi thì sẽ chết như lá rụng.
Bệnh nhiệt ẩn trong máu. Ông nội ẩn trong mộng.
Bệnh nhiệt yêu máu huyết, ông nội yêu giấc mộng. Ông thích nằm mộng, người chung quanh cũng thích nằm mộng. Dường như, ai cũng thích mộng. Rải những giấc mộng lên thế giới này, chắc chắn còn nhiều hơn lá rụng.
Ông nội mỗi ngày đều nằm mộng. Ba ngày nay, mỗi ngày ông đều mơ một giấc mơ giống nhau, mơ thấy thị trấn trong huyện Vy và trong thành phố Đông Kinh mà trước đây ông từng đến, cống ngầm dưới đất giống hệt như mạng nhện, mỗi đường ống đều đang chảy máu. Những mối ghép của các đường ống chưa được nối, những đoạn ống uốn cong, máu và nước phun ra, bắn lên trong không trung, như những hạt mưa màu đỏ sẫm đang rơi xuống, hơi máu tanh thẫm đỏ xộc vào trong mũi. Còn trên bình nguyên, ông nhìn thấy nước trong giếng, trong sông đều trở thành máu đỏ lòm, tanh nồng nặc, ông mơ thấy tất cả các bác sĩ trong bệnh viện, đang bật to tiếng khóc bi thương vì bệnh nhiệt, nhưng mỗi ngày đều có một ông bác sĩ ngồi cười trên đường Đinh Trang. Mặt trời vàng óng, trong Đinh Trang tĩnh lặng, người Đinh Trang đóng chặt cửa chặt cổng, nhưng ông bác sĩ trung niên đó, mặc chiếc áo dài trắng tuyết, đặt hòm thuốc của ông bên chân, sau đó, sau đó ông ngồi cười dưới gốc cây hòe già trên đường thôn. Ngồi cười trên hòn đá dưới gốc hòe già. Cười ha hả. Cười tiếng lớn. Tiếng cười đó xán lạn ánh vàng, lanh lảnh đanh vang, chấn động đến mức lá vàng trong thôn ào ào rơi xuống, như gió thu thổi không ngừng nghỉ trong thôn.
Mơ xong, bên trên liền triệu ông lên huyện họp. Đinh Trang không có Trưởng thôn, liền để ông đi họp thay. Lần họp này, vừa trở về, ông đã hiểu ra một chuỗi các sự việc liên quan.
Hiểu ra một là bệnh nhiệt kì thực không gọi là bệnh nhiệt, tên khoa học của nó là bệnh AIDS; hai là chỉ cần ai năm đó từng bán máu, thời gian đó từng bị sốt trong vòng mươi ngày nửa tháng, hôm nay ắt sẽ mắc AIDS; ba là bị bệnh AIDS rồi, triệu chứng ban đầu giống như tám năm, mười năm trước, nóng như bị cảm, uống chút thuốc hạ sốt, sốt hạ rồi, người sẽ như được phục hồi, nhưng sau nửa năm, có thể là dăm ba tháng, bệnh lại phát tác, toàn thân mất hết sức lực, trên người lở loét, cuống lưỡi thối rữa, người khô như không có nước, cố chịu đựng thì được ba tháng đến nửa năm, cũng có thể bạn chịu được hơn tám tháng, nhưng bạn rất khó chống chọi được cả năm. Sau đó, sau đó bạn sẽ chết.
Lá rụng người chết.
Đèn tắt mạng vong.
