Chương ba
Sáng sớm hôm sau, sáng sớm mùa thu. Ánh mặt trời trong buổi sớm, trên bình nguyên Dự Đông, vì là sáng sớm, nó tròn lại như cục máu, đỏ khắp đất trời. Màu đỏ trải ra, nên có buổi sớm ngày hôm nay. Trong buổi sớm, tin từ ngoài thôn truyền đến, nói có cán bộ bên trên đến, vì bệnh nhiệt, không muốn bước vào Đinh Trang, bảo ông tôi ra ngoài thôn nói vài chuyện. Ông liền đi, xuyên qua Đinh Trang, đến con đường quốc lộ phía bắc thôn, nhìn thấy cán bộ bên trên đó, hai mươi mấy tuổi, đỗ chiếc xe nhỏ ở bên đường, bộ dạng vội vã, nói cuộc họp hôm qua yêu cầu tốt nhất là người bệnh mỗi thôn đều tập trung lại sống cùng một chỗ, cùng ăn, cùng ngủ, cùng quản lí. Nói Đinh Trang không có cán bộ, bên trên giao công việc này cho ông tôi, yêu cầu ông nhanh chóng tập trung những người bệnh lại.
Ông tôi nói: “Tôi làm sao được, tôi làm sao được?”
Cán bộ nói: “Ông sao không được? Mười năm trước khi động viên bán máu, Trưởng phòng Cao nói cả ngày không xong, chẳng phải ông chỉ mất vài câu là đã kêu gọi được Đinh Trang?” Những lời này khiến ông tôi kinh ngạc, muốn hỏi cán bộ đó là ai, người ta nhìn ông cười cười, nói mình là thư kí của Huyện trưởng Cao trên huyện. Nói Huyện trưởng Cao vốn là Trưởng phòng Giáo dục, bây giờ là Huyện trưởng. Phó của Huyện trưởng [6] . Vì năm đó ông ta tổ chức bán máu hiệu quả nhất, được thăng làm Huyện phó, không chỉ quản giáo dục, mà còn phụ trách cả công tác bệnh nhiệt trong toàn huyện. Nói trong dăm ba ngày nữa, nếu ông tôi không tập trung người bệnh của Đinh Trang lại, sau khi bệnh nhiệt qua, sẽ phá trường tiểu học Đinh Trang. Nói xong rồi đi, ngồi trên chiếc xe con màu đen, đi rồi còn thò đầu ra cửa xe gào: “Tôi nói với ông rồi đấy, có tổ chức người bệnh cùng ăn cùng ở hay không, là việc của ông.”
Ông tôi ngây ra một lúc bên đường, bắt đầu đi vào thôn, nghĩ đến cán bộ cấp trên đó, kể cũng có chút hoang đường, việc lớn ngút trời, việc liên quan đến mạng người, vài câu như vậy là xong. Nghĩ cho dù thế nào, đã cùng ăn cùng ở, thì bên trên cũng phải vào thôn tuyên bố một chút, làm gì có chuyện nói xong rồi đi, không chút dấu vết như khói thoảng qua. Ông vừa đi vừa nghĩ, những việc nên để Trưởng thôn làm ở Đinh Trang này, không ai làm tốt hơn Tam Nhân. Lý Tam Nhân nửa đời làm Trưởng thôn, nửa đời vì Đinh Trang làm việc, công lao tuy không nhiều, nhưng khổ lao cũng không ít, chỉ vì không muốn bán máu, không muốn tổ chức mọi người bán máu nên đã bị cách chức.
Lần cách chức này, vì rất nhiều thứ phức tạp, Đinh Trang đã mười năm không có cán bộ. Không có cán bộ, rất nhiều việc, đều bị gác lại. Việc bệnh nhiệt, việc mạng người, đương nhiên phải có người quan tâm. Ông muốn đến nói với Tam Nhân, nói Đinh Trang có tai họa bệnh nhiệt này, không có cán bộ dứt khoát không được, việc này cần ông đứng ra gánh vách, đứng ra tổ chức người mắc bệnh nhiệt đến sống trong trường học, cùng ăn, cùng ngủ, cùng quản lí.
Ông liền đi vào thôn.
Đang đi thì nhìn thấy trong ánh mặt trời như lửa, đứa con Đinh Tiểu Tứ nhà Đinh Hương Lâm từ trong thôn chạy về phía ông. Vừa chạy vừa kêu, tay chân múa loạn lên:
“Thầy giáo Đinh - bố cháu sắp chết rồi, ông ấy muốn thầy qua một chút.”
Mặt ông liền trắng nhợt vì kinh hãi, liền bước nhanh về phía đứa trẻ, dắt tay nó vội vã đi vào thôn. Đến nhà Đinh Hương Lâm, quả nhiên nhìn thấy Đinh Hương Lâm nằm trên giường, người co quắp, co giật từng hồi ở trên giường, như thể có chỗ nào đó đau đớn khó chịu trong người. Nhà là nhà ngói mới xây mấy năm trước, tường trong nhà còn chưa kịp quét vôi trắng, cả nhà đã dọn vào trong phòng ở. Khi xây xong căn nhà đó, Đinh Hương Lâm thường ở ngoài cổng nhìn vào trong nhà nói:
“Ông trời ơi, không ngờ trồng trọt cả đời, không trồng ra được một gian nhà ngói, bán máu một năm, đã bán ra luôn ngôi nhà ngói ba gian này.”
Ông liền bán máu, xây nhà. Nhưng không kịp bán thêm hai lần nữa để quét vôi trắng lên mặt tường thì bệnh nhiệt ập đến. Tất cả các trạm máu đều đột ngột biến mất. Chiếc xe thu mua máu có thể giữ lạnh mà mỗi đêm đều dừng ở bên đường cũng không xuất hiện nữa, máu trong người ông trướng đến mức làm huyết quản đau đớn, nhưng cũng không có nơi nào để bán tiếp.
Ông liền hối hận nói: “Sớm bán thêm vài lần thì tốt, để vợ tôi, con tôi cũng bán thì tốt, thì đủ vôi quét nhà.”
Khi ông mắc bệnh nhiệt, mắc bệnh nhiệt nửa năm, chắc sẽ chết chỉ hôm nay ngày mai, ông bỗng cảm thấy nên gọi ông tôi đến, nên nói với ông tôi vài câu.
Ông tôi đứng trước giường ông, nhìn vợ và bốn đứa con của Đinh Hương Lâm, lố nhố cao thấp bên giường, mặt mỗi người đều có màu trắng xám, như bức tường chưa kịp quét vôi trắng kia.
