← Quay lại trang sách

Chương hai

Nói chuyện Đinh Trang một chút nhé.

Đinh Trang nằm ở phía nam con đường cái từ Đông Kinh đến huyện Vy, trong thôn tổng cộng có ba con phố. Đông tây một con phố, nam bắc hai con phố. Trong hai con phố thì một con là phố mới. Nếu như không có con phố mới đó, phố Đinh Trang sẽ có hình chữ “thập” (+) ngay ngắn, có con phố mới đó, hình dạng phố liền trở thành chữ “thổ” (±).

Ông tôi từ phố mới đi ra, ánh trăng mông lung. Đầu óc ông cũng mông lung, nghe thấy đầu thôn hình như có tiếng đàn đứt quãng, như có người đang kéo đàn hát. Nhưng đầu ông đang mông lung, biết bệnh nhiệt chụp lấy Đinh Trang rồi, Đinh Trang sẽ không còn có tiếng ca, tiếng hát, tiếng cười nữa.

Cuối cùng bước mông lung về phía nhà chú hai tôi.

Ông muốn đến nhà chú hai tôi ngồi một lúc.

Bệnh nhiệt của chú hai đã bị mấy tháng rồi, đã qua sự khó chịu ban đầu, tuy xách nửa thùng nước cũng không có sức, nhưng đã có thể ăn nửa cái bánh, có thể uống nửa bát cháo. Hồi đầu năm, bệnh nhiệt ập xuống người chú, tưởng là cảm sốt thông thường, nhưng qua thời kì bình ổn ba tháng, người chú bắt đầu ngứa. Trong một đêm, trên mặt trên hông và trong bẹn, chỗ nào cũng phát thủy đậu. Khắp người ngứa ngáy đến mức muốn lao đầu vào tường. Họng cũng đau một cách kì lạ. Dạ dày thì ngày ngày cồn lên như sóng cuộn, biết là đói nhưng lại không ăn được. Ăn một miếng thì hận không thể nôn ra hai miếng. Lúc đó, chú biết mình đã mắc bệnh nhiệt, sợ bệnh sẽ lây cho thím tôi và con trai nhỏ Tiểu Quân, nên tự mình chuyển ra khỏi phòng chính, sống trong buồng nhỏ, một mặt nói với thím tôi: “Dăm bữa nửa tháng nữa anh chết đi, em đem Tiểu Quân đi lấy người khác, lấy xa xa một chút như người ta, cách xa cái thôn Đinh Trang quỷ quái này.”

Mặt khác, đi nói với bố tôi rằng: “Anh, Tống Đình Đình và Tiểu Quân đều đi huyện Vy xét nghiệm rồi, họ không có bệnh nhiệt, em chết rồi anh nhất định phải nghĩ cách giữ hai mẹ con họ lại, không thể em vừa chết thì cô ấy đã tái giá, để em chết mà lòng vẫn không yên.”

Chú yêu thím tôi.

Yêu thế giới này.

Mỗi lần chú nghĩ đến việc mình có bệnh nhiệt, chẳng bao lâu nữa sẽ chết, nước mắt liền giăng đầy trên mặt.

Thím hai nói: “Anh khóc cái gì?”

Chú nói: “Anh không sợ chết, chỉ thương em ở lại. Anh chết rồi em đưa Tiểu Quân đi lấy người khác đi.”

Nhưng chú lại đi nói với ông tôi rằng: “Bố, Đình Đình nghe lời bố, trên đời này không có ai yêu cô ấy hơn con, lấy ai cũng không có người đối tốt với cô ấy như con, bố hãy thường xuyên khuyên nhủ cô ấy, để cô ấy sau này ở nhà thủ tiết đừng lấy chồng nữa.”

Ông tôi không nói về việc có để cho Đình Đình cải giá hay không.

Ông tôi nói: “Con cứ sống tốt thì cô ấy sẽ không đi lấy chồng khác.”

Ông tôi nói: “Mọi việc đều có ngoại lệ, ai cũng nói ung thư là chết, chẳng phải có người bị ung thư vẫn sống được tám năm mười năm sao?”

Chú hai đã vì cái ngoại lệ đó mà sống tiếp, lại bắt đầu từ ăn hai bữa cơm, uống hai cốc rượu trắng. Điều khổ não nhất khi chú hai tiếp tục sống là chú vẫn chưa đến ba mươi, thím mới chỉ hai mươi tám, nhưng mỗi đêm thím đều quả quyết không cho chú động vào người. Ngay cả kéo tay thím cũng không cho, chú liền cảm thấy nỗ lực sống để làm ngoại lệ cũng chẳng có ý nghĩa gì, muốn nói việc này với ông tôi và người khác, nhưng lại không biết phải nói từ đâu.

Liền thường xuyên thở vắn than dài trước mặt ông.

Ông thì thường xuyên đến ngồi ở nhà chú hai tôi.

Nhưng bây giờ nhà chú hai tôi không có người.

Có bệnh nhiệt nhưng lại không có người ở nhà.

Cổng ngoài khóa lại.

Cổng nhà hàng xóm ở phía tây cũng khóa.

Cả con ngõ đều khóa cổng.

Cả một con ngõ không có người, nhưng lại có tiếng đàn vọng lại. Gió ở trong ngõ thổi lúc to lúc nhỏ, như tiếng đàn trong ngõ tuôn chảy bập bùng. Ông nghe thấy trong tiếng đàn thô tháp đó, thấp thoáng có tiếng hát, khác với tiếng hát của người thuyết thư, nghe khàn khàn, nhả chữ không được rõ, nhưng chính vị thô khàn này làm cho tiếng hát trở nên độc đáo, giống như bát canh sườn bỏ nhiều muối, mặn nên có vị.

Đứng ở cửa nhà chú một lúc, nghe một lúc, ông liền men theo âm thanh đó đi về phía đầu thôn. Ông biết đa số mọi người đều đến đầu thôn để nghe trụy Dự [3] . Nhưng ông không hiểu là đa phần các nhà đều có người mang bệnh nhiệt, đa phần đều có người chết, trong nhà đa phần đều có người sắp chết, làm gì có tâm tư đi nghe điệu hát trụy khản đặc này, sao còn có người đi kéo hồ cầm, đi hát điệu trụy Dự đây.

Ông liền mượn ánh trăng bước đi.

Thì nghe thấy tiếng hát ở đầu thôn, hóa ra là Đinh Hương Lâm đang vừa kéo vừa hát khúc Du nhiên ca trong bài trụy đó, nghe ca từ giống với ca từ ông đã gặp ở đâu:

Mặt trời mọc ở biển đông lặn ở núi tây, sầu cũng một ngày, vui cũng một ngày; làm việc kiếm chút ít tiền tiêu, được nhiều cũng vui, được ít cũng vui…

Ông liền theo tiếng hát đi về phía trước, đến đầu thôn, nhìn thấy trên cành cây hòe già quả nhiên có treo dây mắc đèn, Đinh Hương Lâm bốn mươi tuổi đang ở dưới ánh đèn đó, vừa kéo hồ vừa lắc lư đầu hát. Cả thôn - đa phần những người có bệnh nhiệt hoặc sợ bị mắc bệnh nhiệt, già trẻ gái trai, cả đám hơn trăm người, có lẽ là hai trăm, nhà có ti vi cũng không thích ở nhà xem ti vi, đều đi ra tụ tập ở đây, hòa vào sự náo nhiệt để nghe đàn, nghe Đinh Hương Lâm hát trụy hồ ở đầu thôn.