Việc thứ tư mà ông nội hiểu ra, là trong khoảng chưa đầy hai năm này, mỗi tháng Đinh Trang đều có người chết. Hầu như nhà nào cũng có người chết. Có dạo chết liền ba mươi mấy người, mộ ở đầu thôn như nấm mọc sau mưa, có người tưởng là bị viêm gan, có người tưởng là viêm phổi, có người gan, phổi đều tốt cả, chỉ là không ăn được cơm. Nửa tháng sau, người đói như cọng cỏ, thỉnh thoảng nhổ một bụm máu, hoặc nôn ra nửa chậu máu, rồi qua đời. Lá rụng người chết, đèn tắt mạng vong. Lúc đó, ai cũng nói anh này hay cô kia bị bệnh dạ dày, bệnh gan, bệnh phổi, kì thực, đó đều là bệnh nhiệt. Đều là bệnh AIDS. Điều thứ năm hiểu ra, là bệnh nhiệt vốn dĩ chỉ có ở nước ngoài, chỉ có trong thành phố, là bệnh mà chỉ những kẻ tâm tính và hành vi bất chính mới mắc, bây giờ Trung Quốc cũng có, nông thôn cũng có, kẻ mắc bệnh đều là người tử tế. Hơn nữa bị là bị cả đám, như châu chấu bay qua ruộng hoa màu, hễ bay là bay cả đám. Sáu là mắc bệnh này tất phải chết, là bệnh nan y mới trên thế giới, tốn bao nhiêu tiền cũng không chữa khỏi. Bảy là bệnh này kì thực cũng mới bắt đầu, đại dịch phải năm sau, năm sau nữa mới đến. Lúc đó, người chết sẽ như con châu chấu, con thiêu thân, con kiến. Bây giờ mỗi người chết còn như chó chết. Chó trên thế gian này quý hơn thiêu thân, châu chấu rất nhiều. Tám chính là tôi, chôn dưới chân tường sau phòng ông nội, vừa qua mười hai tuổi, mới đi học được năm năm, thì đã chết rồi. Vừa ăn quả cà chua vào thì chết. Ăn quả cà chua nhặt ở đầu thôn xong thì chết. Chết vì trúng độc. Nửa năm trước con gà nhà tôi bị người ta hạ độc chết. Một tháng sau, con lợn mà mẹ tôi nuôi ăn phải mẩu củ cải ai đó vứt trên đường thôn cũng chết luôn. Mấy tháng sau, tôi ăn quả cà chua của người ta ở đầu thôn cũng chết. Quả cà chua đó là cà chua độc, ai đó đã đặt lên hòn đá bên đường tôi tan học, vừa ăn vào, ruột trong bụng như bị ai cầm kéo cắt, chẳng cất nổi mấy bước đã ngã xuống đường thôn, chờ bố tôi chạy đến ôm tôi về nhà, đặt lên giường thì tôi đã sùi bọt mép mà chết luôn.
Tôi chết rồi, nhưng tôi chết không phải vì bệnh nhiệt hay còn gọi là bệnh AIDS. Tôi chết vì cuộc lấy máu lớn của bố tôi ở Đinh Trang mười năm trước. Mua máu và bán máu. Chết vì ông là đầu nậu máu lớn nhất trong vùng, từ thôn Đinh Trang, thôn Liễu, Hoàng Thủy, thôn Lý Nhị, cả thảy mười thôn tám xã. Là tổng tư lệnh của rất nhiều đầu nậu máu. Ngày tôi chết, bố tôi không khóc, ông ngồi hút một điếu thuốc bên người tôi, rồi cùng với chú hai tôi, một người cầm một chiếc xẻng sắc bén, còn người kia, cầm con dao phay sáng loáng. Hai người đứng ở ngã tư chính giữa Đinh Trang, xé cổ ra gào, xé cổ ra chửi.
Chú tôi gào: “Có gan thì ra đây, mẹ kiếp đừng có lén lút hạ độc, ra đây xem Đinh Lượng này một dao bổ chết mày.”
Bố tôi chống cây xẻng sắt sắc lẻm mắng: “Ghen tức vì thấy Đinh Huy này có tiền không có bệnh đúng không? Đố kị phải không? Đinh Huy tao chửi tổ tiên tám đời nhà mày, chúng mày đầu độc gà nhà tao, đầu độc lợn nhà tao, còn dám đầu độc con tao!”
Hét liên hồi, chửi liên hồi, chửi từ giữa trưa đến tối, cũng không thấy có ai đi ra tiếp lời bố tôi. Tiếp lời chú tôi.
Cuối cùng, liền chôn tôi.
Vì tôi mới mười hai tuổi, vẫn chưa phải người trưởng thành, theo tục lệ, không được chôn trong phần mộ tổ tiên. Ông nội liền ôm tấm thân nhỏ bé của tôi, chôn tôi ở phía sau căn phòng ông sống trong trường tiểu học Đinh Trang, trong cỗ quan tài gỗ trắng nhỏ hẹp, đặt vào trong đó sách đi học, bút viết bài tập của tôi.
Ông nội từng đi học, quản việc đánh chuông trong trường, khắp người toát lên khí chất văn chương, người trong thôn đều gọi ông là thầy giáo Đinh, ông còn đặt sách truyện vào trong quan tài cho tôi. Tuyển tập truyện. Còn có mấy quyển thần thoại và truyền thuyết. Có cả từ điển và tự điển.