Tối qua khi Đinh Hương Lâm hát trụy xong trở về nhà, không cẩn thận bị ngã lăn ra đất. Ngã lăn ra đất thì ngã lăn ra đất, nhưng lại bị rách đùi, chảy máu. Chảy máu thì chảy máu, đầu tiên là đau chỗ rách, băng bó lại, cầm máu xong thì đau khắp người. Đau không hiểu vì sao. Động vào chỗ nào đau chỗ đó, thế là ông liền nằm co trên giường như con tôm khô, cả đêm không dám động đậy, cả một đêm nằm co, trên trán có những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu. Mồ hôi vàng xán lạn. Nhìn thấy ông tôi bước vào phòng, Ông nghiến răng trở mình một chút, quay đầu chỉ vào chiếc ghế, nói khẽ:
“Thầy giáo Đinh, mau ngồi đi.”
Ông tôi không ngồi, đứng đó nói: “Ông là người lớn, đi đường sao không cẩn thận một chút.”
Đinh Hương Lâm liền co lại bên giường, mặt nở nụ cười.
“Thầy giáo Đinh,” ông nói. “Tôi biết mình chẳng sống được bao lâu nữa. Sắp chết rồi, thầy có thể nói một câu thật lòng với tôi không?”
Ông tôi hỏi: “Ông hỏi gì?”
Ông ta liền nói: “Có thật là có loại thuốc mới có thể chữa khỏi bệnh nhiệt không? Tiêm một mũi không đến mấy ngày thì bệnh nhiệt sẽ khỏi không?”
Ông tôi nghĩ một lúc, im lặng một hồi rồi nói: “Ông không tin sao? Đinh Thủy Dương tôi sống sáu chục tuổi đầu rồi, tôi có thể nói dối bà con sao? Tôi cả đời ở trường học, cho dù là chỉ là thầy giáo một nửa cũng không thể nói dối.”
Đinh Hương Lâm nhìn ông tôi một cái, trên mặt lại nở nụ cười vàng võ, nói: “Lòng tôi lo sợ, e không chờ được thuốc này.” Nói đến đây, ông lại nhìn ông tôi một cái, như thể sợ ông chế giễu mình, ông cười một mình, cười xong thì tự nói: “Thầy giáo Đinh, nói thầy đừng cười, thầy biết hồi còn trẻ tôi từng theo người ta học hát trụy, hát không tốt nên bị sư phụ đuổi đi, cả đời tôi nằm mơ cũng chỉ muốn được đứng trên sân khấu hát vài khúc trụy. Không ngờ tôi hát không tốt, đêm hôm qua lại có nhiều người đến nghe tôi hát vậy. Không ngờ khi tôi hát trụy toàn thân lại có sức sống.” Rồi lại cười cười, nụ cười pha chút đắng: “Thế này nhé, thầy giáo Đinh, tôi muốn mỗi ngày đều hát trụy để chờ thuốc đó, không chừng nhờ hát trụy tôi có thể sống thêm được mấy ngày, có thể thực sự chờ được thuốc mới.” Nói: “Thế này nhé, tôi nghĩ trường học là một nơi tốt để hát trụy, thầy chỉ cần thay tôi hô hào một tiếng là được. Thầy ra mặt hô một tiếng, người Đinh Trang có bệnh hay không, họ sẽ đều đến trường, sẽ ngồi kín sân trường.”
Nói: “Ban đầu chính thầy kêu gọi nên Đinh Trang mới đi bán máu. Bây giờ tôi bán ra bệnh nhiệt rồi - bán ra bệnh nhiệt rồi, muốn xin thầy đứng ra kêu gọi mọi người đến trường học, để tôi mỗi ngày hát một vở cho họ nghe.”
Ông ta nói: “Thầy giáo Đinh, nói thật với thầy, toàn bộ máu của tôi đều bán hết cho cậu cả nhà thầy rồi, khi cậu cả nhà thầy lấy máu của tôi, một cục bông có thể lau chín lần trên cánh tay của ba người. Chuyện ấy tới giờ tôi chưa từng nói ra, nhưng cậu cả nhà thầy đến bây giờ, đi trên đường nhìn thấy tôi cũng không thèm gật đầu với tôi một cái. Chuyện ấy tới giờ tôi chưa từng nói ra, tôi chỉ xin thầy ra mặt kêu gọi mọi người đến nghe tôi hát trụy vài lần, không chừng hát vài khúc trụy, trong lòng phấn chấn thì có thể chờ được thuốc.”
Ông tôi đứng bên giường của Đinh Hương Lâm, nghĩ một hồi, rồi lại nghĩ thêm hồi nữa, rồi mới dùng sức gật đầu với ông:
“Ông muốn khi nào thì hát?”
Đinh Hương Lâm liền cười: “Tốt nhất là đêm nay hát cho người trong thôn, họ thích nghe thì sau này ngày nào tôi cũng hát.”
⚝ 2 ⚝Ông tôi liền đến từng nhà từng hộ thông báo đêm nay đến trường học nghe Đinh Hương Lâm hát trụy. Đẩy cửa nhà này nói:
“Này, tối đến trường học nghe trụy đi, có thuốc mới trị bệnh nhiệt rồi, còn ở trong nhà làm gì cho bí bức.”
Người ta hỏi: “Có thuốc mới thật sao?”
Ông tôi liền cười: “Tôi dạy học cả đời, chưa bao giờ nói dối một câu nào cả.”
Rồi lại đẩy cửa một nhà khác:
“Này, đừng có rầu rĩ cả ngày trong nhà như thế, tối đến trường học nghe hát trụy đi.”
Người ta nói: “Vẫn là Đinh Hương Lâm hát à?”
Ông tôi nói: “Bệnh nhiệt của ông ta đến lúc rồi, trước khi chết muốn hát một bài cho thật đã, buổi tối không có việc gì thì đến nghe nhé.”
Ông tôi cứ thông báo cho từng nhà từng nhà như vậy.
Khi thông báo đến phố mới, bố tôi, mẹ tôi và Anh Tử đang đi trên con đường xi măng của phố mới về nhà. Trong tay mẹ cầm một bó rau, khỏi cần nói, ba người nhà họ vừa từ vườn rau về. Nhìn thấy ông, họ đều đứng ngây giữa phố, như gặp phải một người không muốn gặp. Ông cũng đứng ở giữa phố, trên mặt nở nụ cười gượng gạo, nói với cháu gái rằng: “Anh Tử, tối đến trường học nghe hát nhé, vui hơn xem ti vi ở nhà nhiều.” Mẹ không đợi con gái bà đáp lời, liền kéo cánh tay Anh Tử về nhà. Lướt qua người ông để đi về.
Đi về rồi, chỉ còn lại bố tôi và ông tôi. Hai cha con cầm cự nhau trên phố, mắt đối nhau. Ánh mặt trời đã chếch về nam từ đỉnh đầu họ trút xuống phố mới. Trong mùi xi măng, mùi gạch ngói trên phố có hơi ấm của mùa thu. Trong cái lạnh lẽo bàng bạc từ đồng ruộng ngoài thôn mang tới, có mùi thơm tươi mới của đất mới lẫn vào. Ông liền ngẩng đầu, từ góc của một ngôi nhà mới nhìn ra, thấy người chồng Vương Bảo Sơn của Triệu Tú Cần đang cày trong ruộng nhà mình. Trước đây anh ta cũng nói trồng trọt chẳng có ý nghĩa gì, liền để đất hoang, nhưng bây giờ nghe nói có thuốc mới có thể trị được bệnh nhiệt rồi, tới mùa liền đi cày trở lại.