Đinh Hương Lâm, mười năm trước theo một nghệ nhân thuyết thư học hát trụy, vì giọng khàn, kéo trụy hồ lại toàn sai điệu, cho nên hễ ông hát là có người vỗ tay chế nhạo, cuối cùng bị sư phụ đuổi đi. Còn chưa nhập môn đã bị đuổi rồi. Sau khi bị đuổi, ông bắt đầu bán máu. Bán ra bệnh nhiệt. Nhưng có bệnh nhiệt rồi không biết vì sao đêm nay ông lại vừa kéo đàn vừa hát. Có bệnh nhiệt còn vừa kéo đàn vừa hát. Ánh đèn trong sân diễn hơi tối, nhưng trong bóng tối đó, những người bệnh mắc bệnh nhiệt xuất hiện, có người ngồi trên ghế đẩu, có người nằm trên ghế có tựa lưng, có người thì nằm luôn trên cái giường trúc có thể di chuyển của nhà họ. Còn có người, trẻ con nhà họ phát bệnh nhiệt sớm nhất, bố mẹ nó liền vừa ôm đứa trẻ vào lòng, vừa nhẹ nhàng gãi vết ngứa trên người nó, vừa để nó nghe hát trụy, để nó chìm trong sự huyên náo, quên đi những vết ngứa trên người.

Quên bệnh trên người.

Đinh Hương Lâm là người bị bệnh nhiệt, những bọc mụn trên mặt đã hiện rõ ràng ở trán, nhưng trong ánh đèn dưới gốc cây hòe, ông đang gân cái cổ họng khàn lên, như đang biểu diễn trên sân khấu, mặt ngẩng lên trời, chân giậm xuống đất, mắt nhắm hờ, trên trán lóe lên ánh sáng của những giọt mồ hôi, hai tay vừa kéo trụy hồ, vừa hát với những chấm nước bọt trắng liên tiếp treo bên mép. Những người nghe, những người đang nghe, chưa chắc đã nghe rõ ông hát gì, nhưng bởi vì ông hát ở đó, nên đều chăm chú lắng nghe. Cũng không phải vì nghe ông hát gì, mà vì khi Đinh Trang bế quan tỏa cảng, họ ở trong nhà quá lâu rồi, đều muốn ra ngoài gặp gỡ cho vui.

Ông tôi đi đến.

Ông tìm ở bên ngoài đám người, cuối cùng đến bên trái phía sau Đinh Hương Lâm, đứng sau một thanh niên hỏi: “Lượng phải không? Nghe gì thế?”

Thanh niên đó nói: “Vừa rồi hát Ngọc đường xuân, bây giờ đang hát Du nhiên ca.”

Ông tôi hỏi: “Có hay không?”

Thanh niên đó nói: “Mọi người đều sắp tắc thở trong nhà rồi, đột nhiên nghe nói có thuốc mới có thể chữa khỏi bệnh nhiệt, bây giờ hát gì cũng hay.”

Người nói đó, kì thực chính là chú hai tôi, vì chú nghe chăm chú đến mức không quay đầu lại, không nhìn thấy ông, ông liền không hỏi tiếp nữa, đứng đó nhìn chú hai tôi, lại nhìn Đinh Hương Lâm trước mặt, rồi lại nhìn đám người bị mắc bệnh nhiệt của Đinh Trang đen ngòm phía trước, để ánh mắt rơi xuống mặt chú hai và thím hai ở phía trước chú, nhìn thấy trên mặt thím hai, lại có ánh sáng mà trước đây mỗi ngày đều có. Từ khi chú hai có bệnh nhiệt mới không nhìn thấy ánh sáng đó nữa. Mặt chú hai, cũng có vẻ nhẹ nhõm mà nửa năm nay không có, giống như đánh mất thứ gì đó, sau nửa năm lại tìm được, ngay cả những vết mụn trên mặt cũng đều phát sáng dưới ánh đèn. Nhìn ánh sáng đó, ông tôi hỏi có chút mông lung: “Lượng, con nghe ai nói có thuốc mới có thể chữa khỏi bệnh nhiệt?”

Chú hai quay đầu nói: “Bố, là bố à,… mọi người đều nói có thuốc mới rồi, nói tiêm một mũi bệnh nhiệt sẽ khỏi. Đinh Hương Lâm vừa nghe nói có thuốc mới là treo đèn lên hát trụy.”

Ông tôi sững người. Ngẩn ra một chút, và cũng cùng nghe khúc trụy đó với chú tôi.

Cứ thế nghe khúc trụy mà Đinh Hương Lâm hát.

⚝ 2 ⚝

Ông ở sân diễn đó nghe hát chút xíu rồi trở về trường học.

Đi về phía nam thôn, một dặm rưỡi đường, chỗ trước đây là ngôi miếu Quan Công, trường học ở dãy phụ của ngôi miếu đó, Quan Công thì ở chính đường. Người Đinh Trang muốn phát tài đều đến chính đường thắp hương, thắp mấy chục năm, cuối cùng vẫn phải bán máu kiếm tiền, cuối cùng dỡ miếu. Không tin Quan Công nữa, tin vào bán máu.

Tin vào bán máu. Cuối cùng xây được ngôi trường mới này.

Tin vào bán máu, ông nội cũng chỉ thường xuyên sống trong trường.

Đất mười mấy mẫu, trên vùng đất hoang của bình nguyên, xây bức tường hoa gạch đỏ, xây hai tầng lầu ở nơi cao nhất của mặt phía đông, cửa sổ lắp kính lớn, ngoài cửa có biển gỗ viết “lớp một”, “lớp hai”, “lớp năm”. Trong sân trường dựng một giá bóng rổ, trên cánh cổng sắt lớn treo tấm biển gỗ “Trường tiểu học Đinh Trang”, chỗ này cuối cùng cũng trở thành trường học. Trong trường, ngoài ông nội còn có hai giáo viên dạy toán và văn thể. Hai người đều còn trẻ, người thôn ngoài, vừa nghe nói Đinh Trang có bệnh nhiệt là không đến dạy học nữa.

Không bao giờ đến nữa.

Chết cũng không đến.

Trong trường, chỉ còn lại mình ông. Bám trụ cửa sổ, cửa kính, bàn ghế và bảng đen của ngôi trường, bám trụ với những ngày khổ nạn bệnh nhiệt lan tràn khắp Đinh Trang và bình nguyên.

Trong trường học, đến bây giờ vẫn còn mùi lưu huỳnh của gạch mới ngói mới. Giữa lúc nửa đêm của ngày thu muộn này, mùi lưu huỳnh còn nồng nặc hơn trên phố mới, giống như mùi ngũ cốc trên ruộng hoa màu sau vụ thu, mùi ngũ cốc thơm vàng óng, hun vào mũi, dụi vào mắt. Mỗi khi ông ngửi thấy mùi gạch mới ngói mới trong trường, những lo lắng trong lòng ông cũng tĩnh lại, rồi sẽ nghĩ đến rất nhiều việc. Từ chỗ biểu diễn trở về trường học, đêm đã sâu như cái giếng, tiếng hát trụy vẫn còn văng vẳng, bay lúc cao lúc thấp như tiếng trùng kêu. Cái tĩnh trên bình nguyên, cái tĩnh như nước chảy bao trọn lấy ngôi trường, như sương mù tỏa ra từ trường học. Ông ngồi trên thanh xà thấp của giá bóng rổ giữa trường, đó là cái giá bóng làm bằng gỗ cây du và ống thép, thanh xà thấp vừa to vừa cứng, ông như ngồi trên một tảng đá. Ông nhìn trời, trời như được rửa bằng nước, tiếng hát trụy bay đến từ bầu trời ẩm ướt. Nghe âm thanh đó, lòng ông có chút đau, như có búa đập vào tim, lúc mạnh lúc nhẹ. Bảo bố tôi đến dập đầu trước mặt người trong thôn thì bố không chịu. Ngay cả chú hai cũng tin rằng sắp có thuốc mới có thể trị bệnh nhiệt rồi. Tiêm một mũi là khỏi. Ông ngồi trên cái xà dưới của giá bóng, dựa vào thân giá, ngửa đầu nhìn trời, để hơi ẩm của đêm thu lướt qua mặt ông. Ông hơi đói, đi huyện Vy một ngày chỉ ăn một bữa cơm. Vì đói, trong lòng có chút hoang mang. Vì hoang mang, nỗi đau đớn liền giống như sợi dây thừng siết chặt tim ông. Sợi dây mảnh, mỗi lần siết lại nhói lên một cái, vai ông theo đó run lên từng hồi.