Sau đó thì sao, sau đó ông tôi không có việc gì nữa, liền đứng trước mộ tôi nghĩ ngợi, người trong thôn còn hạ độc người nhà họ Đinh nữa hay không? Có tiếp tục hạ độc cháu gái ông, em gái Anh Tử của tôi không? Có hạ độc cháu trai còn lại của ông, Đinh Quân, con trai của chú tôi không? Ông liền nghĩ để cho bố tôi, chú tôi đến từng nhà trong thôn dập đầu, cầu xin mọi người đừng tiếp tục hạ độc nhà họ Đinh nữa. Trong thời gian ông nội nghĩ ngợi, chú hai cũng mắc bệnh nhiệt, ông biết bệnh nhiệt mà chú mắc phải thực ra là báo ứng, mắc vì thay bố tôi mua máu, bán máu, liền không nghĩ việc chú tôi đến các nhà Đinh Trang dập đầu nữa, chỉ nghĩ việc để bố tôi đến dập đầu trước mỗi nhà mỗi hộ ở Đinh Trang.
Còn có chín. Chín là ông nội hiểu ra rằng sau một năm hai năm nữa, bệnh nhiệt sẽ bùng nổ ở Đinh Trang, bùng nổ như hồng thủy ở Đinh Trang, thôn Liễu, thôn Hoàng Thủy, thôn Lý Nhị, và trăm làng nghìn thôn khác, quét qua trăm làng nghìn thôn như Hoàng Hà đê vỡ, lúc đó, người chết cũng như kiến chết, một người chết cũng như một chiếc lá rơi. Lá rụng người chết, đèn tắt mạng vong. Lúc đó, người Đinh Trang gần như chết sạch. Đinh Trang sắp biến mất trên thế giới này. Người Đinh Trang như lá trên một cái cây già, trước úa sau vàng, cuối cùng tất cả xào xào xạc xạc rơi xuống, sau một trận gió, lá cây cũng như Đinh Trang không biết đi đâu rồi.
Đinh Trang cũng như lá cây không biết đi đâu rồi.
Tiếp nữa là mười. Mười là bên trên yêu cầu phải tập trung những người bệnh trong thôn ngay lập tức, sợ bệnh nhiệt truyền đến những người chưa bán máu. Hiểu ra mười việc này, ông liền nghĩ đến cái chết của tôi, khi bố là đầu nậu máu lớn nhất trên bình nguyên, ông không chỉ muốn bố tôi dập đầu hết nhà này đến nhà khác trong thôn, còn muốn để bố tôi dập đầu xong thì chết luôn đi, nhảy xuống giếng, uống thuốc độc, treo cổ đều được. Chết ngay lập tức. Chỉ cần chết trước mắt mọi người là được.
Chỉ cần nghĩ tới việc bảo bố tôi sau khi dập đầu trước mặt tất cả mọi người dân trong thôn rồi chết, ông có chút bàng hoàng. Sững ra một chút, ông liền đi vào trong thôn.
Đi vào nhà chúng tôi. Thật sự đi vào. Ông phải nói với bố tôi việc ông muốn bố chết.
⚝ 2 ⚝Đinh Trang xảy ra việc lớn động trời, một cái thôn nhỏ không đến tám trăm nhân khẩu, chưa được hai trăm hộ, trong thời gian không đầy hai năm, lại chết bốn mươi mấy người. Tính ra, trong thời gian qua, cứ cách dăm bữa nửa tháng, Đinh Trang lại chết một người, mỗi tháng chết chừng ba người. Hơn nữa, mùa người chết đó cũng chỉ mới đến, năm sau, người chết sẽ nhiều như lương thực vụ mùa, nhiều như lá rụng mùa thu. Những người chết, lớn thì năm mươi mấy, nhỏ thì ba tuổi hoặc năm tuổi. Quy luật là mỗi người trước khi phát bệnh, đều phải sốt mười ngày hoặc nửa tháng, cho nên bệnh đó được gọi là bệnh nhiệt. Bệnh nhiệt lan tràn, đã chẹt cứng yết hầu của Đinh Trang rồi, làm Đinh Trang người chết không ngừng, tiếng khóc không dứt.
Những người thợ mộc làm quan tài trong thôn, đều đã thay đến ba bộ cưa và rìu.
Cái chết, như màn đêm đen tối, úp chụp lấy Đinh Trang, và cũng úp chụp lấy những thôn làng gần đó. Mỗi ngày, tin tức truyền trên đường thôn toàn tin đen tối, không phải là ai đó nhà ai lại sốt, thì là ai đó nhà ai nửa đêm qua đã chết rồi. Ai đó nhà ai chồng chết, vợ đang chuẩn bị cải giá, phải cải giá đến nơi cực xa, xa hút sâu trong núi, cách xa cái nơi quỷ quái đang tràn lan bệnh nhiệt trên bình nguyên này.