Nói đất đã cày có thể giữ ẩm.
Nói kịp thì trồng chút mầm cải thảo.
Nói cho dù không gieo không trồng, cày rồi thì cũng không làm cho đất xốp trở thành đất cằn.
Liền tiếp tục cày ở đó. Lúc đang cày thì ông tôi đưa mắt nhìn anh ta, ông nhìn một chút, rồi thu ánh mặt lại, trên mặt nở nụ cười, nhìn bố tôi nói: “Buổi tối con cũng đến nghe Đinh Hương Lâm hát nhé.”
Bố nói: “Nghe cái đó làm gì?”
Ông tôi nói: “Cả thôn đều đi nghe. Nhân lúc đông người, con ở trên bục dập đầu trước mọi người một cái, xin lỗi mình sai là được. Dập đầu xin lỗi thì tất cả mọi việc cũng sẽ qua.”
Bố liền nhìn ông một cách kì quái: “Bố, bố có bị thần kinh không đấy? Người Đinh Trang không ai bảo con thế này thế nọ, bố lại bắt con phải thế này thế nọ.”
Ông liền nhìn bố một cách chăm chú, nhìn thấy cơn giận xám xịt như có bức tranh hộ pháp đang dán lên mặt bố, ông liền hừ mũi một cái: “Huy, con tưởng bố không biết hay sao, hồi đó con lấy máu của người ta, ba người mới đưa một cục bông, bao nhiêu người cũng chỉ một cái kim tiêm đó.”
Bố liền lạnh lùng nhìn ông, lạnh lùng nói: “Bố, nếu bố không phải là bố đẻ của con, quả thật chắc con tát lên mặt bố một cái.” Nói xong câu này, bố liền giẫm lên bước chân của mẹ tôi đi mất. Bước qua người ông đi mất. Sượt qua vai ông đi mất. Từ bên người ông hừ mũi bước qua.
Ông liền quay người lại, đuổi theo bóng lưng của bố lớn tiếng gào: “Huy, không bảo con quỳ xuống dập đầu nữa, nhưng con đến trước mặt dân thôn nói vài câu xin lỗi được không?”
Bố tôi không quay người lại, cũng không tiếp lời ông nữa.
Ông liền đuổi thêm một bước hỏi: “Có phải một câu xin lỗi con cũng không muốn nói không?”
Bố liền đẩy cổng nhà tôi, đẩy xong lại quay đầu ra nói lớn với ông: “Sau này bố không cần phải hận Đinh Huy này nữa, trong năm nay, nhà con sẽ rời khỏi Đinh Trang này, về sau bố đừng nghĩ đến việc gặp lại đứa con này nữa.”
Nói xong, bố liền né người, lách vào góc sân nhà mình, đóng sầm cửa lại, còn lại ông, ông đứng chôn chân trên phố mới như một cái cọc, lại một lần nữa nhìn thấy cảnh tượng bán máu, nhìn thấy cõi mộng toàn máu đỏ.
⚝ 3 ⚝Ngoài trạm máu họ Đinh nhà chúng tôi ra, Đinh Trang còn có trạm máu họ Vương của nhà Vương Lâm, trạm máu họ Giả của Giả Minh Lượng, trạm máu Xuân Lai của Lưu Xuân Thủy. Chí ít Đinh Trang có bảy hoặc tám cái trạm máu tư, họ lấy máu xong không biết bán đi đâu, liền bán cho nhà tôi. Bố liền tập hợp máu lại phân loại theo nhóm máu, loại A thì đổ tất vào một cái thùng lớn loại A, loại B thì đổ tất vào cái thùng lớn loại B, loại AB thì đổ vào cái chậu lớn AB. Cho dù máu của bạn loại gì, cứ có bệnh viêm gan, mỗi cân máu của bạn sẽ đắt hơn người khác hai mươi đồng. Máu viêm gan có thể trở thành vắc xin gan, vì thế những người mắc bệnh gan có đường phát tài, mỗi ngày mặt đều tươi rói, người ta một tháng bán máu hai lần, họ hận không thể một tháng bán năm lần. Người ta một tháng bán năm lần, họ lại hận không thể ba ngày bán một lần. Máu viêm gan phải phân ra thành gan A, gan B và gan C, trong mỗi loại máu viêm gan tất nhiên cũng phải phân thành loại A, loại B, loại AB, như thế phải có đủ các loại các cỡ, chậu chậu, hộp hộp, bình bình, túi túi, tường tận tỉ mỉ phân phân chia chia các loại máu, sau đó vào thành phố mua mấy chai bia ngon, đem bia ngon về đổ vào mỗi thùng, chậu, hộp, bình, túi đó, lấy hai tay khuấy khuấy lắc lắc, chờ khi hương lúa mạch trong bia biến hẳn thành mùi máu cũng là lúc bia đã hòa trong máu. Bọt bia và bọt máu hòa làm một. Cuối cùng lấy máu trong thùng lớn chia vào những túi ni lông năm nghìn cc một túi, cho túi loại A vào hòm loại A, túi loại B vào hòm loại B, túi loại O vào hòm loại O, máu viêm gan phân đến các loại hòm máu viêm gan, đến nửa đêm chuyển những hòm máu này đến xe thu máu bên đường thì việc của bố hoàn thành, cầm về nhà một xấp tiền to. Xe thu máu liền kéo chỗ máu đó đi trữ trong kho máu chờ truyền máu cho người khác hoặc làm chế phẩm huyết tương.
Bởi vì nhà tôi lấy máu, thu mua máu luôn cao hơn Chính phủ năm đồng, trạm máu của Chính phủ dựng lên chưa đầy một năm đã đìu hiu. Không ai muốn bán máu của mình cho các trạm máu của Chính phủ. Trạm máu của Chính phủ không lo ăn uống, trạm máu của nhà tôi chỉ cần bạn là người thôn ngoài, người thôn khác, nếu bạn bán máu đúng vào lúc ăn cơm, sẽ có người bưng bát cơm đến tận tay cho bạn. Trạm máu của Chính phủ lấy máu còn phải kiểm tra thẻ máu của bạn, khi bạn cần bán gấp thì họ không lấy, còn nói mù mờ những lời gọi là lời khoa học. Còn cánh bố tôi chưa bao giờ kiểm tra thẻ máu của bạn, chỉ cần bạn nhớ rõ nhóm máu của mình là được. Đến trạm máu bạn báo nhóm máu của mình là được.