Lần run này, ông liền nhớ đến việc mùa xuân năm đó.

Việc mùa xuân năm đó, như cây đâm chồi cỏ mọc xanh trải ra trước mặt ông, rõ ràng minh bạch, giống như ánh trăng phủ trước mặt ông.

Ông liền nhìn thấy việc mùa xuân năm đó, đang rõ ràng mồn một.

Gió thổi, lá cây rung rinh, vai lắc lắc. Lần lắc này, tháng Hai năm đó liền hiện ra. Trưởng phòng Giáo dục trong huyện cũng hiện ra, dẫn theo hai cán bộ huyện, đến Đinh Trang động viên bán máu. Giữa mùa xuân, trong thôn rất ấm áp và khoan khoái, mùi thơm trên phố xộc vào mũi. Trưởng phòng Giáo dục đang ở giữa mùi thơm này, đi tìm Trưởng thôn Lý Tam Nhân, nói bên trên cần tổ chức việc bán máu toàn dân. Lý Tam Nhân liền kinh ngạc há to miệng, nói: “Trời ơi, anh bảo bán máu sao!”

Há to miệng: “Ông trời ơi, bắt dân bán máu sao!”

Lý Tam Nhân không tham gia buổi họp động viên người Đinh Trang, ba ngày sau Trưởng phòng Giáo dục lại đến, lại bảo ông vận động Đinh Trang đi bán máu, ông liền không nói gì, chỉ ngồi xổm dưới đất hút thuốc.

Qua nửa tháng, Trưởng phòng Giáo dục lại đến, tìm Lý Tam Nhân, không động viên ông tổ chức Đinh Trang đi bán máu nữa, không động viên ông nữa, nhưng lại cách chức Trưởng thôn của ông.

Cách chức Trưởng thôn mà ông đã làm bốn mươi năm.

Mở cuộc họp tuyên bố một chút rồi cách chức.

Sau khi cách chức, Lý Tam Nhân vẫn còn há to miệng, hồi lâu không nói ra lời. Chính trong cuộc họp này, Trưởng phòng Giáo dục đích thân động viên Đinh Trang bán máu, ông nói rất nhiều trong cuộc họp với dân Đinh Trang. Nói trước, nói sau, nói quá khứ và tương lai của Đinh Trang, cuối cùng trong cuộc họp nhìn chăm chăm vào dân chúng hét to: “Tôi nói mọi người có nghe không? Xem như tôi cầu xin người Đinh Trang, cầu xin mọi người nói một câu, không thể để tôi ở đây nói cả ngày mà tai mọi người đều như để quên trên giường ở nhà vậy!”

Ông gào lên, gà sợ quá phải bay vụt, rời khỏi hội trường rõ xa rồi vẫn còn cục ta cục tác. Con chó bị dọa cho sợ khiếp, đứng dậy bên chủ nhân, tức giận sủa gâu gâu với Trưởng phòng. Sự tức giận của con chó, lại làm chủ nhân nó sợ chết khiếp, nhìn trộm Trưởng phòng và cán bộ trên bục một cái, đá mạnh một cái vào bụng con chó, mắng: “Sủa gì mà sủa! Ai mày cũng dám sủa à, ai mày cũng dám sủa à!”

Sau đó, con chó đó kêu ăng ẳng rồi chạy mất.

Sau đó, Trưởng phòng Giáo dục quẳng tập công văn trong tay lên bàn, chán nản ngồi xuống. Ngồi một lúc thì ông ta đến trường học tìm ông tôi.

Ông tôi không phải là thầy giáo của trường. Nhưng có thể xem như thầy giáo. Thầy giáo già nhất. Hồi nhỏ, ông có thể đọc Tam tự kinh, biết đọc Bách gia tính, còn biết tính sinh nhật và bát tự trên lịch vạn niên. Sau giải phóng, bên trên yêu cầu các thôn phải có lớp xóa mù chữ, Đinh Trang liền mở một trường tiểu học trong miếu Quan Công ở phía nam thôn, ông tôi liền đến miếu Quan Công làm thầy giáo, trước tiên là dạy học trò đọc Bách gia tính, sau đó dạy học trò dùng cây gậy viết Tam tự kinh trên đất, sau này, còn dạy học trò trong thôn học Đệ tử quy. Có chữ lạ trong Đệ tử quy ông tôi không biết, phải đến chỗ thầy giáo ở thôn kế bên hỏi mới có thể quay lại dạy học trò Đinh Trang. Cứ thế vài năm sau, bên trên cử thầy giáo chuyên dạy học xuống, tập trung học sinh của các thôn Liễu, Hoàng Thủy, Lý Nhị ở miếu Quan Công của Đinh Trang, thầy giáo kia bắt đầu dạy “thượng trung hạ, tả trung hữu,” và “đất nước chúng ta là nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, thủ đô là Bắc Kinh,” còn có “Một đàn nhạn lớn bay về nam.” Ông tôi không dạy học nữa thì làm việc vặt ở trường. Quản việc đánh chuông. Quản việc quét dọn. Quản đồ trong miếu không để người khác trộm. Cứ quản như thế, loáng cái đã mấy chục năm, giáo viên nào có việc, ông liền thay giáo viên đó quản học sinh làm bài tập. Giáo viên nào bị điều đi, ông lại thay giáo viên đó đứng trên bục giảng kể chuyện, kể Bàn Cổ khai thiên lập địa, Tinh Vệ lấp biển, Hoàng Đế bắt Xi Vưu, còn kể chuyện Nữ Oa tạo ra loài người, Ngưu Lang và Chức Nữ, Hằng Nga bỏ trốn lên cung trăng, chờ có thầy giáo mới đến, ông lại quản việc đánh chuông, quản việc quét dọn, quản không cho học sinh đại tiểu tiện bừa bãi, mót thì phải vào nhà vệ sinh.

Thù lao của thầy giáo là lương, thù lao của ông tôi là phân và nước tiểu trong nhà xí. Phân và nước tiểu đó đều thuộc về ruộng nhà ông nội, cứ như thế năm này qua năm khác. Một năm lại một năm, qua mấy chục năm, người trong thôn đều coi ông tôi là thầy giáo, trường học phát lương không coi ông tôi là thầy giáo, nhưng khi thiếu giáo viên, cần có người thay thế, thì đều coi ông tôi là giáo viên.

Ông tôi cũng coi mình là thầy giáo.

Bố tôi mua máu, bán máu phát tài, nói: “Bố, bố về nhà nghỉ ngơi đi.”