Cuộc sống không thể chịu đựng được nữa. Cái chết, mỗi ngày đều lắc lư trước cửa từng nhà, như con muỗi bay qua bay lại, rẽ vào nhà ai, nhà đó liền nhiễm bệnh nhiệt, chỉ trong thời gian vài ba tháng, sẽ có người chết trên giường.
Người chết nhiều lên, có nhà khóc cả ngày hoặc nửa ngày, cuối cùng cũng cố gắng tốn một khoản tiền, dùng quan tài gỗ đen chôn người chết. Có nhà có thể không khóc, chỉ vây quanh tử thi ngồi yên lặng hồi lâu, than thở một chút, rồi đem chôn.
Trong thôn, cây bào đồng có thể dùng làm quan tài, những cây dùng được đều đã chặt sạch rồi.
Ba người thợ mộc già, vì ngày ngày đều làm quan tài, có hai người mệt quá bị bệnh đau lưng.
Người họ Vương biết cắm hoa giấy làm vòng hoa, cắm nhiều quá, hết động dao lại động kéo, mới đầu thấy trên tay xuất hiện mấy chục cái bọng nước, sau đó bọng nước vỡ ra, khô lại, trên tay anh ta liền xuất hiện thêm mười mấy vết chai vì mài kéo.
Người sống đã trở nên uể oải. Cái chết trực sẵn ngoài cửa, nhà nào cũng lười trồng trọt, cũng không ra ngoài làm việc kiếm tiền, cứ ngồi ở nhà như vậy, ngày ngày đóng chặt cổng chặt cửa, sợ bệnh nhiệt từ ngoài cửa tràn vào. Thực ra, cũng là chờ bệnh nhiệt từ ngoài cửa tràn vào. Chờ từng ngày từng ngày, từng ngày từng ngày đợi. Có người nói, nhà ai có bệnh nhiệt, Chính phủ sẽ phái xe tải quân dụng cỡ lớn, đem người bệnh kéo đến sa mạc Cam Túc chôn sống, như chôn sống người mang bệnh dịch năm nào như đồn đại. Biết rõ tin đó là tin vịt, nhưng trong lòng vẫn cứ tin. Liền cứ đợi ở nhà như thế, đóng cổng đóng cửa đợi, cứ chờ cứ đợi bệnh nhiệt đến, và người theo đó cũng chết luôn.
Chết nhiều rồi, thôn xóm cũng chết theo.
Đất hoang rồi, không đi cuốc.
Ruộng khô rồi, không đi tưới.
Có nhà có người chết, cơm vẫn ăn từng bữa, nhưng không rửa bát rửa nồi. Từ bữa sáng đến bữa chiều, vẫn dùng bát nồi chưa rửa đó đi nấu cơm, còn dùng chiếc bát, đũa chưa rửa đó ăn cơm.
Lại có người, dăm bữa nửa tháng không thấy anh ta trên đường thôn, không cần phải hỏi anh ta đi đâu nữa, thầm nghĩ chắc chắn đã chết rồi.
Có lẽ anh ta đã chết.
Nhưng bỗng nhiên khi bạn đến giếng múc nước, gặp anh ta cũng đang múc nước ở giếng, cả hai sẽ giật nảy mình, cùng nhìn nhau một hồi lâu, một người nói: “Anh vẫn còn sống à?” Người kia nói: “Đau đầu mất mấy ngày, tưởng là bệnh nhiệt, hóa ra lại không phải.” Cùng vui mừng phấn khởi, một người gánh một gánh nước, một người gánh hai chiếc thùng không, vai chạm vai bước trên thềm giếng.
Đây chính là Đinh Trang.
Đây chính là cuộc sống và bệnh nhiệt mà Đinh Trang phải khổ sở chịu đựng, khổ sở đợi chờ.
Ông nội từ bên con đường cái trở về thôn, đến đầu thôn, có một người vợ bị bệnh nhiệt từ trong nhà đi ra. Chị ra cửa đi tìm con gà mái mơ nhà chị. Chị có bệnh, con gà mái mơ nhà chị thì không có bệnh. Bệnh nhiệt chỉ có ở người, không dính dáng gì đến gia súc, gia cầm. Năm đó khi khắp thiên hạ đều bán máu, chỉ có người bán máu, không có gia súc, gia cầm bán máu. Chị ra ngoài để tìm con gà mái mơ nhà chị. Con gà mái mơ mỗi ngày đều đẻ cho chị một quả trứng, chị đương nhiên không thể mất con gà mái mơ nhà chị, như những người mất vì bệnh nhiệt.