Không phải họ nên bán bao nhiêu thì bạn lấy bấy nhiêu, mà là họ muốn bán bao nhiêu thì bạn lấy bấy nhiêu. Không muốn kiếm tiền bạn cũng không kìm được, giống như có cục vàng từ trên trời rơi xuống muốn đập vào đầu bạn, nếu không dùng tay đỡ thì sẽ mất mạng. Để lúc nào cũng có thể dùng tay đỡ được miếng vàng đó, trạm máu nhà chúng tôi từ trong nhà dọn ra cái sân trống ở đầu thôn. Chủ nhân của cái sân đó xây nhà mới nhưng lại đi công tác trong thị xã huyện Vy, sân và nhà đều để trống. Để trống rồi, vừa khéo để nhà tôi làm trạm máu, lại thuê lấy vài cô nương nhanh nhẹn, dạy họ cách khử trùng và lấy máu, dạy họ cách tiếp khách. Mỗi ngày họ đều làm việc ở trạm máu như y tá, cuối tháng đến chỗ bố lĩnh lương.
Chẳng bao lâu, cô nương xinh đẹp nhất Tống Đình Đình liền trở thành đối tượng của chú hai tôi. Sau đó thì trở thành thím hai tôi.
Lúc đó, Chính phủ tranh nguồn máu với nhà chúng tôi, Chính phủ thấy trạm máu tư nhân thì phạt tiền, đập phá hoặc thu giữ các lọ, các bình đựng máu, chú hai tôi ban ngày thì đóng cửa đánh bài, uống bia, tối đến thì giúp bố tôi lấy máu và bán máu, ngày tháng tiêu dao như thần tiên vậy, không làm ruộng, không làm việc, không có việc gì thì huýt sáo đi lại phất phơ trên phố, cách dăm ba bữa thì lại dẫn thím hai tôi và các cô nương khác đến quán cơm bên đường, ăn cơm uống bia, đến tối thì chú ngồi ở trạm máu bảo người khác lấy máu, chú nhấc một cái ghế đến ngồi bên bàn máu, liên tục dùng lưỡi liếm đầu ngón tay, đếm tiền đưa cho những người thôn Đinh Trang, thôn kế bên đến bán máu, đưa tiền vào trong tay họ như đang phát lương.
Sau nửa đêm, máu đã lấy xong, bia đã thêm vào, việc chia túi đóng gói cũng hoàn thành, thì đem những túi máu đã dùng bỏ vào làn và rổ đến ao nước đầu thôn rửa túi. Cái ao đó là ao nước mưa, khi chưa bán máu thường có các bà các chị đến đó giặt giũ, rửa rau, khi cái ao đó dùng để giặt túi máu rồi, cánh đàn bà con gái liền không đến rửa rau, giặt giũ nữa, thế là, cái ao đó liền trở thành ao chuyên dụng để giặt bao đựng máu.
Ánh trăng như nước rắc lên mặt ao, thôn làng phía xa tĩnh lặng như một bức họa dưới trăng. Tiếng côn trùng trong ruộng hoa màu không ngừng vọng đến bên ao, tiếng ếch kêu trong ao còn to hơn đánh trống nhiều lần. Tiếng ếch lúc to lúc nhỏ lại được chen vào tiếng kim loại và tiếng đập của đầu gỗ cứng, bắn ra đỏ tóe, ầm ĩ khiến cho mấy nhà ở bên ao tỉnh giấc.
Thực ra thì, trước đây tiếng ếch ở đây cũng giống như tiếng ếch ở chỗ khác, kêu có thơ có ca, kêu như đàn như sáo, chỉ là vì bố và chú hai đến đây giặt túi đựng máu nhiều lần, ngày nào cũng giặt, đêm nào cũng giặt, nhiều thì trăm cái, ít thì mấy chục, khiến cho cái ao nước xanh cũng biến thành ao máu, nước trong biến chất, trở thành nước máu đen ứ đọng. Dần dần, ngày qua ngày, cái bụng trắng của con ếch trong ao liền trở thành màu đỏ thẫm, to gấp rưỡi cái bụng của con ếch bình thường, tiếng kêu đó liền trở thành âm thanh có kim loại và gỗ cứng gỗ đập vào nhau, ngay cả muỗi ở bên ao cũng to hơn, khỏe hơn trước, tiếng muỗi bay như tiếng bướm bay.
Bố và chú hai đến bờ cái ao này để giặt những bao máu đó, cho dù hôm nay bạn đựng máu loại A hay máu loại B, sau khi giặt xong tất cả đều đặt vào rổ vào làn, xách về treo lên dây thừng phơi đến trưa hôm sau, lần sau khi lấy máu, gặp máu loại O thì đựng vào loại O, gặp máu loại AB thì đựng vào loại AB. Nhưng đêm hôm đó, khi bố dẫn theo người đi giặt bao đựng máu, ông tôi từ trường học trở về. Trời đã nóng, ông mang chăn về nhà để đổi lấy chiếc chăn mỏng, nhìn thấy bố và chú hai tôi đang giặt túi loạt xoạt ở ao, liền đứng lại sau lưng bố nói:
- Đinh Huy, con giặt túi máu ở đây à?
Bố tôi nói, giặt ở đây thì làm sao? Trạm máu của người khác ngay giặt còn không giặt, hôm sau lại dùng chính cái túi đó lấy máu.
Ông tôi nói, sao con không dùng túi mới cho mọi người?
Bố liền nói, một túi máu hai xu, một trăm cái là hai mươi đồng. Một ngày hai mươi đồng, mười ngày hai trăm đồng, một tháng là sáu trăm đồng. Một tháng sáu trăm đồng, vậy một năm là bao nhiêu? Mười năm là bao nhiêu? Bố ở trường đánh chuông cả đời có thể kiếm bao nhiêu tiền? Cho dù tính thêm cả phân và nước tiểu mà nhà trường tặng không cho bố, đổ phân vào trong ruộng, lương thực thu hoạch mười năm có thể bán được chỗ tiền này không?
Hỏi như vậy, bố liền dẫn những người trong trạm máu của ông đi vào trong thôn.
Ông nhìn cái ao nước to hai mẫu, dài dài hẹp hẹp đó, cỏ hoang trong ao mọc mạnh như rừng, ếch nhái và muỗi to bự đều nằm trong rừng cỏ. Có một mùi tanh tưởi nồng nặc từ ao nước đó lan rộng ra ngoài, mượn ánh trăng có thể nhìn thấy mùi tanh tưởi màu đỏ đó như đám mây trước cơn mưa, cuồn cuộn trên mặt nước máu, cuộn một lúc thì từ từ dâng lên khỏi ao, bay qua thôn xóm và đồng ruộng. Ông liền đứng trong âm thanh đen đỏ đó, nghe tiếng bước chân đi về phía thôn của bố và người trong trạm máu của ông, đầu ông cũng ong ong vang theo, cuối cùng lóe lên ác niệm người con cả này không thể chết một cách dễ dàng. Ác niệm để nó sống cũng không bằng chết.
Buổi hát đã bắt đầu.
Chính là nói buổi hát trụy đã bắt đầu.