Ông nhìn bố, nhìn một hồi lâu, thở vắn than dài nói: “Bố nửa đời dạy học, tiếc là không dạy nổi con.”

Chú hai mỗi khi nhìn thấy ông đều cười híp mắt, vừa cười vừa nói: “Bố, bố dạy học nửa đời, đổi lại được bao nhiêu phân trong trường học?”

Ông liền sầm mặt lại, trừng mắt nhìn chú hai nói: “Lượng ơi Lượng, tính cả nhà họ Đinh chúng ta thì con là vô dụng nhất, đến giờ ngay cả tên mình cũng không viết được cho ngay ngắn.”

Ông không phải thầy giáo. Nhưng có thể xem là thầy giáo. Khi Trưởng phòng Giáo dục ở trên đến trường học đi tìm ông tôi, ông đang quét sân trường, nghe nói Trưởng phòng trên huyện muốn tìm mình, mặt ông ửng đỏ, bỏ rơi cây chổi trong tay, vội vã bước đến cổng trường. Bước đi gấp gáp, khi nhìn thấy Trưởng phòng Giáo dục đứng ở cổng trường, niềm hưng phấn trên mặt như cảnh sắc mùa thu.

Ông tôi nói: “Trưởng phòng, Trưởng phòng, mời ông vào trong ngồi.”

“Không ngồi nữa,” Trưởng phòng nói. “Thầy giáo Đinh, các phòng, các sở trong toàn huyện đều xuống bên dưới động viên nông dân bán máu, phòng Giáo dục được phân công động viên năm mươi thôn, tôi vừa đến Đinh Trang còn chưa động viên được mấy câu thì đã gặp khó.”

Ông tôi nói: “Bán máu à?”

Trưởng phòng nói: “Thầy đức cao vọng trọng, lúc này Đinh Trang chưa có cán bộ, lúc này thầy không thể không xuất hiện.”

Ông tôi nói: “Trời ơi, bảo bán máu sao?”

Trưởng phòng nói: “Phòng Giáo dục bắt buộc phải động viên được năm mươi thôn nguồn máu, Đinh Trang thầy không ra mặt thì ai ra?”

Ông tôi nói: “Trời ơi, là động viên bán máu sao?”

Trưởng phòng nói: “Thầy giáo Đinh, thầy là người có học, sao lại không hiểu cái đạo lí máu trên người cũng như nước suối càng bán càng đầy?”

Ông đứng đó, nỗi thất vọng trên mặt ông như mùa đông trên bình nguyên.

Trưởng phòng Giáo dục nói: “Thầy giáo Đinh, thầy ở trường học đánh chuông giữ cổng, không tính là thầy giáo, nhưng mấy lần nhà trường báo cáo thầy làm giáo viên điển hình tôi đều phê chuẩn. Mỗi lần làm điển hình, đều được giấy khen và tiền thưởng, bây giờ Trưởng phòng Giáo dục giao một chút nhiệm vụ cho mà thầy cũng không hoàn thành, thầy coi thường Trưởng phòng tôi có phải không?”

Đứng ở cổng trường, ông tôi không nói gì. Không nói gì, ông liền nghĩ đến dịp bình xét giáo viên điển hình hàng năm, giáo viên dạy toán, giáo viên dạy văn đều muốn tranh. Lần đó tranh, không cho ai làm cả, cuối cùng đề xuất ông lên huyện. Trên huyện liền phê chuẩn ông làm giáo viên điển hình, đến huyện vừa lĩnh giấy khen lại lĩnh tiền thưởng. Tiền không nhiều, có thể mua được hai túi phân hóa học, nhưng giấy khen thì đỏ thắm, bây giờ vẫn dán ở phòng ông.

Trưởng phòng Giáo dục nói: “Các phòng khác vừa động viên là động viên được bảy, tám chục thôn bán máu, còn tôi ngay cả bốn, năm chục thôn cũng không động viên được, sau này chức Trưởng phòng của tôi sao làm được nữa.”

Ông tôi không đáp lời. Học sinh trong trường đều chen nhau bám ở cửa lớp, cửa sổ nhìn ra ngoài, giống như một đám vỏ dưa hấu màu đen xếp trên cửa lớp, trên cửa sổ.

Hai giáo viên mãi không được làm giáo viên điển hình cũng đang nhìn, trên mặt có ánh sáng khác lạ, nghĩ đến việc trước đây nói chuyện với Trưởng phòng, nhưng Trưởng phòng căn bản không nhận ra họ.

Trưởng phòng chỉ nhận ra một người là ông tôi.

Trưởng phòng nói: “Thầy giáo Đinh, tôi không bắt thầy làm việc khác, tôi chỉ cần thầy nói với người Đinh Trang rằng bán máu thực sự không phải là việc gì to tát. Quả thực máu cũng như suối, càng bán càng đầy. Chỉ có vài câu thế, chỉ có chút việc thế, thầy không muốn làm cho phòng Giáo dục sao?”

Ông tôi cuối cùng cũng lúng búng nói: “Vậy để tôi thử xem.”

Trưởng phòng nói: “Thật mà, chỉ có vài câu thôi.”

Lại gõ chuông lần nữa, triệu tập mọi người đến đầu thôn, Trưởng phòng bảo ông tôi nói vài câu với người trong thôn, nói cái lí máu cũng như suối, càng bán càng đầy. Ông tôi đứng dưới gốc cây hòe ở giữa thôn, nhìn người Đinh Trang đen ngòm một đống, như đứng trong lớp học nhìn đám học sinh khi ông giảng “thượng trung hạ” lúc thỉnh thoảng thay thầy giáo ngữ văn giảng bài. Dưới ánh tà dương của tháng Hai năm nay, ông tôi nhìn người Đinh Trang không mào đầu gì hết, lặng lẽ nhìn một hồi lâu, bình thản nói với người trong thôn: “Đến đây cả đi.” Ông tôi nói: “Tất cả theo tôi đến bãi sông phía đông thôn xem một chút.”

Người trong thôn cũng đi theo ông, đến bãi sông cạn phía đông thôn. Tiết tháng Hai, có nước mưa, nhưng Đinh Trang vốn nằm trên Hoàng Hà cổ đạo [4] . Cứ nằm như thế loáng cái đã hơn nghìn năm. Thôn làng ở đây đều nằm trên Hoàng Hà cổ đạo. Đều đã ở đây mấy trăm năm, hơn nghìn năm rồi. Đất cát bãi, tuy cực kì khô, nhưng dù sao cũng đã vào tiết mưa xuân. Ông tôi tìm một chiếc xẻng, xách trên tay phải, đi hàng đầu. Trưởng phòng Giáo dục và cán bộ huyện theo sau ông. Người trong thôn cũng đều đi sau ông. Đi sau ông mà không hiểu vì sao. Tất cả đến bên bờ sông chọn chỗ đất ướt, dừng lại, nắm một nắm cát, vo vo trong tay, đào đào trên cát. Đào ra nước, nửa hố nước. Rồi ở đâu đó làm một cửa đột phá bằng cái bát, múc một gáo, rồi lại múc; múc từng bát từng bát, tưởng rằng sắp múc cạn cái hố đó rồi, dừng một lúc, nước vẫn còn nửa hố.

Cuối cùng cũng không múc cạn được, càng ngày càng đầy.

Ông tôi vứt cái bát trên nền cát, xoa xoa tay, nhìn người Đinh Trang một cái: “Nhìn thấy rồi chứ?” Ông nói lớn: “Đây chính là máu người, càng múc càng đầy.”

“Múc không cạn, càng múc càng đầy.”