Chị ra cửa đi tìm con gà mái mơ nhà chị, nhìn thấy ông tôi đi trong hoàng hôn, chị liền nhớ ra bệnh nhiệt của chị. Bệnh nhiệt của chị đã đến giai đoạn cuối rồi, mụn trên mặt đã nốt này kề nốt khác, mọc như hạt đậu đã chín mõm. Cánh tay lộ ra ngoài áo, mụn ở mu bàn tay và cổ tay cũng như trên mặt, những cái mới mọc lên sau khi cái cũ rụng đi, đều hiện rõ màu đỏ tươi hệt như mặt trời lặn, cái này kề cái khác, cái nọ dồn cái kia, vì ngứa, vì lúc nào cũng gãi, chúng liền loét mủ ra, trên cánh tay còn đang dính nước trắng, thoang thoảng mùi thối chua pha chút mằn mặn.
Theo lệ thường, chị mắc bệnh nhiệt nửa năm rồi, những vết loét trên người không thể cứu vãn được nữa, lẽ ra đã chết từ lâu, nhưng chị vẫn còn sống.
Người bình thường, trên người có mụn, chỉ nổi lên lặn xuống ba lần là chết, nhưng chị đã nổi lên lặn xuống tới bốn phen mà vẫn sống.
Chị tên là Triệu Tú Cần. Chồng chị tên là Vương Bảo Sơn. Vương Bảo Sơn bán máu để cưới chị, chị theo Vương Bảo Sơn đi bán máu, nhưng Vương Bảo Sơn không bị nhiễm bệnh nhiệt còn chị lại bị. Ba tháng rưỡi trước, trong mấy ngày bị sốt, mỗi ngày chị đều ngồi bệt trong sân nhà, lấy gót chân giậm mạnh lên nền đất, vừa khóc vừa gào nói:
“Oan uổng cho tôi quá…”
“Oan uổng cho tôi quá…”
Vương Bảo Sơn ra kéo chị, chị lấy tay cào mặt Vương Bảo Sơn bật máu, chửi rằng: “Chính anh đã hại tôi… Đồ khốn kiếp! Chính anh đã hại tôi… Đồ khốn kiếp!”
Chị vừa khóc vừa gào trên mặt đất, giậm đến mức đất bay loạn cả lên. Nhưng vài ngày sau, chị không khóc nữa. Không gào nữa. Lại đi nấu cơm như cũ, cho gà ăn như cũ, và còn bưng cơm đến tận tay Vương Bảo Sơn như trước đây.
Chị ra ngoài đi tìm con gà hoa mơ của chị. Chị không tìm thấy gà nhưng lại tìm thấy ông nội tôi. Chị đi về phía ông, gọi ông từ rất xa.
“Thầy giáo Đinh, thầy đi họp ở trên về đúng không?”
Ông tôi nhìn chị: “Tú Cần à, là chị à?”
Chị liền nói: “Không phải tôi thì ai? Ông không nhận ra tôi nữa sao? Thầy giáo Đinh, ông đi họp ở trên à?”
Ông tôi nói: “À… chị gầy đến mức này rồi, bây giờ tôi mới nhìn ra chị.”
Hỏi: “Bên trên nói có chữa được bệnh này không?”
Ông tôi nói: “Có… người ta nói sắp có thuốc mới rồi. Hễ thuốc mới đến, tiêm một mũi là khỏi.”
Chị mừng ra mặt: “Thuốc mới khi nào mới đến?”
“Không lâu nữa đâu.”
“Không lâu là bao lâu?”
“Không lâu nữa nghĩa là chẳng mấy hôm nữa.”
“Rốt cục là mấy hôm?”
Ông tôi nói: “Mấy ngày nữa tôi lại đi lên trên hỏi.”
Nói xong, ông tôi liền đi. Ông men theo con ngõ đi về phía trước, trong khung cửa của các nhà các hộ hai bên ngõ, nhà nhà hộ hộ đều dán câu đối trắng, câu mới và câu cũ, trắng đến nhức mắt, bước vào đây, ông như xuyên qua một con ngõ trắng chất đầy tuyết. Đúng lúc ông từ con ngõ này rẽ sang con ngõ khác, Triệu Tú Cần lại gọi ông:
“Thầy giáo Đinh, tôi nhớ ra rồi, lần đầu tôi bán máu là con cả Đinh Huy nhà ông bảo tôi bán. Tất cả máu trên người tôi đều bán cho hắn, thuốc mới đến tôi tiêm bao nhiêu mũi, ông đều phải bảo hắn trả tiền cho tôi.”
Ông tôi không biết nên nói gì nữa.