Dây điện trong phòng học được kéo ra, hai bóng đèn 100W treo trên giá bóng rổ làm cho cả ngôi trường sáng rực. Sân khấu không phải là sân khấu, mà chỉ kê vài hòn gạch lên đất, đặt hai cánh cửa lên trên, bày một cái ghế cao, để Đinh Hương Lâm ngồi khi vừa kéo đàn vừa hát, còn bày một cái ghế hơi thấp trước cái ghế cao, trên đó để một cái ấm, rót một bình trà, thế là đầy đủ rồi. Đã dựng được một sân khấu rồi. Còn dưới bục thì sao, người ngồi còn nhiều hơn cả đêm hôm trước. Nhiều hơn nhiều. Người có bệnh và người không có bệnh đều đến cả. Ăn cơm xong, họ đều giẫm lên con đường từ trong thôn ra trường học, đến hòa vào sự náo nhiệt.
Cả một đám lớn ngồi dưới sân khấu.
Cả một đám lớn đen ngòm.
Lần này có đến hai trăm người, gần ba trăm người thật. Hai, ba trăm người, cả một đám lớn đen ngòm. Người có bệnh ngồi trước, người không có bệnh ngồi sau. Cả một đám lớn đen ngòm. Cuối thu rồi. Đêm cuối thu, hơi lạnh đã trải rộng khắp cả tỉnh và huyện, trải rộng trên bình nguyên Dự Đông mênh mông. Đinh Trang, thôn Liễu, Hoàng Thủy, Lý Nhị, các thôn làng xung quanh đều thấy lạnh. Người Đinh Trang đến nghe Đinh Hương Lâm hát trụy, có người đã mặc áo bông. Có người không mặc thì vắt áo lên vai. Người có bệnh nhiệt, sợ nhất là trúng gió cảm lạnh. Bởi vì trúng gió cảm lạnh là sẽ chết, trong thôn không phải chỉ có một vụ, hai vụ, không phải chỉ một người, hai người như vậy. Thế là đều khoác áo bông, mặc áo bông, như ngồi trên sân bóng mùa đông. Cả một đám lớn, ngồi la liệt, nói chuyện với nhau. Nói chuyện có thuốc mới rồi. Nói chuyện tiêm một mũi là khỏi thì trên mặt hiện rõ vẻ hạnh phúc. Có niềm an ủi dán lên trên mặt. Nụ cười như cánh ve sầu kết lại trên khuôn mặt. Lúc này, ánh trăng đã treo lơ lửng phía sau trường. Đinh Hương Lâm đã ngồi trên chiếc ghế chuẩn bị cho ông trên bục. Cơn đau đớn ở trong người, cơn đau đớn toàn thân tối hôm qua, bây giờ dường như không còn đau nữa. Không đau nữa nhưng mái đầu vốn hoa râm của ông bây giờ đã toàn màu trắng.
Lặng lẽ chuyển sang màu trắng.
Những vết mụn vốn có màu đỏ trên mặt bây giờ đã chuyển sang xanh.
Màu xanh là sắp đi, sắp tạ thế rồi.
Sắp chết rồi.
Ông tôi xách một ấm nước sôi từ chỗ ông ở đến, cầm hai cái bát, nói to với đám người dưới bục: “Có ai uống nước không?” Rồi lại hỏi mấy người cao tuổi: “Có uống nước không?” Chờ khi họ nói không uống, ông mới để ấm và bát ở một góc sân khấu, nói to với Đinh Hương Lâm sắp chết: “Bắt đầu đi, trăng đã lên rồi.”
Buổi hát liền bắt đầu.
Cuối cùng cũng bắt đầu.
Vừa nói bắt đầu, trên người Đinh Hương Lâm liền xuất hiện kì tích. Ông thử dây đàn của mình. Dây đàn vốn dĩ đã chỉnh chuẩn rồi, nhưng ông vẫn muốn thử chỉnh một chút trên sân khấu. Hóa ra khi ông ngồi trên sân khấu chờ bắt đầu hát thì không có gì khác biệt. Tóc trắng, mụn xanh, môi đen, đó là điềm triệu rõ ràng báo hiệu người sắp chết, nhưng khi vừa nói bắt đầu, vừa thử dây hai cái, mặt ông đột nhiên hồng hào. Ông cười với người trong thôn, khi bắt đầu thu nụ cười lại để kéo đàn, vẻ hồng hào trên mặt ông giống như người trẻ tuổi chuẩn bị kết hôn, ngay cả vết mụn xanh trên mặt cũng chuyển thành màu đỏ, phát sáng dưới ánh đèn, từng chiếc từng chiếc trở thành những đốm sáng nhỏ. Tóc vẫn trắng như vậy, nhưng đôi môi đen như có máu đỏ dồn lên. Ông liền khẽ lắc đầu, nhắm hờ mắt, không nhìn ai cả, giống như không có người bên dưới. Trục đàn và dây đàn trong tay trái chuyển động khi nhanh khi chậm; tay phải kéo đẩy cung vĩ khi vào khi ra, lúc chậm lúc nhanh. Tiếng đàn như tiếng nước chảy vào vùng đất cát khô cằn, giữa âm thanh trong mát có xen chút khàn khàn khô ráp. Trong cái khô ráp đó lại có dòng chảy trong veo. Ông vừa nói vừa lắc lư cái đầu: “Trước hết tôi hát khúc dạo đầu,” rồi hắng giọng một cái, dùng cổ họng thô và khàn của ông hát khúc Xuất môn từ mà cả thôn đều biết.