Sau khi nói xong, ông liền nhìn Trưởng phòng Giáo dục nói: “Trường học còn chờ tôi về đánh chuông, tôi không đánh chuông thì bọn trẻ không biết giờ tan học.”

Trưởng phòng không quan tâm đến việc học sinh tan học hay không, ông nhìn ông tôi, rồi lại nhìn người Đinh Trang, cũng gân cổ lên gào: “Hiểu chưa? Nước múc không cạn, máu bán không hết. Máu cũng như nước suối này, đây là khoa học.”

Cuối cùng lấy cái bát trên nền cát, đá sang bên một phát, nói: “Giàu hay nghèo, đều do mọi người tự định; muốn hưởng phú quý vinh hoa đủ đầy sung túc hay nghèo rớt mùng tơi - Đinh Trang chính là thôn nghèo nhất huyện, muốn giàu hay muốn nghèo thì về nhà nghĩ đi.”

Trưởng phòng nói: “Tất cả về nhà nghĩ đi.”

“Suy nghĩ đi,” Trưởng phòng nói. “Huyện khác đã sớm bán máu đến phát điên rồi, nhà lầu trong thôn xây hết tòa này đến tòa khác, còn Đinh Trang các bạn sau giải phóng đã mấy chục năm, thôn các bạn vẫn là nhà cỏ lúp xa lúp xúp.”

Trưởng phòng nói xong rồi đi.

Ông tôi cũng đi.

Ông vội đi gõ chuông báo hết giờ cho học sinh của mình.

Trưởng phòng vội xuyên đêm đến động viên thôn khác. Trong một tháng, ông ta bắt buộc phải động viên được năm mươi cái thôn bán máu, không động viên được trên huyện sẽ cách chức ông.

Trưởng phòng ngồi trên chiếc xe jeep cũ, đi về phía thôn khác.

Người Đinh Trang, cũng đều tản đi rồi. Về nhà rồi, giàu hay nghèo đều do họ.

Sự hoang lạnh dày đặc bên bờ sông, màu đỏ sậm của mặt cát phát sáng trong mặt trời xuân, màu nâu đậm, đỏ đầm đìa như máu. Mùi tiểu mạch xanh non trên ruộng hoa màu phía xa bay đến, bồng bềnh trên nền cát.

Bồng bềnh đi, biến mất như gợn nước.

Bố tôi không đi. Không rời khỏi cổ đạo. Không rời khỏi hố nước ông tôi đào. Bố cứ đứng nhìn bên hố nước. Cứ nhìn như thế, khom lưng đến bên hố vốc tay lấy nước, rửa tay, sau đó thì cười.

Bố đưa tay vào trong cái hố đó, đào đào, cái hố liền trở thành dòng suối. Nước suối róc rách đùn lên, nước từ trong hố tràn ra, chảy men theo bãi cát khô khốc.

Chảy một dòng như cái đũa.

Như cành liễu càng chảy càng xa.

Bố tôi hai mươi ba tuổi liền cười.

⚝ 3 ⚝

Khi Đinh Hương Lâm không hát trụy nữa thì ông tôi đi ngủ.

Ngủ say.

Mơ một giấc mơ. Trong mơ, việc bán máu mượn gió đêm thổi về phía ông, ông liền nhìn rõ ngọn nguồn lạch sông của bệnh nhiệt. Ngọn nguồn lạch sông của việc bán máu. Ngọn nguồn lạch sông của sự giàu có. Hiểu rõ rất nhiều việc như xuân gieo thu gặt, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.

Căn phòng ông ngủ nằm bên cánh cổng lớn của trường, tường gạch đỏ, nhà mái bằng, gian bên trong kê giường và bàn; gian ngoài, kê nồi bếp, để ghế băng, bát đũa và chậu rửa. Rất nhiều lần ông hiểu rõ một việc, đó là chỉ cần ông dọn dẹp gọn gàng hai gian phòng này, trước khi ngủ đem ghế băng ở gian ngoài vào kê dưới chân tường, xếp bát đũa lên bàn, đặt thùng nước vào dưới kệ bếp; ở gian bên trong, chỉ cần đem nửa hộp đầu mẩu phấn nhặt được đặt lên góc phải của bàn, đem chồng sách cũ và vở bài tập nhặt được cất trong ngăn bàn. Đồ đạc nên đặt ở đâu thì đặt vào vị trí đó, để cho hai gian nhà này ngăn nắp gọn gàng, giấc mộng trong đêm của ông chắc chắn cũng chỉnh tề ngay ngắn, ngày hôm sau mở mắt tỉnh dậy, giấc mộng đêm qua vẫn hiện ra rõ ràng mồn một trước mắt ông, một câu cũng không quên, một chi tiết cũng không quên.

Mỗi đêm trước khi đi ngủ, ông đều chỉnh lại căn phòng một lượt.

Giấc mơ của ông, chính xác rõ ràng như vở bài tập của học sinh học giỏi.

Trong mơ, ông hiểu ra rõ ràng, nhìn thấu việc bán máu năm đó.

Trạm máu đầu tiên trong huyện đùng một cái cắm ở đầu thôn Đinh Trang, lều bạt vải bố màu xanh thẫm phát ra ánh sáng màu củ cải non dưới nắng mặt trời. Ở đó có tấm biển gỗ trắng dựng dưới lều viết năm chữ lớn màu đỏ TRẠM MÁU BỆNH VIỆN HUYỆN, nhưng cả một ngày, Đinh Trang không có một người đi bán máu. Ngày thứ hai, cũng không có người đi bán máu. Ngày thứ ba, Trưởng phòng Cao của phòng Giáo dục, lại ngồi trên chiếc xe jeep của ông ta đi tìm ông tôi. Chiếc xe jeep xiêu vẹo như muốn đổ đó dừng lại ở cổng trường, chính ở cổng trường đó, ông ta nói vài câu với ông tôi.

Ông ta nói, thầy giáo Đinh, Huyện trưởng sắp cách chức Trưởng phòng của tôi rồi, thầy nói nguồn máu Đinh Trang phải làm thế nào đây.

Ông ta nói, tôi không làm khó ông, thầy giáo Đinh. Ngày mai tôi sẽ phái hai chiếc xe tải đến, phải kéo người Đinh Trang đến huyện Thái tham quan. Huyện Thái là huyện kiểu mẫu giàu có của toàn tỉnh. Thầy chỉ cần thay tôi tổ chức mỗi nhà cử một người đến huyện Thái tham quan là được.

Ông ta nói, đi huyện Thái mỗi người mỗi ngày không chỉ được hỗ trợ mười đồng tiền, trên đường qua tỉnh lị còn để mọi người đến tháp tưởng niệm Mùng 2 tháng Bảy [5] một vòng. Đến bách hóa Á Châu xem một lượt.

Nói, xin lỗi thầy giáo Đinh, nếu thầy không giúp tôi tổ chức người trong thôn đi tham quan, sau này chuông của trường học thầy đừng gõ nữa, thầy cũng không cần làm ở trường tiểu học Đinh Trang nữa.

Trưởng phòng Cao nói xong lại ngồi trên chiếc xe jeep đi đến thôn khác. Trên bình nguyên mênh mông, tiếng còi của chiếc xe jeep đó nghe hiền hòa hơn tiếng còi của máy cày. Ông tôi đứng ở cổng trường, nhìn theo đám khói phía sau chiếc xe jeep, trên mặt đông lại một tầng trắng nhạt. Ông biết, huyện Thái là huyện nghèo rớt mùng tơi thuộc khu vực khác, nhưng ông không biết huyện Thái đã trở thành huyện kiểu mẫu giàu nhất tỉnh như thế nào. Trưởng phòng Cao biến đi như ngọn gió, ông không thể không đến từng nhà từng hộ trong thôn để thông báo và động viên, trong bóng hoàng hôn khi mặt trời đã lặn, ông liền đi thông báo từng nhà từng hộ, bảo sáng mai mỗi nhà cử một người đến đầu thôn, chờ chiếc xe tải lớn trên huyện chở đến huyện Thái tham quan.