Khi ông tôi không biết nên nói điều gì, vệt sáng cuối cùng của hoàng hôn đã nhạt dần, như một trang giấy vàng vọt. Đầu thôn, tĩnh đến mức có thể nghe thấy tiếng rên rỉ của người mắc bệnh nhiệt nhà ai xuyên tường vọng đến.
Chính trong cái tĩnh này, ông đi tìm bố tôi.
Ông đi men theo con ngõ, nhìn thấy trên cửa lớn của nhà người em cùng mẹ chưa quá năm đời của ông, do người con trai chưa đến ba mươi của nhà người em này chết vì bệnh nhiệt, hai câu đối trắng trên cửa lớn viết rằng “Người đi phòng vắng khóc ba thu; Đèn tắt chiều buồng đắm ánh tà.” Còn có nhà họ Lý, người con dâu mới cưới chưa lâu thì chết, bệnh nhiệt của cô ta là từ nhà mẹ đẻ mang tới, sau đó lây cho chồng, sinh con lại lây sang con, để bệnh nhiệt của cháu nội nhà họ có thể khá lên, câu đối trên cửa viết rằng “Trăng tàn sao lặn nhà tăm tối; Ước nguyện ngày mai nắng chiếu soi.” Còn nhà người tiếp theo, ông tôi không biết chắc là nhà họ Đinh hay họ Lý, thấy trên cửa ngoài hai câu đối màu trắng ra, trên giấy không có một chữ mực đen nào cả. Ông không hiểu dán câu đối trắng, nhưng lại không viết chữ có nghĩa gì, liền đi đến sờ sờ, mới phát hiện ra bên dưới câu đối đó còn có hai tầng câu đối trắng. Liền biết nhà họ ít nhất đã có ba người chết vì bệnh nhiệt, dán câu đối trắng đến phát ớn rồi, dán chán rồi, nên kiên quyết chỉ dán câu đối mà không viết chữ.
Ông liền đứng ngây trước cánh cửa đó.
Trời đã tối, đã không còn nhìn thấy bóng người, bóng cây nữa. Nhà hai bên ngõ đã có người bật đèn. Ánh đèn như nước chảy qua khe cửa. Ông tôi lại xuôi theo con ngõ trắng tuyết đi về phía trước, đi đến nhà chúng tôi. Ông muốn thật lòng thật dạ nói với bố tôi rằng:
“Mày quỳ xuống dập đầu trước mặt tất cả người trong thôn, sau đó chết trước mặt cả thôn. Nhảy xuống giếng, uống thuốc độc, treo cổ đều được, chỉ cần chết trước mặt cả thôn là được.”
⚝ 3 ⚝Nhà tôi ở trên phố mới phía nam thôn.
Phố mới rốt cuộc vẫn là phố mới.
Phố mới là con phố mới quy hoạch sau khi Đinh Trang giàu có. Nhà bạn có tiền rồi, muốn xây nhà mới, vậy thì nhà bạn sẽ chuyển từ trong thôn ra phố mới, theo quy định của Chính phủ được xây nhà hai tầng. Một mẫu đất, phía trên là nhà lầu, ba mặt là tường bao, nhà lầu đều được ốp gạch trắng, tường bao đều là gạch đỏ. Gạch ốp một năm bốn mùa đều tỏa ra vị trắng, gạch đỏ một năm bốn mùa đều tỏa ra vị đỏ. Khi mùi vị hợp vào nhau, liền trở thành mùi đỏ đỏ trắng trắng, mang theo mùi lưu huỳnh vàng ánh.
Cả con phố đều là mùi lưu huỳnh của gạch mới, ngói mới.
Một năm bốn mùa đều là mùi lưu huỳnh mới cóng.
Một thế giới đều là mùi lưu huỳnh của gạch mới, ngói mới.
Nhà tôi dựng trong chính mùi lưu huỳnh này. Mùi lưu huỳnh ngày đêm đập vào mũi, va vào tai, đâm vào mắt, nhưng nó lại mời gọi lòng người. Trong thôn có rất nhiều nhà đều sống trong mùi lưu huỳnh này. Rất nhiều người đều muốn sống trong mùi lưu huỳnh này, cho nên đều bán máu.
Cho nên đều mắc bệnh nhiệt.
Tổng cộng có hai mươi mấy hộ sống trên phố mới, chủ nhân của hai mươi mấy hộ năm đó đều là đầu nậu máu. Đầu nậu máu kiếm nhiều tiền, liền xây nhà trên phố mới. Liền sống trên phố mới. Thế là có phố mới. Năm đó, bố tôi là đầu nậu máu sớm nhất, sau này là đầu nậu máu to nhất, cho nên nhà tôi sống ở nơi trung tâm nhất của phố mới, không phải nhà hai tầng, mà là ba tầng. Chính phủ quy định mỗi nhà chỉ được xây hai tầng, nhưng nhà tôi xây ba tầng.