Ông hát rằng:
Con sắp lên đường đi phương xa
Mẹ tiễn con đến tận đầu thôn
Giản dị vài lời căn dặn nhỏ
Ngẫm kĩ lời lời nặng ngàn cân
Mẹ dặn rằng (Nói):
Con ơi con
Ra ngoài không giống ở nhà đâu
Trời lạnh con nhớ thêm áo mặc
Bụng đói nhất định phải ăn cơm
Gặp ông già con phải kính như ông nội
Gặp bà già con phải kính như bà nội
Gặp cô thì con gọi bác
Gặp chị thì con gọi cô
Gặp em gái thì con tôn là chị
Gặp em trai thì con gọi là anh
Sau khi hát xong Xuất môn từ, ông lại bắt đầu hát Mục Quế Anh, hát Trình Giảo Kim, hát Dương gia tướng, Tam hiệp ngũ nghĩa và Tiểu bát nghĩa. Hóa ra khi thực sự để Đinh Hương Lâm thoải mái tự do hát trên sân khấu, thì mới nhớ ra, ông không thể thuộc lời bài hát, nhớ ra hồi học hát trụy năm xưa, ông là người sợ học thuộc cuốn sổ ca từ nhất. Thích hát nhất nhưng lại sợ thuộc lời nhất, lại còn luôn bị rớt từ tông cao xuống thấp khi vừa kéo vừa hát, sư phụ đành phải đuổi ông đi. Thế là Đinh Hương Lâm không hát theo cuốn sổ chép lời trên sân khấu nữa, nhớ đoạn nào thì hát đoạn đó. Những đoạn người ta có thể nhớ đều là đoạn hay. Những đoạn mà Đinh Hương Lâm có thể nhớ đều là những đoạn hay. Như thế, cả đêm những đoạn mà Đinh Hương Lâm hát đều là tinh hoa trong hí khúc. Tinh hoa cũng như mật ong, có mùi rượu lâu năm. Hơn nữa, đây là lần đầu tiên trong đời Đinh Hương Lâm đường đường chính chính hát trụy cho người trong thôn nghe. Là hát trụy trên sân khấu. Là buổi hát ông tôi tổ chức riêng cho khi ông bệnh nặng. Là buổi hát để ông hoàn thành tâm nguyện trước lúc qua đời, tất nhiên phải nhập tâm và chuyên chú gấp trăm lần. Mắt khép hờ, không nhìn ai cả, tay trái đặt trên cung vĩ và trục đàn lúc lên lúc xuống, tay phải ôm lấy cung vĩ đẩy vào rồi lại kéo ra. Cổ họng tuy hơi khàn, càng lúc càng khàn, nhưng những phương ngữ và thổ ngữ nhả ra từ miệng ông, từ nào người Đinh Trang cũng hiểu. Những câu chuyện và nhân vật trong hí khúc, người có tuổi một chút trong thôn thực ra đều biết, gì chứ Mục Quế Anh, Trình Giảo Kim, Dương Lục Lang, những nhân vật này mỗi năm đều xuất hiện trong tranh Tết. Câu chuyện về họ giống như những việc Đinh Trang mới gặp hôm qua. Biết chuyện rồi lại chỉ nghe toàn đoạn hay, cũng như ăn một bàn tiệc toàn thức ăn ngon vậy. Còn thiếu niên, thanh niên, hay trẻ con không rõ ngọn nguồn lạch sông của những câu chuyện đó, thì chỉ nhìn màn biểu diễn và sự nhập tâm của Đinh Hương Lâm cũng đủ rồi. Trên trán Đinh Hương Lâm có mồ hôi, trên khuôn mặt sắp chết lóe lên hồng quang, khi lắc đầu lắc mặt, những giọt mồ hôi trên trán, dưới cằm bị ông hất đi, như những hạt ngọc bị ông hất khỏi sân khấu. Khi ông hát, tay chuyển động, đầu lắc lư, chân cũng đánh nhịp vào tấm ván cửa. Tiếng bộp bộp do chân trước của ông gõ vào tấm cửa gỗ liễu, như tiếng mõ gõ không ngừng trên sân khấu. Khi hát tới đoạn mấu chốt, ví như khi Dương Lục Lang đến hồi nguy cấp, chân của ông, chân phải, sẽ nhấc lên giẫm xuống tấm cửa, như chân ông đang đạp vào mặt trống.
Người ông như đang ngồi trên mặt trống.
Sân trường chất đầy âm nhạc của Đinh Hương Lâm. Ngoài âm thanh của ông, không có âm thanh nào khác. Tĩnh đến mức khó tả. Trăng sao trắng sữa trên trời. Trắng như sữa, bình nguyên dềnh lên sữa trắng. Những mầm mạch đã hiện màu xanh nhạt trên đồng ruộng, âm thanh của sự sống như đám lông chim sẻ từ không trung rơi xuống. Còn có mùi thơm khô trắng của cỏ dưới ánh trăng, những cọng cỏ vốn đã khô cong trong đêm thu, hoang trong những khoảnh ruộng vô vọng. Còn có mùi cát khô của cổ đạo Hoàng Hà cách đó không xa, mùi vị như cát rang trên lửa rồi lại được rắc thêm chút nước, tất cả đang phủ lên, tỏa ra trong sân trường này. Đang dày đặc lên, trở thành sự yên tĩnh khác lạ dẫn dụ lòng người. Lại vì tiếng hát của Đinh Hương Lâm, có mùi vị khác lạ.
Ông cứ lắc đầu hát như thế, hát nhập tâm như không có lần hai, ngay cả cổ họng của ông càng ngày càng khàn ông cũng không biết nữa. Người Đinh Trang cũng đang chăm chú, nhập tâm lắng nghe như thế. Cũng không hoàn toàn chỉ là nghe chăm chú, mà còn là nhìn chăm chú. Nhìn Đinh Hương Lâm đang thả hồn phiêu trong buổi hát độc nhất vô nhị này, đều quên mất mình cũng giống như ông đang là bệnh nhân bệnh nhiệt, không phải hôm nay thì cũng là ngày mai hoặc là ngày kia sẽ chết. Đều hòa trong sự nhập tâm của Đinh Hương Lâm. Quên hết mọi thứ. Không nhớ gì nữa cả. Trong trường học, ngoài tiếng hát của Đinh Hương Lâm, tiếng đàn của ông, và tiếng nhịp chân của ông xuống tấm ván cửa, không còn một âm thanh nào khác.
Không có gì nữa cả.
Tĩnh kì lạ. Tĩnh như chết. Nhưng chính trong cái tĩnh này, trong cái tĩnh tuyệt đối mà hai, ba trăm người như một người, khi Đinh Hương Lâm hát “Tiết Nhân Quý vung đao đi chinh tây, ba ngày ba đêm tám trăm dặm, đến giữa thôn người ngựa mệt nhoài, nghìn quân vạn mã đều đổ gục”, sân khấu trong trường không tĩnh nữa. Mới đầu chỉ thì thào, sau đó thì to dần thành tiếng. Tiếp nữa, có người quay đầu nhìn về phía sau. Không biết là gì, mọi người đều nhìn về phía sau. Trong lúc nhìn, trong lúc nói, Triệu Tú Cần và người chồng Vương Bảo Sơn của chị đột nhiên đứng dậy giữa đám người, xé cổ họng ra gào:
“Thầy giáo Đinh, thầy giáo Đinh!”
Tiếng hát nói đột nhiên ngừng lại.
Ông tôi đứng lên từ phía trước đám người: “Có chuyện gì vậy”?
Triệu Tú Cần nói to với ông: “Rốt cuộc có thuốc mới trị bệnh nhiệt hay không? Lừa một phụ nữ như tôi có nghĩa là ông lừa gạt cả thôn.”
Ông tôi lại hỏi: “Tôi dạy học cả đời, mọi người thấy tôi đã bao giờ nói dối ở Đinh Trang chưa?”
“Nhưng con trai Đinh Huy nhà ông ở phía sau, anh ta nói chưa hề nghe thấy việc có thuốc mới trị bệnh nhiệt.” Vương Bảo Sơn chất vấn ông, rồi lại quay đầu về phía sau.
Kéo theo cả đám đầu người Đinh Trang đều quay lại.