Hỏi, có thật là đi thì mỗi người mỗi ngày được mười đồng không?

Ông tôi đáp, Trưởng phòng Cao nói rồi, ông ta có thể không đưa sao.

Hỏi, có thật là tham quan về còn được đến tỉnh lị xem một chút?

Ông tôi đáp, Trưởng phòng Cao nói rồi, ông ta có thể không cho xuống xe xem một chút sao?

Cứ như vậy, người và việc đều được động viên, chuẩn bị tốt cho Đinh Trang bán máu, cũng giống như mùa xuân rải phân bón lót cho mùa thu. Khi ông tôi ở trong mơ nhìn thấy cảnh tượng người Đinh Trang đến huyện Thái tham quan, ông thở dài một tiếng trên giường, trở người dậy, có hai giọt lệ treo trên mắt ông.

Huyện Thái cách huyện Vy hơn ba trăm dặm đường, khi người Đinh Trang dậy sớm ngồi trên xe tải, đến huyện Thái đã là gần trưa rồi. Không biết tham quan thôn Thượng Dương của xã nào trong huyện Thái, xe vừa đi vào địa phận huyện Thái đã giống như xe chạy trong mơ. Không ngờ hai bên đường cái trong thôn, nhà nhà đều là nhà kiểu Tây. Đều là nhà hai tầng gạch đỏ ngói đỏ, từng dãy từng dãy tề chỉnh như vạch kẻ trên giấy. Trước cửa các nhà đều bày hoa. Trong sân các nhà đều trồng cây đông thanh. Đường phố đều trải xi măng. Trên tường trước cổng mỗi nhà đều treo một tấm biển hình vuông viền đỏ đáy vàng. Trong tấm biển có treo năm ngôi sao năm cánh lấp lánh, có nhà thì treo bốn ngôi sao năm cánh. Khỏi cần nói, nhà treo năm ngôi sao chính là gia đình tốt bán máu năm sao, treo bốn ngôi sao chính là gia đình tốt bán máu bốn sao, treo ba sao tất nhiên là gia đình bán máu bình thường.

Trưởng phòng Cao liền đưa những người Đinh Trang đến thôn Thượng Dương tham quan, họ đi ra khỏi ngôi nhà này, rồi lại đi vào ngôi nhà khác. Không ngờ thôn Thượng Dương lại giống hệt như thành phố. Không ngờ những ngõ thôn trước đây đều lấy những cái tên nghe cực hay như phố Quang Minh, phố Đại Đồng, phố Dương Quang, phố Hạnh Phúc. Trước cửa các nhà đều có biển và đánh số. Chuồng lợn đắp bằng bùn, chuồng gà xây bằng đất vốn đặt trước cửa và trong sân nhà trước đây, giờ đều được tập trung ở đầu thôn. Chuồng lợn ổ gà cũng có tường bao thấp chừng một mét xây bằng gạch đỏ, hoàn toàn giống những trang trại nuôi lợn, nuôi gà đã gặp đâu đó. Còn trong các nhà, tủ lạnh đều đồng loạt đặt ở phía trái cửa ra vào, ti vi đều đặt trên giá màu đỏ đối diện với sô pha. Máy giặt đều ở trong phòng tắm giặt bên cạnh nhà bếp. Cửa sổ của các nhà đều là hợp kim nhôm. Hòm, tủ đứng, kệ tổng hợp của các nhà đều in hoa vàng sơn đỏ. Trên giường của mỗi nhà đều xếp chăn lụa, phủ thảm lông cừu, khắp phòng dậy lên mùi thơm nức.

Trưởng phòng Cao đi đầu tiên.

Bố tôi đi ngay sau Trưởng phòng.

Người Đinh Trang thì đi sau bố tôi.

Nhìn thấy vài phụ nữ ở thôn Thượng Dương từ đầu kia phố thôn đi đến, nói nói cười cười, trong tay mỗi người đều xách vài cân thịt, cầm một bó rau tươi, hỏi họ nói là đi chợ, họ nói đi đâu mua thức ăn cơ, chính là tới Ủy ban thôn lĩnh thức ăn. Nói hàng ngày đến giờ nấu cơm, các nhà đều đến Ủy ban thôn lĩnh thức ăn, muốn cải bó xôi thì đến giá cải bó xôi lĩnh cải, muốn hẹ thì đến giá hẹ lấy hẹ. Nói muốn ăn thịt lợn thì đi lĩnh thịt lợn, muốn ăn cá thì đi đến ao cá lĩnh cá.

Người Đinh Trang nhìn những người phụ nữ đó không dám tin vào mắt mình, vẻ nghi ngờ trên mặt dày như bức tường thành. Bố hỏi thật sao? Rồi lại nói làm gì có chuyện đó. Những người phụ nữ đó lạnh lùng nhìn người Đinh Trang một cái, liếc bố tôi một cái, rồi về nhà nấu cơm. Giống như lời hỏi của bố tôi đã sỉ nhục họ, nên chẳng thèm nói chuyện với người Đinh Trang nữa, đi rồi còn quay đầu lại nhìn bố tôi một cái với vẻ rất coi thường.

Bố tôi liền ngây ra. Đứng trên đường phố chỉnh tề sạch sẽ của thôn Thượng Dương, thấy lại có một người phụ nữ ba mươi mấy tuổi xách cá và rau xanh đi đến, vội vã đi lên phía trước ngăn người ta lại, nói, này, cá này, rau này của các chị được phân thật đấy à?

Người phụ nữ ba mươi mấy tuổi đó dùng ánh mắt nghi ngờ nhìn bố tôi.

Bố liền hỏi, ngày ngày phân cá phân thịt, các chị lấy tiền ở đâu?

Người phụ nữ liền xắn tay áo lên cùi chỏ của chị ta, lộ ra những mắt kim như đám hạt vừng đỏ trên cánh tay, rồi nheo mắt nhìn bố tôi một cái, ngạc nhiên nói, các anh đến thôn Thượng Dương tham quan không biết Thượng Dương chúng tôi là thôn nguồn máu kiểu mẫu của toàn huyện, toàn tỉnh à? Không biết chúng tôi nhà nhà hộ hộ đều bán máu sao?

Bố liền nhìn những mắt kim châm như đám hạt vừng trên cánh tay của chị ta im lặng hồi lâu, thay chị hít một hơi khí lạnh, hỏi tiêm như thế này có đau không?

Người phụ nữ cười cười, ngày mưa thì có chút ngứa, như kiến cắn ấy.

Bố lại nói, ngày ngày bán máu mọi người không váng đầu sao?

Người phụ nữ đó lại nhìn bố tôi có chút kinh ngạc, sao có thể ngày ngày bán, mười ngày, nửa tháng còn chẳng bán nữa là. Không cho anh bán, người anh còn phù lên khó chịu, như tức sữa mà không cho con bú ấy.

Cuối cùng cũng hỏi xong.

Để cho người phụ nữ đó xách cá và rau xanh về ngôi nhà số 25 trên phố Quang Minh của chị.