Nhà người khác xây ba tầng Chính phủ sẽ ra tay can thiệp, nhưng khi nhà tôi xây ba tầng thì không có ai quản hết. Cũng không phải ngay từ đầu nhà tôi đã xây ba tầng. Khi người khác đều ở nhà gianh vách đất, thì bố tôi đã xây tường gạch mái ngói. Khi người khác xây tường gạch mái ngói, bố tôi liền dỡ tường gạch mái ngói đó ra xây thành nhà hai tầng. Khi người khác xây nhà hai tầng, bố lại thêm một tầng nữa thành ba. Khi người khác muốn thêm một tầng hoặc xây luôn thành ba tầng, Chính phủ liền ra tay can thiệp, nói thôn kiểu mẫu trong huyện đều là nhà hai tầng, không phải ba tầng.
Nhà tôi là nhà ba tầng. Ba tầng cao hơn hai tầng một tầng.
Cổng nhà tôi cũng cao hơn nhà người khác hai thước. Khi cổng nhà người khác đều cao một trượng hai, nhà tôi là trượng rưỡi; khi nhà người khác cao trượng rưỡi, nhà tôi liền nâng cổng cao lên trượng sáu. Khi người khác đua theo cũng xây đến trượng sáu, bố tôi ngay lập tức lại đôn lên trượng tám. Một trượng tám, tròn sáu mét, không nhà nào dám đọ cao với nhà tôi nữa, cao thêm nữa thì sẽ không hợp với nhà hai tầng nhà họ. Sẽ phá hỏng phong thủy.
Nhà tôi là nhà ba tầng, không sợ hỏng phong thủy.
Trong sân nhà chúng tôi, thứ không tương xứng với tòa nhà này là trong chiếc sân kiểu tây có chuồng lợn, chuồng gà, dưới mái hiên còn có ổ chim câu. Khi xây nhà, bố đều ngắm theo kiểu nhà mang phong cách phương Tây của Đông Kinh, trên nền nhà lát toàn gạch viên lớn màu trắng phớt hồng, sân lát những tấm xi măng một mét vuông. Mấy cây bào đồng trong sân, đều dùng gạch hoa xây bồn hoa và bồn cây, ngay cả nhà xí đã xây từ trước trong sân, cũng thay cái hố xí ngồi xổm dùng từ trăm nghìn năm trước thành bệ xí bệt như trong thành phố, nhưng bố tôi, mẹ tôi ngồi trên cái bệ xí đó, ngồi mãi cũng không đi được, đành phải đào một cái hố ngồi trên phần đất lộ thiên ở sau nhà.
Phòng tắm trong nhà có một cái máy giặt quần áo, nhưng mẹ tôi vẫn thích bưng chậu giặt vào trong sân để giặt tay.
Phía trên nhà bếp ở phía bắc sân là nhà ăn, bên bàn ăn bày bốn cái ghế tựa, nhưng cả nhà chúng tôi đều thích bưng bát cơm vào trong sân, hoặc là bưng bát cơm ra phố, nếu không ngồi ăn trên hòn đá trên phố, thì cũng ngồi bệt trên dép của mình ăn.
Cứ thế, cái xí bệt liền trở thành đồ trang trí.
Máy giặt cũng trở thành đồ trang trí.
Có tủ lạnh, tủ lạnh cũng thành đồ trang trí.
Phòng ăn, bàn ăn đều thành đồ trang trí.
Khi ông tôi đến nhà tôi, cả nhà đang đóng cổng ăn tối trong sân. Màn thầu trắng, nước gạo, miến và củ cải hầm cải thảo. Trên lá cải thảo có ớt nổi lên đỏ như tranh xé giấy trong ngày Tết. Bố mẹ ngồi trên cái ghế con, giữa sân bày chiếc bàn nhỏ, cả nhà đang vây quanh chiếc bàn nhỏ ăn cơm. Ông tôi gõ cửa. Bố tôi hỏi ai đấy, sau khi em gái Anh Tử của tôi ra mở cửa, mẹ tôi liền bưng canh cho ông, lấy ghế ra, nhưng chính lúc sắp ăn cơm, ông tôi cầm lấy cây đũa lạnh lùng nhìn bố, lạnh lùng như nhìn một người không quen biết.
Bố tôi cũng lạnh lùng nhìn ông tôi, cũng như đang nhìn một người không quen biết.
Cuối cùng, bố tôi nói: “Bố, bố ăn đi.”