Tất cả đều nhìn thấy bố Đinh Huy của tôi kéo em gái Anh Tử đứng sau mọi người. Chẳng ai ngờ, cuối cùng ông lại đến nghe hát trụy. Đến chỗ náo nhiệt. Sợ cô đơn nên tìm đến chỗ náo nhiệt để nghe hát trụy. Trong lúc nghe hát trụy, ông liền nói câu không có thuốc mới có thể chữa được bệnh nhiệt đó.
Nói xong thì sinh chuyện.
Tất cả người Đinh Trang đều quay đầu nhìn ông, giống như có thể từ trên mặt ông, trong miệng ông lấy được thuốc mới trị bệnh nhiệt.
Đinh Hương Lâm không hát nữa. Ông đứng ở trên bục diễn nhìn xuống dưới. Cái tĩnh dưới bục diễn, cái tĩnh lạnh lẽo cuối thu, cái tĩnh dày đặc, cái tĩnh như khoảnh khắc sau khi bọc thuốc nổ đã châm ngòi, khiến tất cả người Đinh Trang im đến mức không dám thở, như thể có ai đó thở thì bọc thuốc đó sẽ nổ tung. Tất cả đều nhìn bố tôi, nhìn ông tôi, nhìn hai cha con họ, chờ xem nước cạn đá bày sẽ ra sao.
Bố đã chống lại lời ông. Bố rốt cuộc vẫn là con của ông, nhưng đã dám chống lại lời ông nói. Cách cả đám người, bố nói từ khoảng cách rất xa: “Bố, bố lừa bà con thôn xóm làm gì, cuối cùng bố có thể làm ra thuốc mới trị bệnh nhiệt không?”
Dân chúng đều dồn ánh mắt lên người ông.
Ông tôi không nói gì. Ông lạnh lùng đứng một lúc, nhìn tất cả người Đinh Trang đang nhìn ông, vòng qua đám người đi về phía con trai ông. Bước đi không nhanh không chậm. Bước đi trong ánh mắt của mọi người, vùng vẫy bước khỏi những ánh mắt đó, cách một bước chân đứng trước mặt bố tôi, trên mặt hiện rõ màu xanh và màu tím, hai hàm răng cắn chặt môi dưới, lạnh lùng nhìn con trai ông, mắt lồi lên như muốn bật khỏi tròng. Ánh đèn vàng sáng rõ, tròng mắt ông đỏ long lên, hai tay bất giác nắm chặt hai dòng mồ hôi. Bố cũng không nói gì, nhìn ông với ánh mắt thách đố. Ông và bố cứ đọ mắt như thế, một ánh mắt lạnh lẽo, một ánh mắt thờ ơ; một ánh mắt cứng, một ánh mắt ngoài mềm trong cứng. Cả hai cứ đọ mắt như thế, tất cả người Đinh Trang cũng nhìn hai người họ. Những ánh mắt trong sân trường dính đặc như rừng cây, như gió cát bay mù mịt trên khắp bình nguyên, họ cứ nhìn bố không nói gì. Cái nhìn chết chóc. Cái nhìn lạnh lẽo, nhìn một lúc, lại thêm lúc nữa, hai người như hai con trâu đang trừng mắt. Trừng mắt một lúc, vết nhăn trên miệng ông như bị ai đó kéo giật. Đột nhiên, ông “Á” lên một tiếng, nhào tới dùng hai tay bóp cổ bố tôi.
“Á!” một tiếng, xô ngã bố, nhào tới bóp chặt cổ bố.
Không ai ngờ, ông có thể nhào lên siết cổ bố không chịu buông tay, nghiến chặt răng, hét lớn: “Sao mày biết không có thuốc mới? Sao mày biết không có thuốc mới?”
Ông hét lớn:
“Tao cho mày bán máu người!”
“Tao cho mày bán máu người!”
Chính trong tiếng hét đó, hai ngón tay cái của ông ra sức ấn xuống từng chút từng chút một. Bố tôi bất ngờ bị ông xô đổ, ngã ngửa ra, đầu hướng về tây, ông liền cưỡi lên người bố, hai ngón tay cái ấn chính xác vào yết hầu của bố, chỉ một lúc cái yết hầu đã sụp vào trong cổ họng, tròng mắt bố cũng như lòi ra ngoài như tròng mắt của ông. Mới đầu bố còn dùng sức đạp chân ra, đạp đạp mấy cái trên đất, rồi dần dần không động nữa. Bàn tay ra sức đẩy ngực ông ra cũng không còn sức như trước nữa.
Sự việc có chút nhanh, như không có mây mà có giông tố vậy. Sự việc quả thực hơi nhanh, như không thấy mây mà có giông, việc ông tôi muốn bóp chết bố tôi đùng một cái xảy ra. Không thể hạ màn. Nhưng nói cho cùng, ông tôi là bố của bố tôi, bố đẻ; bố tôi là con trai của ông tôi, con đẻ, họ không nên như vậy, kẻ sống người chết. Một mất một còn. Nhưng họ đã như vậy, một còn một mất. Em gái Anh Tử của tôi đứng bên cạnh òa lên khóc, thét chói tai: “Bố! Bố!…”
“Ông! Ông!…”
Những người khác cũng đều kinh ngạc. Tất cả như đang kinh hãi, đứng đó nhìn không nói. Vây quanh xem không nói. Không nói gì, như xem một đôi dê đang húc nhau. Ai cũng nhìn mà không nói, như vây lấy xem một đôi gà chọi, chờ xem con nào thắng.
Chờ ông bóp bố chết tươi.
Nhưng em gái tôi đã hét lên ở đó: “Ông! Ông!…”
“Bố! Bố!…”
Lần này thét mạnh đến mức tay ông cứng lại trên cổ bố, không còn dùng sức như trước nữa. Giống như ai đó dùng gậy đập mạnh lên gáy ông, tay ông không còn sức nữa.
Cuối cùng ông lỏng tay ra.
Sự việc cuối cùng đã qua đi như vậy, như giông tố qua đi.
Ông như tỉnh lại từ trong mộng, đứng dậy khỏi người bố, đờ đẫn đứng trong đám người, nhìn bố tôi đang nằm dưới ánh đèn, lúng búng nói những lời mà người ta nghe không hiểu:
“Nhân lúc người đông bảo con dập đầu con cũng không chịu sao?”
“Nhân lúc người đông bảo con dập đầu con cũng không chịu sao?”
Bố cũng đã ngồi dậy, sắc mặt hết trắng bệch lại dồn đỏ lên. Một trận trắng một trận đỏ, như cố hết sức để trèo lên một cái dốc, trèo lên trên rồi, người cũng mệt nhoài, muốn ngồi xuống thở dốc nghỉ ngơi một chút. Bố kéo cổ áo ra, để gió thổi vào trong cổ, bố dùng tay kéo mạnh cái cổ áo thu đông tròn màu xám, kéo xuống dưới, để gió thổi vào trong cổ, để hai vết ngón tay bỏng rát lộ ra trên cổ, để mặc cho hai giọt lệ từ trên mắt dồn ra vẫn treo trên vành mắt. Không nói gì. Không nói ra lời. Trong cổ phát ra tiếng khò khè như người bị suyễn.