Người Đinh Trang lại bắt đầu tản ra đi trên đường phố thôn Thượng Dương, xem hai dãy nhà lầu hai bên phố, xem chuồng lợn và chuồng gà ở đầu thôn, nhà trẻ ngói đỏ chóp xanh phía trước thôn, trường tiểu học không một hạt bụi phía sau thôn, hoặc là xem ruộng nương của những người trung tuổi và người già vì bị bệnh mà không thể bán máu. Muốn xem gì thì xem đó, muốn hỏi gì thì hỏi đó, mọi người không hỏi vòng vo, đáp cũng không cần trốn tránh, khiến bạn không thể không tin họ là thôn nguồn máu điển hình của toàn tỉnh, toàn địa khu, toàn huyện, cuộc sống trong mơ này đều là nhờ bán máu. Trạm máu của huyện và địa khu được xây ở ngã tư trung tâm thôn, phía trên cổng dựng một chữ thập màu đỏ như bệnh viện, bác sĩ ở đó ra ra vào vào, công việc hàng ngày chính là lấy máu và xét nghiệm, sau đó lại phân ra các loại máu và tập trung trong cái bình lớn đựng được cỡ mười cân, khử trùng xong, niêm phong lại, sau khi trải qua quá trình xử lí thì chuyển đi chỗ khác.

Bố liền đến trạm máu đó xem, người ta hỏi bố đến bán máu à? Bố lắc đầu với người ta, người ta liền bảo bố ra khỏi trạm máu, sợ bố đem vi trùng vào trong trạm máu. Sau đó bố liền cùng với vài người trẻ tuổi trong thôn, cứ thế bước về phía một con phố to rộng nhất, tên là phố Khang Trang, ở giữa phố nhìn thấy một câu lạc bộ. Trong câu lạc bộ toàn là những người thanh niên và trung niên, mặt mũi hồng hào, tinh thần phấn chấn, không đánh bài thì đánh cờ, hoặc vừa cắn hạt dưa vừa xem ti vi, xem tiểu thuyết, đánh bóng bàn, loại bóng mà chỉ ở trường học và thành phố người ta mới đánh. Vì xuân đã ấm, hơi ấm trên bình nguyên đã nóng như đầu hạ, họ không làm ruộng, mà chơi trong câu lạc bộ, nhưng trên trán mỗi người đều có mồ hôi như đang trồng trọt, họ đánh bài, đánh cờ đến mức kích động, hét hò ầm ĩ, xắn tay áo của mình lên, những thanh niên, trung niên này cũng như người phụ nữ ba mươi tuổi kia, trên mỗi cánh tay đều lộ ra một đám kim châm, như có một đám hạt vừng đỏ đen đang phơi trên đó. Bố liền cùng với mấy người trong thôn đi loanh quanh trong câu lạc bộ, rất muốn hỏi họ vài câu, nhưng thấy người ta đều bận đến mức không thèm nhìn mình, liền ra khỏi câu lạc bộ.

Ngay ở cửa hỏi một thanh niên vừa cắn hạt dưa vừa đọc tiểu thuyết.

- Năm nay cậu bao nhiêu tuổi?

- Mười bảy tuổi.

- Không đi học nữa sao?

Thanh niên lạnh lùng nhìn bố và người Đinh Trang một cái, nói lên đại học làm gì? Tôi chỉ cần mỗi tháng đến trạm máu bán máu một lần, lĩnh thẻ bán máu, trong thôn liền phân cho tôi một cái biệt thự nhỏ, ngày ngày không làm ruộng, tháng tháng đều có tiền tiêu không hết. Lên đại học tôi lấy vợ còn phải mất tiền sắm lễ, nhưng tôi có thẻ bán máu, các cô gái thôn khác phải tranh nhau để lấy tôi. Gả cho tôi nếu cô ta không có của hồi môn, không xinh đẹp thì tôi còn không thèm lấy. Gả cho tôi, cô ta có ăn có mặc có biệt thự, không làm ruộng, sống còn sướng hơn người thành phố.

Nói một cách dương dương tự đắc như vậy, rồi lại lãnh đạm liếc người Đinh Trang một cái, nói xong, cậu ta xoay xoay mông, xoay lưng lại bố tôi, hừ mũi một cái, rồi lại lầu bầu nói, các anh là thôn nào? Không ở nhà bán máu còn chạy đến đây xem cái gì.

Bố tôi và người Đinh Trang liền ra khỏi câu lạc bộ đó, đứng trên đường phố lát xi măng bằng phẳng rộng rãi, để ánh mặt trời sáng chói chiếu vào, tắm trong hơi ấm và hương thơm nồng nàn xán lạn đến từ thôn Thượng Dương, mỗi người đều xắn ống tay áo của mình lên cùi chỏ, để hai ống tay áo lộ ra ngoài, để ánh nắng soi lên từng mẩu từng đoạn da và thịt trên cánh tay, giống như từng khúc, từng đoạn của củ cải đỏ bày ra trên phố lớn, có một mùi da thịt, vừa sống vừa tanh tràn ra trên bầu trời thôn Thượng Dương, giống như có một dòng nước sông vừa đục ngầu vừa dính sệt cuốn theo bùn cát chảy qua đường phố sạch sẽ.

Họ nhìn vào cánh tay nhẵn nhụi của mình nói:

- Mẹ kiếp, họ là người còn chúng ta không phải người sao!

Họ vỗ vào cánh tay không một vết sẹo của mình nói:

- Mẹ kiếp, bán. Cho dù chết cũng phải bán.

Họ dùng tay vặn mạch máu trên cánh tay, vặn đến mức thịt trên cánh tay nổi lên miếng xanh, miếng tím, giống như thịt ba chỉ trên người con lợn, nói:

- Mẹ tám đời nhà nó, chỉ có máu và tay của nó là vàng thôi sao?

⚝ 4 ⚝

Đinh Trang bắt đầu bán máu.

Đinh Trang đùng một cái bán máu đến phát điên.

Trong một đêm, Đinh Trang mấy trăm con người, đột nhiên mọc lên mười mấy cái trạm máu. Trạm máu Bệnh viện huyện, trạm máu Bệnh viện xã, trạm máu Ủy ban xã, trạm máu Công an huyện, trạm máu Phòng Tổ chức, trạm máu Phòng Truyền thông, trạm máu Trạm thú y, trạm máu Phòng Giáo dục, trạm máu Phòng Công thương, trạm máu Quân đội, trạm máu Hội Chữ thập đỏ, trạm máu Trạm phối giống, hết trạm này đến trạm khác, dựng một tấm biển gỗ, viết lên vài ba chữ, cử đến hai hộ sĩ và kế toán, một trạm máu liền được thành lập.

Ở đầu thôn, ở ngã tư, ở gian phòng nhà ai còn bỏ trống, hoặc là quét dọn chuồng trâu vốn bỏ không, đem rửa một tấm ván, gác tấm ván lên cái máng trâu, đặt kim tiêm, ống tiêm, bình thủy tinh, rồi lại treo bình thủy tinh lấy máu lên xà ngang chuồng trâu, thế là bắt đầu mua máu, bán máu.