Ông tôi nói: “Con cả, bố nghĩ đi nghĩ lại phải nói với con một việc.”
Bố tôi nói: “Khỏi cần nói, bố ăn đi.”
Ông tôi nói: “Không nói bố không ăn được, đêm cũng không ngủ được.”
Bố tôi bỏ chiếc bát trong tay đặt lên bàn, bỏ đũa lên trên bát, lạnh lùng nhìn ông nói: “Bố nói đi.”
Ông tôi nói: “Hôm nay bố đi họp bên trên.”
“Có phải nói chuyện bệnh nhiệt chính là bệnh AIDS không? Bệnh AIDS là bệnh nan y mới trên thế giới không?” Bố tôi nói: “Bố, bố ăn cơm đi, những cái này bố không nói con cũng biết rồi. Hai phần ba người trong thôn đều biết. Chỉ có những người bị mắc bệnh nhiệt là không biết. Những người bị mắc bệnh nhiệt có biết họ cũng giả vờ như không biết.” Sau đó, bố tôi liếc ông tôi một cái, vẻ mặt đầy lạnh lẽo và coi thường, giống như một học sinh liếc tập bài thi trong tay thầy giáo mà nó đã sớm biết cách làm rồi. Cuối cùng, bố bưng lấy bát, cầm lấy đũa, tiếp tục ăn.
Ông tôi được xem là thầy giáo, thực ra chỉ là người cả đời gõ chuông trong trường học, cho đến hôm nay sáu mươi tuổi rồi vẫn gõ chuông. Có lúc cũng trông coi học trò thay cho những giáo viên bị ốm hay có việc, dạy môn ngữ văn cho học sinh lớp một: “thượng, trung, hạ; trái và phải.” Cầm phấn viết chữ to như cái bát.
Bố tôi cũng được ông tôi dạy, nhưng bây giờ bố không còn kính trọng ông như kính trọng thầy giáo giống khi xưa nữa. Ông nhìn ra điều này từ trong mắt bố. Ông nhìn bố bưng bát cơm của mình cứ thế ăn, liền nhẹ nhàng đặt bát cơm của mình lên trên bàn.
Cuối cùng nói: “Huy, bố không nói con chết trước mặt cả thôn nữa, nhưng con cũng nên dập đầu trước mặt cả thôn.”
Bố tôi trừng mắt nhìn ông: “Sao phải thế?”
“Con là đầu nậu máu.”
“Những người sống trên phố mới này đều là đầu nậu máu.”
“Họ đều học theo con. Bọn họ không ai kiếm tiền nhiều hơn con.”
Bố cũng đặt mạnh cái bát xuống bàn, canh trong bát bắn ra rớt xuống mặt bàn; vứt đũa lên trên bàn, đũa lại lăn xuống đất.
“Bố,” bố tôi trừng mắt nói với ông nội. “Từ nay về sau bố còn nhắc đến việc con dập đầu ở Đinh Trang nữa, thì bố không phải là bố của con, bố cũng đừng nghĩ đến việc bảo con dưỡng già đưa ma cho bố.”
Ông sững ra, đũa khựng lại trong tay, nói khẽ: “Xem như bố con cầu xin con quỳ xuống dập đầu trước cả thôn con cũng không chịu sao?”
Bố tôi lớn tiếng nói: “Bố, bố đi đi, bố nói thêm một câu nữa thì bố thực sự không phải là bố của con.”
Ông tôi nói: “Huy, chỉ là cái dập đầu thôi, dập đầu xong mọi chuyện cũng qua mà.”
Bố tôi nói: “Bố đi đi. Từ nay về sau, bố không phải là bố con nữa. Bố không phải là bố con, nhưng bố chết con cũng sẽ đưa bố xuống mộ.”
Ông tôi sững người một lúc, chầm chậm đặt đũa lên trên bát, đứng dậy nói: “Trong thôn đã chết hơn bốn mươi người rồi, con đến dập đầu trước mỗi nhà, cũng chỉ đập hơn bốn mươi cái, điều này làm con mệt phải không? Làm con mệt phải không?” Hỏi như vậy, dường như ông cũng thấy mệt, hơi tàn lực kiệt, liếc mẹ tôi một cái, rồi lại nhìn Anh Tử nói: “Anh Tử, ngày mai cháu đến trường học đi, ông nội dạy bù môn ngữ văn cho cháu. Thầy giáo dạy toán của các cháu không bao giờ đến nữa, từ nay về sau chúng ta đều học môn ngữ văn.”
Nói xong, ông liền đi ra.
Chầm chậm đi mất, lưng còng xuống, đầu cúi xuống, chầm chậm đi mất.