Khò khè một lúc, bố liền chầm chậm ngồi dậy, lạnh lùng nhìn ông một cái, gằn mắt nhìn ông một cái, nhưng lại đột nhiên tát một cái không mạnh không nhẹ lên mặt em gái Anh Tử của tôi: “Không cho mày đến, mày lại cứ đến, lần này tao cho mày đến! Lần này tao cho mày đến!” Rồi lại lạnh lùng nhìn, gằn mắt nhìn ông, liếc liếc người trong thôn đang đứng đó nhìn ông tôi siết cổ mình, người trong thôn không ai đến kéo ông tôi một cái, bố liền lôi Anh Tử đang khóc nhè đi mất.
Lôi con gái ông đi mất.
Cuối cùng cũng đi mất.
Trong ánh đèn, ông nhìn bố từng bước từng bước đi ra khỏi cổng trường, cứ thế nhìn theo bóng bố mờ nhòe ở cổng trường rồi ông mới quay người lại, trên mặt có mồ hôi, từng bước từng bước nặng nề bước lên bục sân khấu, đi đến trước mặt Đinh Hương Lâm đang ngây ra trên đài. Đứng trước mặt tất cả người Đinh Trang cũng đang ngây ra, ông đột nhiên quỳ xuống, quỳ rầm một cái, nói to với tất cả dân thôn:
“Bây giờ Đinh Thủy Dương tôi xin quỳ lạy mọi người. Tôi sáu mươi tuổi quỳ trước mọi người, quỳ thay con trai cả Đinh Huy của tôi. Xin mọi người nhìn con thứ Đinh Lượng nhà tôi cũng bị bệnh nhiệt giống mọi người, cháu trai tôi vừa mới mười hai đã bị người ta hạ độc, cho dù bệnh nhiệt của cả thôn là vì con cả của tôi lấy máu gây nên, nhưng việc đến mức này xin mọi người đừng để trong lòng nữa.”
Nói đến đây, ông liền dập đầu trước người Đinh Trang trên sân khấu: “Đinh Thủy Dương tôi xin quỳ xuống dập đầu trước mọi người, cầu xin mọi người đừng oán hận nhà họ Đinh chúng tôi nữa.”
Rồi lại dập đầu cái nữa: “Đinh Thủy Dương tôi có lỗi với mọi người, lúc đầu chính tôi đã nói với mọi người cái lí máu cũng như nước suối, càng bán lại càng đầy.”
Rồi lại dập đầu cái nữa: “Còn một việc nữa, chính tôi đã thay Chính phủ tổ chức mọi người đến huyện Thái tham quan, mọi người mới bắt đầu bán máu, mới bán ra cái bệnh này.”
Khi ông tôi dập đầu cái đầu tiên, thì có người đến kéo ông. Vừa kéo vừa liên tục nói: “Cần gì phải thế. Cần gì phải thế.” Rồi giữ chặt ông lại. Nhưng ông vẫn vùng người ra dập đầu ba cái, nói những điều ông cần nói, như trả một món nợ nào đó rồi đứng dậy. Ông đứng lên, quét ánh mắt một vòng như thầy giáo nhìn học sinh trong lớp, nhìn đám người đứng ngồi lố nhố dưới đài cũng đang chằm chằm nhìn ông, ông liền tuyên bố như tuyên bố bắt đầu buổi học: “Từ mai, Đinh Trang đã mười mấy năm không có cán bộ, nếu mọi người tin Đinh Thủy Dương tôi, phàm là người có bệnh, ai cũng có thể vào trường sống. Ăn ở cả trong trường, tôi sẽ lên trên xin chút lương thực trợ cấp cho mọi người. Ở trong trường, mọi người có việc gì đều có thể đến tìm Đinh Thủy Dương tôi. Đinh Thủy Dương tôi nếu không cố gắng làm cho mọi người, thì mọi người có thể đến nhà con cả Đinh Huy, con thứ Đinh Lượng để hạ độc, hạ độc lợn nhà chúng, hạ độc gà nhà chúng, cũng có thể hạ độc những người khác trong nhà chúng.”
Ông tôi nói: “Giờ tôi nói thật nhé, người ta nói bệnh nhiệt chính là bệnh AIDS. Đây là một loại ôn dịch nguy hiểm. Nhà nước cũng không có cách nào chữa trị, là loại bệnh hiểm nghèo mới mà nếu mắc chỉ còn nước chết. Bà con có bệnh nếu không sợ lây cho người nhà thì hàng ngày cứ ở trong nhà, nếu sợ lây, thì đến sống trong trường học, ăn ở trong trường, để những người không có bệnh ở nhà được an toàn.”
Nói đến đây, ông còn muốn nói điều gì nữa, liền lướt ánh mắt lên mọi người, nhưng khi sắp nói điều gì đó thì đột nhiên nghe thấy “Ầm” một tiếng phía sau, như có một cây gỗ đổ ập xuống sân khấu. Quay người lại, thì nhìn thấy Đinh Hương Lâm đã ngã khỏi ghế, cổ cong lên, sắc mặt như tờ câu đối trắng, chiếc đàn trụy rơi bên người ông, rung lên bần bật.
Đinh Hương Lâm nghe lời kêu gọi của ông tôi xong thì đổ ầm xuống bục. Có một đường máu rỉ ra kẽ miệng. Mũi cũng chảy ra hai dòng máu.
Trong trường, cuối cùng đã có hơi máu của người chết.
⚝ 4 ⚝Tạ thế rồi.
Đinh Hương Lâm đã tạ thế rồi.
Tạ thế trên sân khấu mà ông hát. Lúc chôn, ông tôi thay nhà ông ta chuẩn bị việc nhập quan, thay nhà ông mời đến một họa sĩ không biết Đinh Trang có bệnh nhiệt, vẽ cho Đinh Hương Lâm một bức tranh. Đó là bức tranh ông ngồi trên sân khấu hát say sưa, còn vẽ đầy người ở dưới sân khấu nghe ông hát. Hàng nghìn hàng vạn người đều ngồi bên dưới, nhìn ông vừa kéo đàn vừa hát. Vẽ cảnh dưới sân khấu hết chỗ ngồi, có người phải ngồi trên tường của trường học, có người trèo lên cành cây trong trường. Cả biển người. Ngàn vạn người. Trong đám người nghe hát đó, còn có người đang bán khoai lang nướng, bán nước hoa quả, bán kẹo hồ lô và kẹo mút như buổi hội làng.
Thật là một bức tranh náo nhiệt.
Cuộn bức tranh đó lại đặt trong quan tài, đặt một bên người Đinh Hương Lâm. Phía bên kia người ông, đặt chiếc đàn trụy hồ mà ông thích kéo.
Đinh Hương Lâm đã được chôn như vậy.
Cuối cùng cũng chôn rồi.