Trong thôn chỗ nào cũng đầy mùi máu tanh tưởi tươi mới, chỗ nào cũng treo ống nhựa truyền máu như dây như leo, và bình máu như trái nho đỏ. Chỗ nào cũng đầy các bình máu và thùng máu thu thập các máu loại O, loại A, loại B, loại AB. Trên đất chỗ nào cũng có máu nhỏ giọt và máu bắn ra tung tóe, không khí cả ngày tỏa ra mùi máu tanh đỏ thẫm. Trên cành cây mùa xuân, trên lá xanh, vì lá cây mỗi ngày đều hít thở mùi và vị đỏ sậm, lá cây thầu dầu, cây du, cây bào đồng đều bắt đầu có chút màu đỏ nhạt. Không khí cũng có màu đỏ sẫm. Lá cây hòe vừa mỏng vừa mềm, trước kia dưới ánh mặt trời những chiếc lá mới mọc đều có màu vàng nhạt, gân lá giống như đường chỉ màu nâu nhạt, nhưng năm nay, lá cây hòe mới mọc đều trở thành màu đỏ nhạt, gân lá đỏ thành màu nâu tím. Trạm máu Trạm thú y đặt ở dưới gốc cây hòe phía tây thôn, vì hút nhiều máu, không ngờ chẳng bao lâu, lá vàng của cây hòe trở nên đỏ như lá cây hồng mùa thu, hơn nữa lá cây hòe năm đó còn to hơn rất nhiều, dày hơn rất nhiều lá cây hòe trước đây.

Chó trong thôn, mỗi ngày đều ngửi mùi máu chạy về phía trạm máu, bị người đá cho một phát còn muốn gặm lấy mấy cục bông y tế đã thấm máu chạy đi, trốn ở đâu đó ăn miếng bông đã thấm máu vào trong bụng.

Các bác sĩ và y tá mặc áo blu trắng ở Đinh Trang bận đến mức trên trán lấm tấm mồ hôi, đi vào đi ra, tay chân không ngừng nghỉ, giống như vội đi trảy hội làng. Họ gặp ai cũng đều nói ấn bông vào chỗ tiêm năm phút. Ấn năm phút, trở thành câu cửa miệng của mỗi bác sĩ, y tá. Nụ cười dồn đống trên mặt họ, vui như Tết, lấy máu cho người này xong rồi, lại lấy máu trên người người kia, bận đến mức mồ hôi trên mặt không kịp rớt. Trên đường thôn, chỗ nào cũng là bông sát trùng và đầu kim tiêm bỏ, chỗ nào cũng là ống tiêm thủy tinh và bình thủy tinh bị vỡ.

Bác sĩ yêu cầu lấy máu xong thì uống nước đường, đường trong cửa hàng toàn huyện liền hết sạch, nếu cần gấp thì đến tỉnh khác, thành phố khác nhập đường về.

Bác sĩ bảo sau lấy máu xong thì nằm trên giường nghỉ ngơi dăm ba ngày, trong ngõ phố Đinh Trang, cho dù trong nhà hay ngoài phố, hễ chỗ nào có ánh mặt trời là có giường trúc, giường gỗ bày đầy ra đó.

Bác sĩ cho phép người thôn kế bên đến Đinh Trang bán máu, trên đường phố Đinh Trang người như mắc cửi, qua lại không ngừng. Trên đường phố Đinh Trang cũng có thêm hai nhà mở quán ăn, thêm hai nhà chuyên bán muối, bán đường, hàng tạp hóa bán thuốc bổ.

Đinh Trang phồn hoa rồi.

Đinh Trang náo nhiệt rồi.

Trong chớp mắt Đinh Trang liền trở thành thôn nguồn máu kiểu mẫu của huyện Vy. Trưởng phòng Cao của phòng Giáo dục năm đó đã bán con xe jeep rách của ông ta, mua một chiếc xe hơi đời mới kiểu mới. Khi Trưởng phòng Cao lần đầu tiên ngồi trên con xe đời mới của ông quay lại Đinh Trang, chạy mấy vòng quanh thôn, nhìn nhìn ngó ngó, sau khi đến từng trạm máu thăm hỏi tình hình, rồi trực tiếp đến trường tiểu học Đinh Trang nắm lấy tay ông nội tôi, nói đi nói lại những lời cảm ơn và kính phục ông tôi. Ông ta nói thầy giáo Đinh, ông là cứu tinh của Đinh Trang.

- Ông là cứu tinh giúp Đinh Trang thoát nghèo!

⚝ 5 ⚝

Sự phồn hoa của Đinh Trang qua đi rất nhanh, chẳng mấy chốc thì nước cạn đá bày.

Sự náo nhiệt của Đinh Trang qua đi rất nhanh, chẳng mấy chốc đã có mấy phần lạnh lẽo.

Đúng lúc này, Đinh Trang liền xuất hiện một nhân vật là bố tôi.

Đinh Trang bán máu theo kiểu tuần hoàn, theo độ tuổi, nhóm máu và tình trạng sức khỏe của mỗi người, người Đinh Trang già thì tối đa năm mươi tuổi, trẻ thì từ mười tám, đều được phát một tấm thẻ lấy máu, màu vàng nhạt, giấy da bò, rộng tấc rưỡi, dài hai tấc, mặt trước viết họ tên, tuổi tác, nhóm máu và bệnh thường gặp của bạn, mặt sau vẽ một cái bảng, ghi ngày tháng và số lượng mỗi lần bạn bán máu. Theo tấm thẻ này, quy định có người ba tháng mới có thể bán máu một lần, có người hai tháng mới có thể bán một lần. Cũng may, đa số mọi người đều có thể mỗi tháng bán một lần. Với những người còn trẻ, từ mười tám đến hai mươi lăm, người sinh máu nhanh, cũng có thể để họ nửa tháng bán một bình.

Như thế, trạm máu chỉ có thể trở thành trạm lưu động, tháng này cắm ở Đinh Trang, tháng sau liền chạy đến thôn Liễu, Hoàng Thủy hoặc thôn Lý Nhị.

Cứ thế, người Đinh Trang bán máu không còn tiện nữa, không còn có thể đang bưng bát cơm, vừa ăn, vừa uống, vừa giơ cánh tay lên không trung, để một bình máu treo dưới đai lưng, cuối cùng ăn xong cơm, bình máu được hút đầy, tiền cũng nhận liền tay. Người Đinh Trang không thể giống như trước đây, khi đi làm đồng tiện đường rẽ ra trạm máu bán một bình máu đỏ tươi, cầm tờ tiền một trăm đồng soi dưới mặt trời xem là thật hay là giả, khi nhìn thấy chân dung vĩ nhân ẩn tàng dưới tờ tiền, nụ cười trên mặt liền thắm tươi xán lạn như bình máu phát sáng lấp lánh dưới mặt trời.

Cứ thế, bất ngờ một hôm, bố tôi vào thành phố trở về, vác theo một túi kim tiêm, ống tiêm, bông khử trùng và bình thủy tinh đựng máu. Về nhà đem những thứ đồ đó đặt lên chiếc giường ngủ của bố, rút một tấm ván ở chuồng lợn ra, mượn một cái bào, bào cho tấm ván đó vừa trắng vừa sáng, mời người dùng chữ Tống thể, viết bốn chữ màu đen trên tấm ván đó: Trạm máu họ Đinh, bố liền đến gốc cây hòe ở giữa thôn, nhặt một mẩu gạch đập mạnh vào cái bánh xe bò treo trên cây hòe đó, sau đó xé cổ ra gào với Đinh Trang:

“Ai muốn bán máu thì đến tìm Đinh Huy tôi - bọn họ trả 80 đồng một bình, Đinh Huy tôi trả 85 đồng một bình.”

Sau khi hô liền vài tiếng, người Đinh Trang quả thật đều từ trong nhà đi ra, từng đoàn từng đoàn vây lấy nhà tôi. Đều vây lấy nhà chúng tôi. Trạm máu họ Đinh của Đinh Trang đã ra đời vào chính buổi trưa hôm đó.

Đùng một cái ra đời.